Añadir traducción en paralelo Imprimir Opciones de la página

Các người giữ cửa

26 Sau đây là nhóm người giữ cửa. Từ gia đình Cô-ra có Mê-sê-lê-mia, con trai Cô-rê, thuộc gia đình A-sáp. Mê-sê-lê-mia có con trai. Con trưởng nam là Xa-cha-ri, con thứ nhì là Giê-đia-ên, con thứ ba là Xê-ba-đia, Giát-ni-ên là con thứ tư, Ê-lam là con thứ năm, Giê-hô-ha-nan là con thứ sáu, và Ê-li-ê-hô-ê-nai là con thứ bảy.

Ô-bết Ê-đôm cũng có con trai. Con trưởng nam là Sê-mai-gia, con thứ nhì là Giê-hô-xa-bát, con thứ ba là Giô-a, con thứ tư là Xa-ca, con thứ năm là Nê-tha-nên, Am-mi-ên là con thứ sáu, Y-xa-ca là con thứ bảy, và Bêu-lê-thai là con thứ tám. Thượng Đế ban cho Ô-bết Ê-đôm [a] có nhiều con. Sê-mai-gia, con trai Ô-bết Ê-đôm cũng có con trai. Họ đều là trưởng gia đình trong nhà cha mình vì họ đều có khả năng. Các con Sê-mai-gia là Ốt-ni, Rê-pha-ên, Ô-bết, Ên-xa-bát, Ê-li-hu, và Sê-ma-kia. Ê-li-hu và Sê-ma-kia là các chiến sĩ. Tất cả các người đó đều là con cháu của Ô-bết Ê-đôm. Họ cùng các con trai và thân thuộc là những người có khả năng và làm việc giỏi. Ô-bết Ê-đôm có tất cả sáu mươi hai con cháu.

Mê-sê-lê-mia có con trai và thân thuộc là những tay thợ khéo. Tổng cộng tất cả mười tám người.

10 Từ gia đình Mê-ra-ri, Hô-sa có con trai. Sim-ri được cử chịu trách nhiệm dù rằng ông không phải là trưởng nam nhưng cha ông cử ông đảm trách. 11 Con thứ nhì của ông là Hinh-kia, con thứ ba là Ta-ba-lia, con thứ tư là Xa-cha-ri. Tổng cộng Hô-sa có mười ba con trai và thân thuộc.

12 Đó là những trưởng toán giữ cửa. Họ phục vụ trong đền thờ Thượng Đế. Các thân nhân họ cũng phục vụ trong đền thờ. 13 Mỗi gia đình bắt thăm để chọn cửa nào phải giữ. Già trẻ đều phải bắt thăm.

14 Mê-sê-lê-mia bắt thăm trúng Cửa Đông. Rồi bắt thăm cho Xa-cha-ri, con Mê-sê-lê-mia. Ông là một cố vấn có tài và được chọn Cửa Bắc. 15 Ô-bết Ê-đôm được bắt thăm trúng Cửa Nam, và các con trai ông được bắt thăm để giữ kho. 16 Súp-bim và Hô-sa được bắt thăm trúng Cửa Tây và Cửa Sa-lê-kết trên con đường phía trên. Các người giữ cửa đứng cạnh nhau. 17 Mỗi ngày có sáu người Lê-vi đứng canh Cửa Đông; bốn người giữ Cửa Bắc; bốn người giữ Cửa Nam; và lúc nào cũng có hai người giữ kho. 18 Có hai người gác sân [b] Tây, và bốn người gác con đường đến sân.

19 Đó là những nhóm giữ cửa từ các gia đình Cô-ra và Mê-ra-ri.

Các nhân viên thủ quỹ và các lãnh tụ khác

20 Còn người Lê-vi khác [c] thì chịu trách nhiệm giữ kho ngân khố của đền thờ Thượng Đế và những kho chứa các vật dụng thánh.

