Add parallel Print Page Options

Sau đây là lời của A-mốt, một trong những kẻ chăn chiên ở thị trấn Tê-cô-a. Ông nhìn thấy dị tượng về Ít-ra-en hai năm trước cơn động đất khi Ô-xia làm vua Giu-đa và Giê-rô-bô-am, con Giô-ách làm vua Ít-ra-en.

Sự trừng phạt A-ram

A-mốt nói,
“CHÚA sẽ gầm lên từ Giê-ru-sa-lem;
    Ngài sẽ lên tiếng từ Giê-ru-sa-lem.
Các đồng cỏ của kẻ chăn chiên sẽ khô héo,
    đến nỗi đỉnh núi Cạt-mên [a] cũng sẽ khô cằn.”

CHÚA phán:
    “Vì Đa-mách phạm nhiều tội,
nên ta chắc chắn sẽ trừng phạt nó.
    Chúng nó đè bẹp dân Ghi-lê-át
bằng ván đạp lúa có răng sắt.
Nên ta sẽ sai lửa xuống trên nhà Ha-xa-ên [b]
    để phá sập các tháp cao của Bên Ha-đát.
Ta sẽ tiêu hủy thanh cài cửa của Đa-mách [c],
    và tiêu diệt vua ngự trị trong thung lũng A-ven,
    cũng như lãnh tụ của Bết Ê-đen [d].
Dân A-ram sẽ bị bắt làm tù binh đến xứ Kia [e],” CHÚA phán vậy.

Trừng phạt dân Phi-li-tin

CHÚA phán:
    “Vì Ga-xa [f] phạm nhiều tội,
nên ta chắc chắn sẽ trừng phạt chúng.
    Chúng bán toàn dân để làm tôi mọi cho Ê-đôm.
Nên ta sẽ sai lửa xuống vách thành Ga-xa
    để tiêu hủy các toà nhà kiên cố của nó.
Ta sẽ tiêu diệt lãnh tụ thành Ách-đốt,
    cùng thủ lãnh của Ách-kê-lôn.
Rồi ta sẽ nghịch lại dân thành Éc-rôn [g],
    và người cuối cùng của Phi-li-tin sẽ chết,”
CHÚA là Thượng-Đế phán vậy.

Trừng phạt dân Phê-ni-xi

CHÚA phán:
    “Vì Tia phạm nhiều tội,
nên ta chắc chắn sẽ trừng phạt chúng.
    Chúng bán toàn dân
để làm tôi mọi cho Ê-đôm,
    Chúng quên giao ước thân hữu lập với Ít-ra-en.
10 Cho nên ta sẽ sai lửa xuống vách thành Tia [h]
    để thiêu đốt các toà nhà kiên cố của nó.”

Trừng phạt dân Ê-đôm

11 CHÚA phán:
    “Vì Ê-đôm phạm nhiều tội,
nên ta chắc chắn sẽ trừng phạt chúng.
    Chúng săn lùng thân nhân mình
tức người Ít-ra-en bằng gươm,
không chút thương xót.
    Chúng luôn luôn tức giận
và trong lòng nóng nảy không thôi.
12 Cho nên ta sẽ sai lửa đến trên thành Thê-man [i]
    để thiêu rụi các toà nhà kiên cố của Bốt-ra [j].”

Trừng phạt dân Am-môn

13 CHÚA phán:
    “Vì Am-môn [k] phạm nhiều tội,
nên ta chắc chắn sẽ trừng phạt chúng.
    Chúng mổ bụng đàn bà chửa trong Ghi-lê-át,
    để bành trướng lãnh thổ mình.
14 Cho nên ta sẽ sai lửa xuống vách thành Ráp-ba [l]
    để thiêu đốt các toà nhà kiên cố của chúng.
Điều đó sẽ đến trong ngày chiến trận,
    trong cơn gió lốc [m].
15 Rồi vua và các lãnh tụ nó
    sẽ bị bắt làm tù binh;
tất cả đều sẽ bị lưu đày,”
    CHÚA phán vậy.

