Add parallel Print Page Options

Ít-ra-en sẽ không trở về

Hỡi các bò cái Ba-san [a] trên núi Xa-ma-ri
    hãy nghe lời nầy.
Các ngươi cướp đoạt của người nghèo
    và chà đạp kẻ khốn cùng.
Rồi ngươi bảo chồng mình [b],
    “Mang cái gì đến cho tôi uống!”
CHÚA hứa như sau:
    “Thật như ta hằng sống,
sẽ đến lúc ngươi sẽ bị móc kéo đi,
    và những gì còn lại của ngươi
    sẽ bị mang đi bằng lưỡi câu.

Ngươi sẽ đi thẳng ra ngoài thành
    qua các lỗ hổng trong tường,
rồi ngươi sẽ bị ném vào đống xác chết [c],”
    CHÚA phán vậy.
Hãy đến thành Bê-tên mà phạm tội;
    hãy kéo nhau đến Ghinh-ganh [d]
    mà phạm tội thêm nữa.
Hãy dâng sinh tế ngươi mỗi sáng,
    và cứ mỗi ba ngày lại mang đến
    phần mười mùa màng của ngươi.
Hãy dâng bánh mì có men
    làm của lễ cảm tạ,
và khoe khoang về của lễ tự nguyện
    mình mang đến [e].
Vì hỡi Ít-ra-en,
    đó là điều ngươi thích làm,
    CHÚA là Thượng-Đế phán vậy.
“Ta mang đói kém đến
    trong các thành ngươi,
và các thị trấn ngươi không đủ ăn,
    nhưng ngươi không trở lại cùng ta,”
    CHÚA phán vậy.
“Ta ngăn không cho mưa xuống
    ba tháng trước mùa gặt.
Rồi ta cho mưa xuống thành nầy,
    còn thành khác thì khô ráo.
Mưa xuống ruộng nầy, còn ruộng kia thì bị khô héo cằn cỗi.
Dân chúng kiệt quệ vì khát nước,
    đi từ thành nầy sang thành khác tìm nước,
nhưng không tìm đủ nước uống.
Thế mà các ngươi cũng vẫn không trở lại cùng ta,”
    CHÚA phán vậy.
“Ta khiến cho ngươi thất mùa
    vì sâu và meo mốc.
Khi ruộng nương và vườn nho ngươi phát triển,
    thì cào cào cắn phá cây vả và cây ô-liu ngươi.
Vậy mà ngươi vẫn không trở về cùng ta,”
    CHÚA phán vậy.
10 “Ta sai đại nạn đến cho ngươi
    như ta đã làm ở Ai-cập.
Ta dùng gươm giết các kẻ trai trẻ ngươi,
    và cướp ngựa khỏi tay ngươi.
Ta khiến cho xứ ngươi hôi thối vì xác chết.
    Nhưng ngươi vẫn không trở lại cùng ta,”
    CHÚA phán vậy.
11 “Ta tiêu diệt một số các ngươi,
    như tiêu diệt Xô-đôm và Gô-mô-rơ.
Ngươi như que củi đang cháy
    được rút ra khỏi lửa,
Nhưng ngươi cũng không chịu trở về cùng ta,”
    CHÚA phán vậy.

12 “Cho nên, hỡi Ít-ra-en,
    đây là điều ta chắc chắn sẽ làm cho ngươi:
nên hỡi Ít-ra-en, hãy chuẩn bị
    mà gặp Thượng-Đế ngươi.”

13 Ngài là Đấng tạo ra núi,
    làm ra gió [f], và bày tỏ ý tưởng Ngài cho người ta biết.
Ngài biến bình minh ra bóng tối,
    bước đi trên các núi non của đất.
    Danh Ngài là Thượng-Đế Toàn-Năng.

Bài ai ca cho Ít-ra-en

Hỡi Ít-ra-en hãy nghe bài ai ca ta hát về ngươi.

“Trinh nữ [g] Ít-ra-en đã ngã xuống,
    sẽ không ngồi dậy nữa.
Nó còn lại trong xứ một mình,
    không ai đỡ dậy.”

CHÚA phán như sau:
    “Một ngàn người rời khỏi thành,
nhưng chỉ có một trăm người trở về.”