21 La-đan là con trai Ghẹt-sôn và tổ tiên của nhiều họ hàng. Giê-hi-ên làm trưởng của một trong các họ hàng. 22 Các con trai của ông là Xê-tham và Giô-ên, em ông. Họ chịu trách nhiệm về kho ngân khố trong đền thờ CHÚA.

23 Các lãnh tụ khác được chọn từ trong các họ hàng của Am-ram, Y-Xa, Hếp-rôn, và U-xi-ên. 24 Su-ba-ên, con cháu Ghẹt-sôn, con trai Mô-se là người chịu trách nhiệm kho ngân khố. 25 Sau đây là các thân nhân của Su-ba-ên từ Ê-li-ê-xe: Rê-ha-bia con trai Ê-li-ê-xe, Giê-sai-gia con trai Rê-ha-bia, Giô-ram con trai Giê-sai-gia, Xích-ri con trai Giô-ram, và Sê-lô-mít con trai Xích-ri. 26 Sê-lô-mít và thân thuộc ông chịu trách nhiệm về mọi thứ đã được vua Đa-vít gom góp cho đền thờ, theo trưởng gia đình, những người chỉ huy hàng ngàn, hàng trăm người và theo các sĩ quan chỉ huy quân lực khác.

27 Họ cũng dâng một số những chiến lợi phẩm lấy được để dùng sửa chữa đền thờ CHÚA. 28 Sê-lô-mít và các thân nhân ông chịu trách nhiệm về những vật thánh. Một số được Sa-mu-ên, đấng tiên kiến, Sau-lơ, con của Kích, Áp-ne con trai Nê-rơ và Giô-áp con trai Xê-ru-gia tặng,

29 Kê-na-nia xuất thân từ gia đình Y-xa. Ông và các con trai ông phục vụ bên ngoài đền thờ với tư cách sĩ quan và quan án lưu động nhiều nơi trong Ít-ra-en. 30 Ha-sa-bia người thuộc gia đình Hếp-rôn. Ông và các thân thuộc chịu trách nhiệm cho công việc CHÚA và công tác của vua trong Ít-ra-en về phía Tây sông Giô-đanh. Trong nhóm Ha-sa-bia có một ngàn bảy trăm thợ khéo. 31 Gia phổ của gia đình Hếp-rôn cho thấy Giê-ri-a là lãnh tụ. Trong năm thứ bốn mươi triều đại Đa-vít, người ta sưu tầm sổ sách thì thấy một số người có khả năng trong gia đình Hếp-rôn sống ở Gia-xe thuộc vùng Ghi-lê-át. 32 Giê-ri-a có hai ngàn bảy trăm thân nhân là các tay thợ khéo và là chủ gia đình. Vua Đa-vít giao cho họ trách nhiệm hướng dẫn các chi tộc Ru-bên, Gát, và Ma-na-xe miền Đông trong khi làm công việc Thượng Đế và công tác của vua.

Các sư đoàn

27 Đây là danh sách những người Ít-ra-en phục vụ trong quân đội nhà vua. Mỗi sư đoàn trực một tháng trong năm. Có các gia trưởng, sĩ quan chỉ huy một trăm, hay một ngàn người và các sĩ quan khác. Mỗi sư đoàn có hai mươi bốn ngàn người.

Gia-sô-bê-am, con trai Xáp-đi-ên phụ trách sư đoàn thứ nhất trực tháng giêng. Có hai mươi bốn ngàn người trong sư đoàn ông. Gia-sô-bê-am, một trong những con cháu của Phê-rê, chỉ huy toàn thể sĩ quan cho tháng giêng.

Đô-đai, người A-hô-hít, phụ trách sư đoàn trực tháng thứ hai. Mích-lốt là một viên chỉ huy của sư đoàn. Có hai mươi bốn ngàn người trong sư đoàn của Đô-đai.