Trừng phạt dân Mô-áp

CHÚA phán:
    “Vì Mô-áp phạm nhiều tội,
    nên ta chắc chắn sẽ trừng phạt chúng.
Nó thiêu xương cốt của vua Ê-đôm thành vôi.
Cho nên ta sẽ sai lửa xuống trên Mô-áp,
    thiêu đốt các toà nhà kiên cố của thành Kê-ri-ốt [n].
Dân Mô-áp sẽ chết,
    giữa những tiếng reo hò trong chiến trận và tiếng kèn thổi vang.
Ta sẽ kết liễu cuộc đời của các vua [o] Mô-áp,
    và sẽ giết tất cả các lãnh tụ thành phố
    cùng với nó,” CHÚA phán vậy.

Trừng phạt dân Giu-đa

CHÚA phán:
    “Vì Giu-đa phạm nhiều tội,
    nên ta chắc chắn sẽ trừng phạt chúng.
Chúng ném bỏ lời dạy của CHÚA,
    không thèm giữ mệnh lệnh Ngài;
chúng đi theo các thần giả
    mà tổ tiên chúng đã theo.
Cho nên ta sẽ sai lửa xuống trên Giu-đa,
    thiêu đốt các toà nhà kiên cố của Giê-ru-sa-lem.”

Trừng phạt dân Ít-ra-en

CHÚA phán như sau:
    “Vì Ít-ra-en phạm nhiều tội,
    nên ta sẽ trừng phạt chúng.
Vì bạc mà chúng bán dân vô tội;
    chúng bán kẻ nghèo để lấy tiền mua đôi dép.
Chúng chà đạp kẻ nghèo như dẫm lên đất,
    chúng không đối xử công bằng
    với kẻ cùng khổ.
Cả cha và con ăn nằm
    cùng một người đàn bà,
    làm nhơ nhuốc danh thánh ta.
Trong khi chúng thờ lạy nơi bàn thờ,
    chúng nằm trên áo quần cướp giật từ kẻ nghèo.
Chúng cho người nghèo vay tiền,
    rồi lấy áo quần của họ để cầm thế [p].
Chúng bắt họ nộp tiền phạt rồi dùng nó mua rượu để say sưa
    trong đền thờ của thần chúng.
Nhưng chính ta là Đấng
    đã hủy diệt người A-mô-rít [q] trước mặt chúng,
là những kẻ cao như cây hương nam,
    và mạnh như cây sồi.
    Nhưng ta sẽ diệt trái ở trên và rễ ở dưới [r].
Ta tuyệt diệt chúng.
10 Chính ta là Đấng mang các ngươi
    ra khỏi xứ Ai-cập
và dẫn dắt các ngươi suốt bốn mươi năm
    trong sa mạc để cấp cho các ngươi
    đất của dân A-mô-rít.
11 Ta đã biến một số con cái các ngươi
    làm nhà tiên tri,
một số trai tráng trong các ngươi
    làm người Na-xi-rê.
Hỡi dân Ít-ra-en, có phải đúng vậy không?
    CHÚA phán vậy.
12 Nhưng các ngươi bắt người Na-xi-rê uống rượu
    và bảo các nhà tiên tri đừng nói tiên tri nữa.
13 Bây giờ ta sẽ làm cho các ngươi mắc kẹt
    như xe chở đầy ngũ cốc lún bùn.
14 Không ai thoát, kể cả kẻ chạy nhanh nhất cũng vậy.
    Người mạnh cũng chưa đủ mạnh;
    Các chiến sĩ cũng không thể tự cứu.
15 Các chiến sĩ mang cung tên
    cũng không đứng dậy nổi để chiến đấu,
kẻ chạy nhanh nhất cũng không thoát được;
    các lính cỡi ngựa cũng không thoát chết.
16 Lúc đó dù cho chiến sĩ gan dạ nhất
    cũng chạy trốn, quăng lại áo giáp,”
    CHÚA phán vậy.