Chúa khuyên dân Ít-ra-en trở về với Ngài

Sau đây là lời CHÚA phán về dân [h] Ít-ra-en:
    “Hãy trở lại cùng ta để được sống,
Đừng nhìn về Bê-tên,
    hay đi đến Ghinh-ganh,
    cũng đừng xuống Bê-e-sê-ba [i].
Dân Ghinh-ganh sẽ bị bắt làm tù binh [j],
    Bê-tên sẽ không còn gì.”
Hãy đến cùng CHÚA để được sống,
    nếu không Ngài sẽ ra tay
    như lửa ào đến nhà Giô-xép [k].
Lửa sẽ thiêu đốt Bê-tên [l],
    không ai dập tắt.
Ngươi làm đảo lộn công lý,
    và ném lẽ phải xuống đất.
Thượng-Đế là Đấng tạo nên các chòm sao,
    Sao Cày và Sao Rua [m];
Ngài biến đêm tối ra bình minh tươi sáng,
    và biến ngày ra đêm tối.
Ngài gọi nước biển đến xối trên đất.
Danh Ngài là CHÚA.
Ngài giữ gìn thành lớn nầy,
    Ngài để cho thành lớn kia bị tiêu diệt.

Những điều ác mà dân Ít-ra-en làm

Ngươi đổi điều thiện ra thuốc độc [n].
    Ngươi diệt công lý, ném nó xuống đất.
10 Ngươi ghét những kẻ làm chứng trước toà nghịch lại điều ác,
Ngươi không chịu nổi kẻ nói sự thật.
11 Ngươi chà đạp kẻ nghèo,
    bắt họ trao thóc gạo cho ngươi.
Ngươi xây nhà sang trọng bằng đá đẽo,
    nhưng sẽ không được ở trong đó.
Ngươi trồng nhiều vườn nho xinh tốt,
    nhưng sẽ không được uống rượu từ chúng.
12 Ngươi biết những tội ác mình,
    những tội lỗi ghê gớm của mình.
Ngươi làm hại người làm lành,
    và nhận tiền hối lộ để làm bậy,
Ngươi ngăn không cho kẻ nghèo có được công lý.
13 Trong khi đó kẻ khôn ngoan im lặng,
    vì không phải lúc để nói.
14 Hãy làm lành, tránh ác để được sống,
thì CHÚA Toàn Năng sẽ ở cùng ngươi, như ngươi nói.
15 Hãy ghét điều ác, mến điều thiện;
    hãy tỏ ra công bằng trước toà án.
Nguyện CHÚA là Thượng-Đế Toàn-Năng
    tỏ lòng nhân từ cùng dân cư
    còn sống sót của Giô-xép.

Thời kỳ sầu thảm sắp đến

16 Sau đây là lời CHÚA,
    Thượng-Đế Toàn Năng phán:
“Người ta sẽ kêu khóc trong đường phố;
    họ sẽ kêu lên nơi công cộng,
    ‘Ôi, còn nữa sao!’
Họ sẽ gọi các nông gia đến mà than khóc,
    và thuê những kẻ khóc mướn [o].
17 Dân chúng sẽ than khóc về vườn nho,
    vì ta sẽ đi qua giữa các ngươi
    để trừng phạt các ngươi,” CHÚA phán vậy.

Ngày xét xử của Chúa

18 Khốn cho các ngươi là kẻ
    mong ngày phán xử của CHÚA đến.
Sao các ngươi mong ngày ấy đến làm gì?
    Nó sẽ mang bóng tối đến,
    không phải ánh sáng đâu.
19 Ngày đó sẽ giống như kẻ chạy trốn khỏi sư tử
    nhưng lại đụng đầu với gấu,
hay kẻ đi vào nhà đặt tay lên vách
    nhưng bị rắn cắn.
20 Nên ngày phán xử của CHÚA
    sẽ mang bóng tối đến,
    không phải ánh sáng;
bóng tối mịt, không có chút sáng nào.