Viên chỉ huy thứ ba, trực tháng ba là Bê-nai-gia, con trai thầy tế lễ Giê-hô-gia-đa. Có hai mươi bốn ngàn người trong sư đoàn của ông. Ông là Bê-nai-gia thuộc nhóm Ba Mươi Chiến Sĩ Cận vệ. Bê-nai-gia là một chiến sĩ gan dạ chỉ huy những người đó. Am-mi-xa-bát, con Bê-nai-gia, chỉ huy sư đoàn của Bê-nai-gia.

Viên chỉ huy thứ tư cho tháng tư là A-xa-ên, em Giô-áp. Sau đó Xê-bê-đia, con A-xa-ên thay thế ông làm chỉ huy. Có hai mươi bốn ngàn người trong sư đoàn của ông.

Viên chỉ huy thứ năm cho tháng năm là Sam-hút, thuộc gia đình Y-ra. Có hai mươi bốn ngàn người trong sư đoàn của ông.

Viên chỉ huy thứ sáu cho tháng sáu là Y-ra, con trai Ích-kê từ thị trấn Thê-cô-a. Có hai mươi bốn ngàn người trong sư đoàn của ông.

10 Viên chỉ huy thứ bảy cho tháng bảy là Hê-lê gốc người Bê-lô-nít và là con cháu của Ép-ra-im. Có hai mươi bốn ngàn người trong sư đoàn của ông.

11 Viên chỉ huy thứ tám cho tháng tám là Síp-bê-cai. Ông ta gốc thành Hu-sa và thuộc gia đình Xê-ra. Có hai mươi bốn ngàn người trong sư đoàn của ông.

12 Viên chỉ huy thứ chín cho tháng chín là A-bi-ê-xe. Ông gốc A-na thốt thuộc Bên-gia-min. Có hai mươi bốn ngàn người trong sư đoàn của ông.

13 Viên chỉ huy thứ mười cho tháng mười là Ma-ha-ri. Ông gốc ở Nê-tô-pha, thuộc gia đình Xê-ra. Có hai mươi bốn ngàn người trong sư đoàn của ông.

14 Viên chỉ huy thứ mười một cho tháng mười một là Bê-nai-gia. Ông gốc ở Phi-ra-thôn thuộc Ép-ra-im. Có hai mươi bốn ngàn người trong sư đoàn của ông.

15 Viên chỉ huy thứ mười hai cho tháng mười hai là Hên-đai. Ông gốc ở Nê-tô-pha thuộc gia đình Ốt-ni-ên. Có hai mươi bốn ngàn người trong sư đoàn của ông.

Lãnh tụ các chi tộc Ít-ra-en

16 Sau đây là lãnh tụ các chi tộc trong Ít-ra-en. Ê-li-ê-xe, con trai Xích-ri lãnh đạo chi tộc Ru-bên. Sê-pha-tia, con Ma-a-ca lãnh đạo chi tộc Xi-mê-ôn. 17 Ha-sa-bia, con Kê-mu-ên lãnh đạo chi tộc Lê-vi. Xa-đốc lãnh đạo những người thuộc gia đình A-rôn. 18 Ê-li-hu, một trong các anh của Đa-vít, lãnh đạo chi tộc Giu-đa. Ôm-ri, con Mi-chên lãnh đạo chi tộc Y-xa-ca. 19 Ích-mai-gia, con trai Áp-đia lãnh đạo chi tộc Xê-bu-lôn. Giê-ri-mốt, con A-ri-ên lãnh đạo chi tộc Nép-ta-li. 20 Hô-sê, con A-xa-xia lãnh đạo chi tộc Ép-ra-im. Giô-ên, con Bê-đai-gia lãnh đạo chi tộc Ma-na-xe miền Tây. 21 Y-đô, con trai Xa-cha-ri lãnh đạo nửa chi tộc Ma-na-xe miền Đông ở Ghi-lê-át. Gia-a-xi-ên, con trai Áp-ne lãnh đạo chi tộc Bên-gia-min. 22 A-xa-rên, con trai Giê-hô-ram lãnh đạo chi tộc Đan.

Đó là những lãnh tụ của các chi tộc Ít-ra-en.