Lời cảnh cáo Ít-ra-en

Hỡi dân Ít-ra-en hãy nghe lời CHÚA phán nghịch cùng các ngươi, nghịch lại cùng toàn thể gia đình Ngài đã mang ra khỏi Ai-cập.

“Ta đã chọn một mình ngươi
    từ các gia đình trên đất,
cho nên ta sẽ trừng phạt ngươi vì tội lỗi ngươi.”

Nguyên nhân sự trừng phạt dân Ít-ra-en

Hai người không thể đi chung nhau được
    nếu không đồng ý với nhau.
Sư tử trong rừng không gầm thét
    trừ khi nó bắt được mồi;
nó không gầm gừ trong hang
    nếu nó không bắt được gì.
Chim không sa vào bẫy
    nếu không có mồi nhử nó;
bẫy cũng không sập
    nếu không có gì để bắt.
Khi kèn thổi báo động trong thành,
    dân chúng run sợ.
Khi tai họa đến cùng một thành nào,
    là do CHÚA khiến.
Trước khi CHÚA làm điều gì,
    Ngài cũng cho các tôi tớ Ngài,
    là các nhà tiên tri biết chương trình của Ngài.
Sư tử đã gầm thét! Ai mà không sợ?
    CHÚA đã phán, Ai mà không nói tiên tri?
Hãy loan báo điều nầy
    cho các toà nhà kiên cố của Ách-đốt [s],
cho các dinh thự vững chắc của Ai-cập:
    “Hãy đến núi Xa-ma-ri,
nơi ngươi sẽ thấy cảnh hỗn loạn,
    và cảnh người ta hại nhau.”

10 “Dân chúng không biết làm điều phải,”
    CHÚA phán vậy.
“Những toà nhà kiên cố của chúng
    đầy dẫy của cướp đoạt của kẻ khác.”
11 Nên CHÚA phán như sau:
    “Một kẻ thù sẽ chiếm đất
và kéo sập đồn lũy ngươi;
    nó sẽ cướp của báu từ các toà nhà kiên cố ngươi.”

12 CHÚA phán như sau:
“Người chăn chiên chỉ giật lại được khỏi hàm sư tử
hai cái xương chân và một mảnh lỗ tai của chiên mình.
Cũng vậy, chỉ có một số rất ít dân Ít-ra-en
    ở Xa-ma-ri được giải cứu,
tức những người hiện ngồi trên giường
    và trên ghế dài.”

13 CHÚA là Thượng-Đế, Đấng Toàn Năng phán, “Hãy lắng nghe và làm nhân chứng nghịch cùng gia đình Gia-cốp.”

14 “Khi ta trừng phạt tội lỗi Ít-ra-en,
    ta cũng sẽ tiêu hủy bàn thờ ở Bê-tên [t].
Các góc bàn thờ sẽ bị cắt xén,
    Chúng sẽ rơi xuống đất.
15 Ta sẽ phá sập nhà nghỉ mùa đông,
    cùng nhà nghỉ mùa hè.
Các nhà cửa trang hoàng bằng ngà voi
    sẽ bị tiêu hủy,
và các nhà cửa rộng lớn sẽ không còn,”
    CHÚA phán vậy.

Ít-ra-en sẽ không trở về

Hỡi các bò cái Ba-san [u] trên núi Xa-ma-ri
    hãy nghe lời nầy.
Các ngươi cướp đoạt của người nghèo
    và chà đạp kẻ khốn cùng.
Rồi ngươi bảo chồng mình [v],
    “Mang cái gì đến cho tôi uống!”
CHÚA hứa như sau:
    “Thật như ta hằng sống,
sẽ đến lúc ngươi sẽ bị móc kéo đi,
    và những gì còn lại của ngươi
    sẽ bị mang đi bằng lưỡi câu.