Chúa không chấp nhận lối thờ phụng của Ít-ra-en

21 CHÚA phán, “Ta rất ghét ngày lễ của các ngươi;
    ta không chịu nổi các buổi họp đạo của các ngươi.
22 Khi các ngươi dâng của lễ thiêu
    hay của lễ chay cho ta,
    ta không chấp nhận.
Ngươi mang đến của lễ thân hữu
    bằng gia súc mập béo nhất
    nhưng ta không đếm xỉa tới.
23 Hãy dẹp các bài hát ồn ào của các ngươi khỏi ta đi!
    Ta không muốn nghe tiếng đờn cầm của ngươi nữa.
24 Hãy để công lý chảy cuồn cuộn như sông,
    hãy làm cho lòng nhân từ
    chảy như suối không ngưng.
25 Hỡi Ít-ra-en, các ngươi đâu có dâng sinh tế và của lễ cho ta
    khi ngươi lang thang trong sa mạc
    suốt bốn mươi năm [p].
26 Mà ngươi mang theo mình vua của các ngươi,
    thần Xa-cúc, và thần Cai-quan [q],
    cùng các thần tinh tú [r] mà ngươi đã làm.
27 Cho nên ta sẽ khiến các ngươi
    bị bắt làm tù binh,
    và bị lưu đày đến mãi tận Đa-mách,”
    CHÚA phán vậy.
    Danh Ngài là Thượng-Đế Toàn-Năng.

Ít-ra-en sẽ bị tiêu diệt

Khốn cho những kẻ sống an cư trong Giê-ru-sa-lem,
    những kẻ cảm thấy bình yên trên núi Xa-ma-ri.
Ngươi nghĩ mình là kẻ có chức trọng quyền cao
    của quốc gia hùng cường nhất trên thế giới;
Dân Ít-ra-en đến cầu cạnh ngươi giúp đỡ,
Hãy đi nhìn thành Canh-nê,
    từ đó đi đến thành lớn Ha-mát;
    rồi đi xuống Gát [s] của dân Phi-li-tin.
Ngươi không khá hơn các nước đó đâu.
    Xứ ngươi cũng chẳng lớn hơn xứ chúng.
Ngươi trì hoãn ngày trừng phạt,
    nhưng rút ngắn lại cái ngày
mà ngươi có thể làm hại kẻ khác.
Ngươi nằm trên giường cẩn ngà voi
    và duỗi người trên ghế dài mình.
Ngươi ăn thịt chiên con mềm,
    và gia súc mập béo.
Ngươi sáng tác bài ca cho đờn cầm,
    và sử dụng nhạc khí [t] như Đa-vít làm.
Ngươi uống rượu như hũ chìm,
    và dùng nước hoa thượng hạng.
Nhưng ngươi không than khóc
    về cảnh điêu tàn của Ít-ra-en,

nên ngươi sẽ là những kẻ đầu tiên bị bắt làm tù binh.
    Các ngươi đang nằm duỗi dài trên ghế,
    nhưng thời kỳ thoải mái ấy của ngươi sẽ chấm dứt.

CHÚA là Thượng-Đế đã hứa điều đó,
    CHÚA Toàn Năng phán:
“Ta ghét lòng kiêu căng của Ít-ra-en,
    ta ghê tởm những toà nhà kiên cố của chúng,
    nên ta sẽ để cho kẻ thù chiếm lấy thành
    và cướp bóc mọi thứ trong đó.

Lúc đó chỉ sẽ còn có mười người sống sót trong một nhà, nhưng rồi cũng chết. 10 Khi thân nhân đến lấy xác mang ra ngoài, người nầy sẽ gọi hỏi người kia, ‘Anh còn có xác chết nào nữa không?’

Người kia sẽ đáp, ‘Không …’ [u]

Rồi kẻ hỏi sẽ bảo, ‘Suỵt! Chúng ta không được nói đến danh CHÚA.’”

11 CHÚA truyền lệnh nầy;
    nhà cửa to lớn sẽ bị đổ nát,
còn nhà nhỏ cũng tan tành.
12 Ngựa không phi trên tảng đá,
    cũng không ai dùng bò cày đá cục.
Nhưng ngươi đã biến công bình ra thuốc độc;
    biến lẽ phải ra mật đắng.
13 Ngươi mừng rỡ vì thành Lô Đê-ba [v] bị chiếm,
    và ngươi bảo, “Chúng ta đã lấy sức mình
    chiếm thành Cạc-na-im [w].”

14 CHÚA Toàn-Năng phán,
“Hỡi Ít-ra-en, ta sẽ mang đến
    một dân nghịch ngươi để tạo khổ sở
    cho dân ngươi từ Lê-bô Ha-Mát,
ở miền Bắc cho đến thung lũng của Biển Chết ở miền Nam.”