Đa-vít kiểm kê dân Ít-ra-en

23 CHÚA đã hứa làm cho dân Ít-ra-en đông như sao trên trời. Nên Đa-vít chỉ kiểm kê những người từ hai mươi tuổi trở lên mà thôi. 24 Giô-áp, con trai Xê-ru-gia bắt đầu kiểm kê dân chúng nhưng chưa xong [d]. Thượng Đế nổi giận cùng Ít-ra-en vì việc kiểm kê cho nên con số dân chúng không được ghi vào sách sử ký trong đời vua Đa-vít.

Các viên quản đốc của vua

25 A-ma-vết, con trai A-đi-ên phụ trách các kho của vua.

Giô-na-than con trai U-xia phụ trách các kho trong nước, thị trấn, làng mạc và các tháp canh.

26 Ết-ri con Kê-lúp phụ trách về các nông phu cày cấy ruộng nương.

27 Si-mê-i người thành Ra-ma phụ trách vườn nho.

Xáp-đi, người gốc Sa-pham phụ trách việc trữ rượu sản xuất từ các vườn nho.

28 Ba-anh Ha-nan, người gốc Ghê-đe phụ trách các cây ô liu và cây sung trên những đồi phía tây.

Giô-ách phụ trách việc trữ dầu ô liu.

29 Si-trai, người gốc Sa-rôn, phụ trách các bầy súc vật ăn cỏ trong Bình Nguyên Sa-rôn.

Sa-phát con Ách-lai phụ trách các bầy súc vật trong thung lũng.

30 Ô-bin, người Ích-ma-ên phụ trách lạc đà.

Giê-đê-gia người Mê-rô-nốt phụ trách lừa.

31 Gia-xi, người gốc Ha-rít, phụ trách các bầy súc vật.

Tất cả các người đó đều là những viên chức phụ trách tài sản của vua Đa-vít. 32 Giô-na-than, chú Đa-vít, làm cố vấn cho ông. Giô-na-than là người rất khôn ngoan và là chuyên gia luật. Giê-hi-ên con trai Hạc-mô-ni chăm sóc các con trai vua. 33 A-hi-tô-phên cố vấn cho vua. Hu-sai người Ác-kít là bạn vua. 34 Giê-hô-gia-đa và A-bia-tha về sau thay thế A-hi-tô-phên làm cố vấn cho vua. Giê-hô-gia-đa là con trai Bê-na-gia. Giô-áp là tư lệnh quân lực hoàng gia.

Dự án của Đa-vít cho đền thờ

28 Đa-vít truyền cho các lãnh tụ Ít-ra-en tập họp ở Giê-ru-sa-lem. Đông đủ lãnh tụ các chi tộc, các vị chỉ huy những sư đoàn của vua, chỉ huy hàng ngàn và hàng trăm người, các người phụ trách chăm sóc tài sản và gia súc của vua và các con trai vua, những người quản lý cung vua, các người có thế lực, và các chiến sĩ gan dạ đều tề tựu.

Vua Đa-vít đứng dậy nói, “Hỡi các thân thuộc và đồng bào, xin hãy lắng nghe ta nói. Ta muốn xây một nơi để đặt Rương Giao Ước của CHÚA. Ta muốn dùng nơi đó làm bệ chân [e] CHÚA. Cho nên ta đã có đồ án để xây đền thờ. Nhưng Thượng Đế phán cùng ta, ‘Ngươi không được xây đền thờ để thờ phụng ta vì ngươi là chiến sĩ đã giết nhiều người.’