Ngươi sẽ đi thẳng ra ngoài thành
    qua các lỗ hổng trong tường,
rồi ngươi sẽ bị ném vào đống xác chết [w],”
    CHÚA phán vậy.
Hãy đến thành Bê-tên mà phạm tội;
    hãy kéo nhau đến Ghinh-ganh [x]
    mà phạm tội thêm nữa.
Hãy dâng sinh tế ngươi mỗi sáng,
    và cứ mỗi ba ngày lại mang đến
    phần mười mùa màng của ngươi.
Hãy dâng bánh mì có men
    làm của lễ cảm tạ,
và khoe khoang về của lễ tự nguyện
    mình mang đến [y].
Vì hỡi Ít-ra-en,
    đó là điều ngươi thích làm,
    CHÚA là Thượng-Đế phán vậy.
“Ta mang đói kém đến
    trong các thành ngươi,
và các thị trấn ngươi không đủ ăn,
    nhưng ngươi không trở lại cùng ta,”
    CHÚA phán vậy.
“Ta ngăn không cho mưa xuống
    ba tháng trước mùa gặt.
Rồi ta cho mưa xuống thành nầy,
    còn thành khác thì khô ráo.
Mưa xuống ruộng nầy, còn ruộng kia thì bị khô héo cằn cỗi.
Dân chúng kiệt quệ vì khát nước,
    đi từ thành nầy sang thành khác tìm nước,
nhưng không tìm đủ nước uống.
Thế mà các ngươi cũng vẫn không trở lại cùng ta,”
    CHÚA phán vậy.
“Ta khiến cho ngươi thất mùa
    vì sâu và meo mốc.
Khi ruộng nương và vườn nho ngươi phát triển,
    thì cào cào cắn phá cây vả và cây ô-liu ngươi.
Vậy mà ngươi vẫn không trở về cùng ta,”
    CHÚA phán vậy.
10 “Ta sai đại nạn đến cho ngươi
    như ta đã làm ở Ai-cập.
Ta dùng gươm giết các kẻ trai trẻ ngươi,
    và cướp ngựa khỏi tay ngươi.
Ta khiến cho xứ ngươi hôi thối vì xác chết.
    Nhưng ngươi vẫn không trở lại cùng ta,”
    CHÚA phán vậy.
11 “Ta tiêu diệt một số các ngươi,
    như tiêu diệt Xô-đôm và Gô-mô-rơ.
Ngươi như que củi đang cháy
    được rút ra khỏi lửa,
Nhưng ngươi cũng không chịu trở về cùng ta,”
    CHÚA phán vậy.

12 “Cho nên, hỡi Ít-ra-en,
    đây là điều ta chắc chắn sẽ làm cho ngươi:
nên hỡi Ít-ra-en, hãy chuẩn bị
    mà gặp Thượng-Đế ngươi.”

13 Ngài là Đấng tạo ra núi,
    làm ra gió [z], và bày tỏ ý tưởng Ngài cho người ta biết.
Ngài biến bình minh ra bóng tối,
    bước đi trên các núi non của đất.
    Danh Ngài là Thượng-Đế Toàn-Năng.

Bài ai ca cho Ít-ra-en

Hỡi Ít-ra-en hãy nghe bài ai ca ta hát về ngươi.

“Trinh nữ [aa] Ít-ra-en đã ngã xuống,
    sẽ không ngồi dậy nữa.
Nó còn lại trong xứ một mình,
    không ai đỡ dậy.”

CHÚA phán như sau:
    “Một ngàn người rời khỏi thành,
nhưng chỉ có một trăm người trở về.”