Footnotes

  1. A-mốt 4:1 bò cái Ba-san Tức là những người đàn bà giàu sang ở Xa-ma-ri. Ba-san, một vùng nằm về phía Đông sông Giô-đanh là vùng nổi tiếng về loại bò mập mạp.
  2. A-mốt 4:1 chồng mình Nguyên văn, “chủ mình.”
  3. A-mốt 4:3 bị ném vào đống xác chết Hay “Ngươi sẽ bị ném bỏ. Người ta sẽ mang ngươi lên núi Hẹt-môn.” Bản Hê-bơ-rơ ở đây hơi khó hiểu. Chúng ta không rõ có phải là những người đàn bà ấy bị “ném bỏ” hay chính “họ ném bỏ vật gì.”
  4. A-mốt 4:4 Bê-tên … Ghinh-ganh Hai nơi thờ phụng của dân Ít-ra-en. Thượng Đế muốn dân của Ngài thờ phụng Ngài ở đền thờ Giê-ru-sa-lem mà thôi.
  5. A-mốt 4:5 Hãy dâng sinh tế … mình mang đến Những loại của lễ nầy trái với luật Mô-se. Các lãnh tụ và các nhà tiên tri giả đã khởi xướng các lễ nghi mới và các cách thờ phụng Thượng Đế theo kiểu của họ.
  6. A-mốt 4:13 gió Hay “trí óc các ngươi.”
  7. A-mốt 5:2 Trinh nữ Trong tiếng Hê-bơ-rơ từ ngữ nầy có nghĩa là “một người đàn bà chưa hề giao tiếp thể xác với đàn ông,” nhưng ở đây có nghĩa là thành Xa-ma-ri.
  8. A-mốt 5:4 dân Nguyên văn, “nhà.” Đây có thể là hoàng gia của nước ấy.
  9. A-mốt 5:5 Bê-tên, Ghinh-ganh, Bê-e-sê-ba Những nơi thờ phụng xưa kia. Áp-ra-ham và Gia-cốp xây bàn thờ ở các nơi ấy nhưng Thượng Đế khuyên dân Ít-ra-en hãy xuống đền thờ ở Giê-ru-sa-lem để thờ phụng Ngài.
  10. A-mốt 5:5 bị bắt làm tù binh Trong tiếng Hê-bơ-rơ thì câu nầy nghe như “Ghinh-ganh.”
  11. A-mốt 5:6 nhà Giô-xép Đây nghĩa là mười chi tộc của Ít-ra-en. Giô-xép là tổ tiên của hai chi tộc Ép-ra-im và Ma-na-xe trong Ít-ra-en.
  12. A-mốt 5:6 Bê-tên Từ ngữ nầy nghĩa là “nhà của En” hay “nhà của Thượng Đế.” Ở đó có một đền thờ mà dân chúng thuộc mười chi tộc miền Bắc đến thờ phụng.
  13. A-mốt 5:8 Sao Cày và Sao Rua Hai chòm sao quen thuộc trên bầu trời.
  14. A-mốt 5:9 thuốc độc Nguyên văn, “ngải cứu,” một loại thảo mộc có lá rất đắng. Loại thảo mộc ấy có thể dùng làm thuốc nhưng nếu dùng quá liều sẽ trở thành thuốc độc.
  15. A-mốt 5:16 kẻ khóc mướn Những người đi đến các gia đình có người chết để khóc thảm thiết rồi họ được trả công.
  16. A-mốt 5:25 Hỡi Ít-ra-en … bốn mươi năm Hay “Hỡi Ít-ra-en, ngươi có mang sinh tế và của lễ cho ta trong sa mạc suốt 40 năm không?”
  17. A-mốt 5:26 thần Xa-cúc, và thần Cai-quan Hay “Xa-cúc, Mô-lóc, và Cai-quan,” đó là tên của các thần của dân A-xy-ri.
  18. A-mốt 5:26 thần tinh tú Đây có thể là cách người ta tôn kính một vị thần nào đó hay thờ kính các ngôi sao trên trời. Người xưa cho rằng mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao và hành tinh là các vị thần hay thiên sứ.
  19. A-mốt 6:2 Canh-nê, Ha-mát, Gát Những thành lớn của Ba-by-lôn, Xy-ri, và Phi-li-tin đã bị quân A-xy-ri chiếm cứ.
  20. A-mốt 6:5 sử dụng nhạc khí Hay “sáng tác.” Từ ngữ Hê-bơ-rơ có nghĩa là “suy tư” hay “thành thạo.”
  21. A-mốt 6:10 Không … Nguyên câu là “Không, cám ơn Chúa,” nhưng câu ấy bị gián đoạn hay cắt đứt bởi một người khác.
  22. A-mốt 6:13 Lô Đê-ba Nghĩa là “không có gì cả.”
  23. A-mốt 6:13 Cạc-na-im Nghĩa là “cái sừng.” Đó là dấu hiệu của sức mạnh.