Nhưng CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en đã chọn ta từ trong cả gia đình ta để làm vua trên Ít-ra-en đời đời. Ngài chọn chi tộc Giu-đa để lãnh đạo, và từ trong dân Giu-đa Ngài đã chọn gia đình ta. Từ gia đình đó Ngài đã vui lòng chọn ta làm vua trên Ít-ra-en. CHÚA đã ban cho ta nhiều con trai và trong số đó Ngài đã chọn Sô-lô-môn là vua mới trên Ít-ra-en. Ít-ra-en là nước Ngài. CHÚA phán cùng ta, ‘Sô-lô-môn con trai ngươi sẽ xây đền thờ cho ta và các sân quanh đền thờ. Ta đã chọn Sô-lô-môn làm con trai ta, ta sẽ làm cha nó [f]. Nó sẽ vâng theo các luật lệ và mệnh lệnh ta. Nếu nó tiếp tục vâng giữ các điều đó, ta sẽ khiến nước nó vững bền đời đời.’”

Đa-vít tiếp, “Bây giờ trước mặt cả Ít-ra-en, hội đoàn của CHÚA, và trong tầm tai nghe của Thượng Đế, ta bảo cho các ngươi điều nầy: Hãy cẩn thận vâng theo các mệnh lệnh của CHÚA là Thượng Đế các ngươi thì các ngươi sẽ giữ được đất màu mỡ nầy và truyền lại cho con cháu các ngươi đời đời.

Còn ngươi, Sô-lô-môn con ta, hãy chấp nhận Thượng Đế của cha con. Hãy vui vẻ phục vụ Ngài hết lòng vì CHÚA biết rõ lòng dạ của từng người. Ngài biết tư tưởng con. Nếu con đến xin Ngài giúp đỡ Ngài sẽ đáp lời con. Nhưng nếu con rời khỏi Ngài thì Ngài sẽ từ bỏ con đời đời. 10 Hỡi Sô-lô-môn, con phải hiểu điều nầy. CHÚA đã chọn con xây đền thờ làm nơi thánh cho Ngài. Hãy bạo dạn hoàn tất công tác.”

11 Rồi Đa-vít trao cho Sô-lô-môn đồ án xây cất đền thờ và các sân quanh đền thờ. Các đồ án đó gồm các tòa nhà chính, các kho chứa, các phòng thượng, các phòng trong, và nơi xóa tội cho dân chúng. 12 Đa-vít trao cho Sô-lô-môn các đồ án của tất cả những gì ông dự định trong trí: sân quanh đền thờ CHÚA và các phòng quanh đó, các kho ngân khố, cùng các phòng chứa các vật thánh dùng trong đền thờ. 13 Đa-vít trao cho Sô-lô-môn chỉ thị về cách hướng dẫn các nhóm thầy tế lễ và người Lê-vi. Đa-vít cho ông biết tất cả các công tác phục vụ trong đền thờ CHÚA và về các vật dụng dùng trong đền thờ 14 tức là những đồ dùng bằng vàng hay bạc. Đa-vít chỉ cho Sô-lô-môn biết mỗi món phải dùng bao nhiêu vàng hay bạc. 15 Đa-vít cho ông biết mỗi chân đèn vàng và đèn phải dùng bao nhiêu vàng, và các chân đèn bạc và chân đèn thường phải dùng bao nhiêu bạc. Các chân đèn khác nhau phải dùng đúng nơi đúng chỗ. 16 Đa-vít dặn mỗi cái bàn để bánh thánh phải dùng bao nhiêu vàng, và cần bao nhiêu bạc để dùng cho các bàn bằng bạc. 17 Ông dặn phải dùng bao nhiêu vàng ròng để làm nĩa, chén, bình đựng, và mỗi dĩa vàng phải dùng bao nhiêu vàng. Ông dặn mỗi dĩa bạc phải dùng bao nhiêu bạc 18 và phải dùng bao nhiêu vàng ròng để dùng cho bàn thờ xông hương. Ông trao cho Sô-lô-môn đồ án để làm xe bọc sắt trên đó có các con thú bằng vàng xòe cánh trên Rương Giao Ước với CHÚA.

19 Đa-vít nói, “CHÚA hướng dẫn ta soạn các đồ án nầy. Ngài giúp ta hiểu biết mọi việc trong đồ án.”