Chúa khuyên dân Ít-ra-en trở về với Ngài

Sau đây là lời CHÚA phán về dân [ab] Ít-ra-en:
    “Hãy trở lại cùng ta để được sống,
Đừng nhìn về Bê-tên,
    hay đi đến Ghinh-ganh,
    cũng đừng xuống Bê-e-sê-ba [ac].
Dân Ghinh-ganh sẽ bị bắt làm tù binh [ad],
    Bê-tên sẽ không còn gì.”
Hãy đến cùng CHÚA để được sống,
    nếu không Ngài sẽ ra tay
    như lửa ào đến nhà Giô-xép [ae].
Lửa sẽ thiêu đốt Bê-tên [af],
    không ai dập tắt.
Ngươi làm đảo lộn công lý,
    và ném lẽ phải xuống đất.
Thượng-Đế là Đấng tạo nên các chòm sao,
    Sao Cày và Sao Rua [ag];
Ngài biến đêm tối ra bình minh tươi sáng,
    và biến ngày ra đêm tối.
Ngài gọi nước biển đến xối trên đất.
Danh Ngài là CHÚA.
Ngài giữ gìn thành lớn nầy,
    Ngài để cho thành lớn kia bị tiêu diệt.

Những điều ác mà dân Ít-ra-en làm

Ngươi đổi điều thiện ra thuốc độc [ah].
    Ngươi diệt công lý, ném nó xuống đất.
10 Ngươi ghét những kẻ làm chứng trước toà nghịch lại điều ác,
Ngươi không chịu nổi kẻ nói sự thật.
11 Ngươi chà đạp kẻ nghèo,
    bắt họ trao thóc gạo cho ngươi.
Ngươi xây nhà sang trọng bằng đá đẽo,
    nhưng sẽ không được ở trong đó.
Ngươi trồng nhiều vườn nho xinh tốt,
    nhưng sẽ không được uống rượu từ chúng.
12 Ngươi biết những tội ác mình,
    những tội lỗi ghê gớm của mình.
Ngươi làm hại người làm lành,
    và nhận tiền hối lộ để làm bậy,
Ngươi ngăn không cho kẻ nghèo có được công lý.
13 Trong khi đó kẻ khôn ngoan im lặng,
    vì không phải lúc để nói.
14 Hãy làm lành, tránh ác để được sống,
thì CHÚA Toàn Năng sẽ ở cùng ngươi, như ngươi nói.
15 Hãy ghét điều ác, mến điều thiện;
    hãy tỏ ra công bằng trước toà án.
Nguyện CHÚA là Thượng-Đế Toàn-Năng
    tỏ lòng nhân từ cùng dân cư
    còn sống sót của Giô-xép.

Thời kỳ sầu thảm sắp đến

16 Sau đây là lời CHÚA,
    Thượng-Đế Toàn Năng phán:
“Người ta sẽ kêu khóc trong đường phố;
    họ sẽ kêu lên nơi công cộng,
    ‘Ôi, còn nữa sao!’
Họ sẽ gọi các nông gia đến mà than khóc,
    và thuê những kẻ khóc mướn [ai].
17 Dân chúng sẽ than khóc về vườn nho,
    vì ta sẽ đi qua giữa các ngươi
    để trừng phạt các ngươi,” CHÚA phán vậy.

Ngày xét xử của Chúa

18 Khốn cho các ngươi là kẻ
    mong ngày phán xử của CHÚA đến.
Sao các ngươi mong ngày ấy đến làm gì?
    Nó sẽ mang bóng tối đến,
    không phải ánh sáng đâu.
19 Ngày đó sẽ giống như kẻ chạy trốn khỏi sư tử
    nhưng lại đụng đầu với gấu,
hay kẻ đi vào nhà đặt tay lên vách
    nhưng bị rắn cắn.
20 Nên ngày phán xử của CHÚA
    sẽ mang bóng tối đến,
    không phải ánh sáng;
bóng tối mịt, không có chút sáng nào.