144.000 người trong dân Ít-ra-en

Sau những việc ấy tôi thấy bốn thiên sứ đứng ở bốn góc trên đất. Các thiên sứ nắm bốn hướng gió lại không cho thổi trên đất, biển hoặc cây cối nữa. Rồi tôi thấy một thiên sứ khác từ phía Đông đi đến, trong tay có ấn của Thượng Đế hằng sống. Người kêu lớn cùng bốn thiên sứ đã được Thượng Đế trao quyền làm hại đất và biển rằng, “Đừng làm hại đất, biển và cây cối cho đến khi chúng ta đã đánh dấu xong trên trán những người phục vụ Thượng Đế chúng ta.” Rồi sau đó tôi nghe số người được đóng dấu. Tất cả các chi tộc Ít-ra-en có một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đánh dấu.

chi tộc Giu-đa mười hai ngàn người được đánh dấu,

chi tộc Ru-bên mười hai ngàn,

chi tộc Gát mười hai ngàn,

chi tộc A-se mười hai ngàn,

chi tộc Náp-ta-li mười hai ngàn,

chi tộc Ma-na-xe mười hai ngàn,

chi tộc Xi-mê-ôn mười hai ngàn,

chi tộc Lê-vi mười hai ngàn,

chi tộc Y-xa-ca mười hai ngàn,

chi tộc Xê-bu-lôn mười hai ngàn,

chi tộc Giô-xép mười hai ngàn,

và chi tộc Bên-gia-min mười hai ngàn người được đánh dấu.

Đoàn người đông đảo thờ phụng Thượng Đế

Sau các việc ấy, tôi nhìn thì thấy một đoàn người vĩ đại, đông vô số, không thể đếm được. Họ từ mọi quốc gia, mọi chi tộc, mọi dân, mọi thứ tiếng trên thế giới. Tất cả đứng trước ngôi và Chiên Con, mặc áo trắng, tay cầm nhành chà là. 10 Họ kêu lớn, “Sự cứu rỗi thuộc về Thượng Đế chúng ta, Đấng ngồi trên ngôi và về Chiên Con.” 11 Tất cả các thiên sứ đứng quanh ngôi cùng các trưởng lão và các con vật. Ai nấy đều sấp mặt trước ngôi và bái lạy Thượng Đế 12 kêu lên rằng, “A-men! Nguyện sự ca ngợi, vinh hiển, khôn ngoan, cảm tạ, danh dự, quyền lực thuộc về Thượng Đế đời đời. A-men!”

13 Rồi một trong các trưởng lão hỏi tôi, “Những người mặc áo dài trắng đó là ai vậy? Họ từ đâu đến?”

14 Tôi đáp, “Thưa ngài, ngài biết điều ấy.”

Trưởng lão nói với tôi, “Đó là những người đã thoát cơn khốn khổ lớn. Họ đã giặt áo [a] mình và làm sạch trong huyết Chiên Con.” 15 Nhờ đó họ được đứng trước ngôi Thượng Đế. Họ thờ phụng ngày và đêm trong đền thờ Ngài. Đấng ngồi trên ngôi sẽ ở với họ mãi mãi. 16 Họ sẽ không còn đói hay khát nữa. Mặt trời cũng không làm hại họ, sức nóng cũng không làm phỏng họ. 17 Vì Chiên Con ở giữa ngôi sẽ chăn dắt họ. Ngài sẽ dẫn họ đến suối nước sự sống. Thượng Đế sẽ lau hết nước mắt khỏi họ.

Footnotes

  1. Khải Huyền 7:14 giặt áo Đây có nghĩa là họ đã tin Chúa Giê-xu để nhờ huyết Ngài mà được sạch tội lỗi. Xem Khải 5:9; Hê 9:14; 10:14-22; Sứ đồ 22:16; I Gi 1:7.