20 Đa-vít bảo con mình là Sô-lô-môn, “Hãy mạnh dạn và can đảm thực hiện công tác. Đừng lo sợ hay nản chí vì CHÚA là Thượng Đế ta ở cùng con. Ngài sẽ không thất hứa hay từ bỏ con cho đến khi con hoàn tất công tác xây đền thờ cho CHÚA. 21 Các nhóm thầy tế lễ và người Lê-vi sẵn sàng bắt tay vào việc thực hiện công tác xây đền thờ của Thượng Đế. Mỗi tay thợ khéo sẵn sàng giúp con thực hiện tất cả các công tác. Các lãnh tụ và toàn dân sẽ vâng theo các mệnh lệnh con ban ra.”

Các vật dâng hiến cho đền thờ

29 Vua Đa-vít bảo toàn thể dân chúng đang tập họp lại rằng, “Thượng Đế đã chọn Sô-lô-môn con trai ta. Nó hãy còn non nớt và chưa biết hết những gì cần phải biết, nhưng công tác nầy rất quan trọng. Đền nầy không phải cho người mà cho CHÚA là Thượng Đế. Ta đã cố gắng hết sức để chuẩn bị xây đền thờ cho Thượng Đế. Ta đã cung cấp vàng để dùng vào các vật dụng bằng vàng và bạc cho những vật dụng bằng bạc. Ta đã cung cấp đồng cho các vật dụng bằng đồng, và sắt cho những vật dụng bằng sắt. Ta cũng đã cung cấp gỗ cho những vật dụng bằng gỗ và ngọc bích cho những đồ khảm. Ta đã cung cấp ngọc quí đủ màu, đá quí và cẩm thạch trắng. Ta cung cấp số lượng rất lớn những thứ nầy. Ta đã cung cấp những thứ đó cho đền thờ, nay ta cũng dâng kho báu của ta gồm vàng và bạc, vì ta thực tâm muốn đền thờ của Thượng Đế được xây lên. Ta đã dâng khoảng hai trăm hai mươi ngàn cân vàng ròng Ô-phia, và khoảng năm trăm hai mươi ngàn cân bạc nguyên chất. Vàng và bạc đó sẽ được dùng để bọc vách của các toà nhà và để dùng cho các vật dụng bằng vàng và bạc. Các thợ khéo sẽ dùng vàng và bạc để làm các vật dụng cho đền thờ. Bây giờ hôm nay ai là người sẵn lòng dâng mình cho công việc CHÚA?”

Các trưởng gia đình, lãnh tụ của các chi tộc trong Ít-ra-en, các viên chỉ huy hàng ngàn và hàng trăm người cùng các quản đốc công tác nhà vua dâng hiến những vật quí giá. Họ dâng khoảng ba trăm tám mươi ngàn cân vàng, khoảng bảy trăm năm mươi ngàn cân bạc, khoảng một triệu ba trăm năm mươi ngàn cân đồng, và khoảng bảy triệu năm trăm ngàn cân sắt cho đền thờ Thượng Đế. Dân chúng mang các ngọc quí dâng vào ngân khố của đền thờ CHÚA, và Giê-hi-ên thuộc gia đình Ghẹt-sôn, thu giữ các thứ đá quí đó. Các lãnh tụ vui lòng dâng hiến hoàn toàn cho CHÚA. Dân chúng vui mừng thấy các lãnh tụ vui lòng dâng hiến. Vua Đa-vít cũng rất hớn hở.