Chúa không chấp nhận lối thờ phụng của Ít-ra-en

21 CHÚA phán, “Ta rất ghét ngày lễ của các ngươi;
    ta không chịu nổi các buổi họp đạo của các ngươi.
22 Khi các ngươi dâng của lễ thiêu
    hay của lễ chay cho ta,
    ta không chấp nhận.
Ngươi mang đến của lễ thân hữu
    bằng gia súc mập béo nhất
    nhưng ta không đếm xỉa tới.
23 Hãy dẹp các bài hát ồn ào của các ngươi khỏi ta đi!
    Ta không muốn nghe tiếng đờn cầm của ngươi nữa.
24 Hãy để công lý chảy cuồn cuộn như sông,
    hãy làm cho lòng nhân từ
    chảy như suối không ngưng.
25 Hỡi Ít-ra-en, các ngươi đâu có dâng sinh tế và của lễ cho ta
    khi ngươi lang thang trong sa mạc
    suốt bốn mươi năm [aj].
26 Mà ngươi mang theo mình vua của các ngươi,
    thần Xa-cúc, và thần Cai-quan [ak],
    cùng các thần tinh tú [al] mà ngươi đã làm.
27 Cho nên ta sẽ khiến các ngươi
    bị bắt làm tù binh,
    và bị lưu đày đến mãi tận Đa-mách,”
    CHÚA phán vậy.
    Danh Ngài là Thượng-Đế Toàn-Năng.

Footnotes

  1. A-mốt 1:2 núi Cạt-mên Một ngọn núi nằm về phía bắc Ít-ra-en. Tên núi ấy có nghĩa là “vườn nho của Thượng Đế” chứng tỏ đó là vùng đất phì nhiêu.
  2. A-mốt 1:4 Ha-xa-ên Ha-xa-ên là vua của A-ram (Xy-ri) Ông ta giết Bên Ha-đát, vua A-ram. Xem II Vua 13:3.
  3. A-mốt 1:5 Đa-mách Thủ đô của A-ram (Xy-ri).
  4. A-mốt 1:5 Bết Ê-đen Thành phố của vua A-ram (Xy-ri) trên núi Li-băng. Từ ngữ nầy nghĩa là “Nhà Khoái lạc” hay “Thiên đàng.”
  5. A-mốt 1:5 Kia Hay “Cua,” một vùng do người A-xy-ri kiểm soát. Xem A-mốt 9:7.
  6. A-mốt 1:6 Ga-xa Một thành phố quan trọng của dân Phi-li-tin.
  7. A-mốt 1:8 Ách-đốt, Ách-kê-lôn, Éc-rôn Các thành phố lớn của dân Phi-li-tin.
  8. A-mốt 1:10 Tia Thủ đô của Phê-ni-xi.
  9. A-mốt 1:12 Thê-man Một thành phố nằm về phía Bắc xứ Ê-đôm.
  10. A-mốt 1:12 Bốt-ra Một thành phố nằm về phía Nam xứ Ê-đôm.
  11. A-mốt 1:13 Am-môn Dân Am-môn là dòng dõi của Bên Am-mi, con trai của Lót. Xem Sáng 19:38.
  12. A-mốt 1:14 Ráp-ba Thủ đô của dân Am-môn.
  13. A-mốt 1:14 gió lốc Hay “gió xoáy.”
  14. A-mốt 2:2 Kê-ri-ốt Một thành phố của Mô-áp. Đây có thể là thành A-rê, thủ đô của Mô-áp.
  15. A-mốt 2:3 các vua Nguyên văn, “các quan án.”
  16. A-mốt 2:8 cầm thế Xem Phục 24:12-13 để biết về luật lệ cho người nghèo vay tiền.
  17. A-mốt 2:9 A-mô-rít Một trong những dân tộc sống ở xứ Ca-na-an trước khi dân Ít-ra-en đến. Họ là dân đã đe dọa dân Ít-ra-en khi Mô-se hướng dẫn dân ấy đi trong sa mạc. Xem Dân 13:33.
  18. A-mốt 2:9 trái ở trên và rễ ở dưới Có nghĩa là cả cha mẹ lẫn con cái.
  19. A-mốt 3:9 Ách-đốt Một thành phố quan trọng của dân Phi-li-tin.
  20. A-mốt 3:14 Bê-tên Một thị trấn trong Ít-ra-en. Từ ngữ nầy nghĩa là “nhà của Thượng Đế.”
  21. A-mốt 4:1 bò cái Ba-san Tức là những người đàn bà giàu sang ở Xa-ma-ri. Ba-san, một vùng nằm về phía Đông sông Giô-đanh là vùng nổi tiếng về loại bò mập mạp.
  22. A-mốt 4:1 chồng mình Nguyên văn, “chủ mình.”
  23. A-mốt 4:3 bị ném vào đống xác chết Hay “Ngươi sẽ bị ném bỏ. Người ta sẽ mang ngươi lên núi Hẹt-môn.” Bản Hê-bơ-rơ ở đây hơi khó hiểu. Chúng ta không rõ có phải là những người đàn bà ấy bị “ném bỏ” hay chính “họ ném bỏ vật gì.”
  24. A-mốt 4:4 Bê-tên … Ghinh-ganh Hai nơi thờ phụng của dân Ít-ra-en. Thượng Đế muốn dân của Ngài thờ phụng Ngài ở đền thờ Giê-ru-sa-lem mà thôi.
  25. A-mốt 4:5 Hãy dâng sinh tế … mình mang đến Những loại của lễ nầy trái với luật Mô-se. Các lãnh tụ và các nhà tiên tri giả đã khởi xướng các lễ nghi mới và các cách thờ phụng Thượng Đế theo kiểu của họ.
  26. A-mốt 4:13 gió Hay “trí óc các ngươi.”
  27. A-mốt 5:2 Trinh nữ Trong tiếng Hê-bơ-rơ từ ngữ nầy có nghĩa là “một người đàn bà chưa hề giao tiếp thể xác với đàn ông,” nhưng ở đây có nghĩa là thành Xa-ma-ri.
  28. A-mốt 5:4 dân Nguyên văn, “nhà.” Đây có thể là hoàng gia của nước ấy.
  29. A-mốt 5:5 Bê-tên, Ghinh-ganh, Bê-e-sê-ba Những nơi thờ phụng xưa kia. Áp-ra-ham và Gia-cốp xây bàn thờ ở các nơi ấy nhưng Thượng Đế khuyên dân Ít-ra-en hãy xuống đền thờ ở Giê-ru-sa-lem để thờ phụng Ngài.
  30. A-mốt 5:5 bị bắt làm tù binh Trong tiếng Hê-bơ-rơ thì câu nầy nghe như “Ghinh-ganh.”
  31. A-mốt 5:6 nhà Giô-xép Đây nghĩa là mười chi tộc của Ít-ra-en. Giô-xép là tổ tiên của hai chi tộc Ép-ra-im và Ma-na-xe trong Ít-ra-en.
  32. A-mốt 5:6 Bê-tên Từ ngữ nầy nghĩa là “nhà của En” hay “nhà của Thượng Đế.” Ở đó có một đền thờ mà dân chúng thuộc mười chi tộc miền Bắc đến thờ phụng.
  33. A-mốt 5:8 Sao Cày và Sao Rua Hai chòm sao quen thuộc trên bầu trời.
  34. A-mốt 5:9 thuốc độc Nguyên văn, “ngải cứu,” một loại thảo mộc có lá rất đắng. Loại thảo mộc ấy có thể dùng làm thuốc nhưng nếu dùng quá liều sẽ trở thành thuốc độc.
  35. A-mốt 5:16 kẻ khóc mướn Những người đi đến các gia đình có người chết để khóc thảm thiết rồi họ được trả công.
  36. A-mốt 5:25 Hỡi Ít-ra-en … bốn mươi năm Hay “Hỡi Ít-ra-en, ngươi có mang sinh tế và của lễ cho ta trong sa mạc suốt 40 năm không?”
  37. A-mốt 5:26 thần Xa-cúc, và thần Cai-quan Hay “Xa-cúc, Mô-lóc, và Cai-quan,” đó là tên của các thần của dân A-xy-ri.
  38. A-mốt 5:26 thần tinh tú Đây có thể là cách người ta tôn kính một vị thần nào đó hay thờ kính các ngôi sao trên trời. Người xưa cho rằng mặt trời, mặt trăng, các ngôi sao và hành tinh là các vị thần hay thiên sứ.