Lời cầu nguyện của Đa-vít

10 Đa-vít ca ngợi CHÚA trước mặt toàn dân đang tập họp. Ông nói:

“Lạy CHÚA, chúng tôi ca ngợi Ngài,
    là Thượng Đế của Ít-ra-en, tổ tiên chúng tôi.
    Chúng tôi ca ngợi Ngài đời đời không thôi.
11 Lạy Chúa, Ngài là Đấng cao cả quyền năng.
    Ngài đầy vinh hiển, đắc thắng và vinh dự.
    Mọi vật trên đất đều thuộc về Ngài.
Lạy Chúa, vương quốc cũng thuộc về Ngài;
    Ngài cai trị mọi loài.
12 Sự giàu có và sang trọng từ Ngài mà đến.
    Ngài cai trị mọi loài.
    Ngài có quyền năng và sức mạnh
    để khiến cho bất cứ ai trở nên uy danh và cường thịnh.
13 Bây giờ, Thượng Đế ôi, chúng tôi tạ ơn Ngài
    và ca ngợi danh vinh hiển Ngài.
14 Những điều nầy thực ra không phải do tôi hay dân sự tôi mà có.
    Mọi vật đều do Ngài mà ra;
    Chúng tôi dâng lại cho CHÚA điều CHÚA ban cho chúng tôi.
15 Chúng tôi như kiều dân và khách lạ,
    y như tổ tiên chúng tôi.
Đời chúng trên đất như bóng câu.
    Chẳng có hi vọng gì.
16 Lạy Chúa là Thượng Đế chúng tôi, chúng tôi đã tụ họp tại đây
    để xây đền phụng thờ Ngài.
Nhưng mọi điều chúng tôi có là do Ngài ban cho;
    mọi vật đều là của Ngài.
17 Lạy Thượng Đế tôi, tôi biết Ngài thử lòng loài người.
    Ngài vui lòng khi người ta làm điều chính trực.
Tôi vui mừng dâng hiến những điều nầy cho Ngài,
    tôi dâng hiến trong tấm lòng chân thật.
Dân sự Ngài họp lại đây vui mừng dâng hiến cho Ngài,
    và tôi cũng vui mừng thấy họ dâng hiến.
18 Lạy Chúa, Ngài là Thượng Đế của tổ tiên chúng tôi,
    Thượng Đế của Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp [g].
Xin hãy làm cho họ luôn luôn vui thích phục vụ Ngài,
    và khiến họ muốn vâng lời Ngài.
19 Xin ban cho Sô-lô-môn ý muốn phục vụ Ngài.
    Giúp nó luôn luôn vâng theo các mệnh lệnh,
luật lệ, và qui tắc Ngài.
Xin giúp nó xây đền thờ mà tôi đã chuẩn bị.”

20 Rồi Đa-vít nói cùng toàn dân đang tập họp, “Hãy chúc tụng CHÚA là Thượng Đế các ngươi.” Vậy mọi người đồng ca ngợi CHÚA, Thượng Đế của tổ tiên mình. Họ sấp mặt xuống đất để tỏ lòng tôn kính CHÚA và vua.

Sô-lô-môn lên ngôi vua

21 Hôm sau dân chúng dâng sinh tế cho CHÚA. Họ dâng của lễ thiêu cho Ngài gồm một ngàn con bò đực, một ngàn con chiên đực và một ngàn chiên con đực. Họ cũng mang của lễ uống đến. Vô số sinh tế được dâng lên cho toàn dân Ít-ra-en. 22 Hôm đó dân chúng vui mừng ăn uống. CHÚA ở cùng họ.

Rồi họ phong Sô-lô-môn, con trai Đa-vít lên ngôi vua một lần nữa [h]. Họ đổ dầu trên Sô-lô-môn để bổ nhiệm ông làm vua trước mặt CHÚA. Họ cũng đổ dầu trên Xa-đốc để bổ nhiệm ông làm thầy tế lễ.

23 Rồi Sô-lô-môn ngồi trên ngôi của Chúa làm vua thay cho cha mình là Đa-vít. Sô-lô-môn rất thành công, toàn dân Ít-ra-en đều vâng phục ông. 24 Tất cả các lãnh tụ, quân sĩ cùng các hoàng tử của vua Đa-vít đều chấp nhận Sô-lô-môn làm vua, cam kết vâng lời ông. 25 CHÚA làm cho Sô-lô-môn uy nghi trước mặt cả dân Ít-ra-en và ban sự tôn trọng cho ông. Trước đời vua Sô-lô-môn không có vua nào trong Ít-ra-en được tôn trọng như thế.

26 Đa-vít, con trai Gie-xê làm vua trên cả Ít-ra-en.

Đa-vít qua đời

27 Ông trị vì trên Ít-ra-en bốn mươi năm: bảy năm ở Hếp-rôn và ba mươi ba năm ở Giê-ru-sa-lem. 28 Khi về già thì Đa-vít qua đời. Ông sống một đời hạnh phúc lâu dài, nhận được nhiều điều sang trọng. Sô-lô-môn, con trai ông lên nối ngôi.

29 Mọi việc Đa-vít làm trong khi trị vì từ đầu đến cuối đều được ghi chép trong sách ký lục của Sa-mu-ên, đấng tiên kiến, sách ký lục của Na-than, nhà tiên tri, và trong sách ký lục của Gát, đấng tiên kiến. 30 Những bút tích đó ghi lại những điều Đa-vít thực hiện khi làm vua trên Ít-ra-en. Các điều ghi chép ấy cho thấy uy quyền của ông và những diễn tiến xảy ra cho ông, cho Ít-ra-en và các nước láng giềng.

Notas al pie

  1. I Sử Ký 26:5 Ô-bết Ê-đôm Thượng Đế ban phúc lành cho Ô-bết Ê-đôm khi Rương Giao Ước được đặt ở nhà ông. Xem I Sử 21.
  2. I Sử Ký 26:18 sân Nghĩa của từ ngữ nầy không rõ ràng, khó xác định.
  3. I Sử Ký 26:20 người Lê-vi khác Hay “A-hi-gia, người Lê-vi …”
  4. I Sử Ký 27:24 Giô-áp … chưa xong Thượng Đế ngăn cản ông. Xem I Sử 21:1-30.
  5. I Sử Ký 28:2 bệ chân Thường từ ngữ nầy có nghĩa là một cái hộp nhỏ đặt trước cái ghế nhưng ở đây nghĩa là đền thờ. Ý ông muốn nói rằng Thượng Đế là vua ngồi trên ghế và đặt chân lên trên đền thờ mà ông muốn xây.
  6. I Sử Ký 28:6 ta sẽ làm cha nó Tức là Thượng Đế lập Sô-lô-môn lên làm vua. Xem Thi 2:7.
  7. I Sử Ký 29:18 Gia-cốp Hay “Ít-ra-en.”
  8. I Sử Ký 29:22 Rồi họ … một lần nữa Sô-lô-môn được chọn làm vua khi A-đô-ni-gia, anh khác mẹ của ông muốn lên ngôi vua. Xem I Vua 1:5-39.

Mọi điều tốt lành đều do Thượng Đế ban cho

Bài ca khi đang đi lên đền thờ. Do Sô-lô-môn sáng tác.

127 Nếu Chúa không cất nhà,
    thì thợ xây cũng trở thành vô dụng.
Nếu Chúa không canh giữ thành,
    thì các lính canh chẳng làm được gì.

Uổng công cho các ngươi là kẻ thức dậy sớm,
    đi ngủ trễ, lo làm ăn.
Chúa ban giấc ngủ ngon cho kẻ Ngài yêu.

Con cái là món quà [a] Chúa ban;
    trẻ thơ là phần thưởng của lòng mẹ.
Con cái sinh ra trong khi cha còn trẻ
    như mũi tên trong tay chiến sĩ.
Phước cho người nào có đầy tên trong giỏ.
    Họ sẽ có ưu thế khi chống nhau với kẻ thù nơi cửa thành [b].

Notas al pie

  1. Thánh Thi 127:3 món quà Hay “di sản.” Từ ngữ nầy thường ám chỉ đất đai mà Thượng Đế cấp cho mỗi gia đình trong Ít-ra-en.
  2. Thánh Thi 127:5 cửa thành Đây có thể nghĩa là đánh nhau với quân thù để bảo vệ thành phố hay là thắng một vụ kiện được xét xử nơi cửa thành.