Añadir traducción en paralelo Imprimir Opciones de la página

Cầu xin được đối xử công bằng

Bài ca của Đa-vít theo điệu Si-gai [a]. Ông hát bài nầy cho CHÚA về vụ Cút, người Bên-gia-min.

Lạy CHÚA là Thượng Đế tôi,
    tôi trông cậy Ngài che chở tôi.
    Xin giải cứu tôi khỏi các kẻ
    đang rượt đuổi tôi.
Nếu không chúng nó sẽ xé xác tôi như sư tử.
    Chúng sẽ phanh thây tôi,
    không ai cứu giúp.

Lạy CHÚA là Thượng Đế tôi ôi,
    tôi đã làm gì?
    Tay tôi có làm gì quấy không?
Tôi có đối xử bất công với bạn hữu [b] tôi
    hay vô cớ ăn cắp đồ của kẻ thù tôi không?
Nếu tôi có làm những điều ấy thì cầu cho kẻ thù tôi rượt theo bắt được tôi.
Mong cho nó chà đạp tôi dưới cát bụi
    và chôn vùi tôi xuống đất đen. Xê-la

Lạy CHÚA, xin hãy nổi thịnh nộ đứng dậy [c];
    chống lại cơn giận của kẻ thù tôi.
Thượng Đế tôi ơi, xin hãy đứng dậy và định ngày xét xử.
Xin hãy nhóm họp các dân lại quanh Ngài
    và trên ngôi cao từ trời xét xử chúng.
Lạy CHÚA xin hãy xét xử các dân.
    Lạy CHÚA, xin bênh vực tôi vì tôi làm điều phải,
Lạy Thượng Đế tối cao,
    tôi không làm điều gì quấy.
Lạy Thượng Đế, Ngài luôn luôn làm điều phải.
    Ngài biết tư tưởng và cảm nghĩ
    của lòng chúng tôi.
Xin hãy ngăn chận hành vi kẻ ác
    và cứu giúp kẻ làm điều phải.

10 Thượng Đế che phủ tôi
    như cái thuẫn đỡ;
    Ngài cứu những kẻ có lòng ngay thật.
11 Thượng Đế phân xử theo lẽ công bằng,
    Ngài luôn sẵn sàng trừng phạt kẻ ác.
12 Nếu kẻ ác không ăn năn,
    thì Thượng Đế sẽ mài gươm;
Ngài đã giương cung và nhắm.
13 Ngài đã chuẩn bị các khí giới
    độc hại; và chế tên lửa.

14 Có những kẻ âm mưu điều ác,
    gieo rối loạn và tung lời láo khoét.
15 Chúng đào hố để kẻ khác sụp,
    nhưng chính mình lại rơi vào đó.
16 Chính chúng sẽ lâm vào cảnh khốn đốn;
    sự hung ác mà chúng gây ra
    sẽ trở lại gây hại cho chúng.

17 Tôi ca ngợi CHÚA vì Ngài làm
    điều công bằng.
    Tôi ca tụng Thượng Đế Chí cao.

Sự cao cả của Chúa

Soạn cho nhạc trưởng theo điệu ghi-tít. Thi thiên của Đa-vít.

Lạy CHÚA là chủ tôi, danh CHÚA
    thật diệu kỳ trên khắp đất!
    Danh đó khiến trời cao ca ngợi Ngài.

Vì cớ kẻ thù nên Ngài dạy cho trẻ thơ
    và hài nhi ca ngợi Ngài
    để chúng bị câm miệng
    và để diệt những kẻ định báo thù.

Tôi nhìn bầu trời do tay Ngài tạo nên.
    Tôi ngắm mặt trăng và các ngôi sao mà Ngài đã dựng nên.
Thì con người là gì mà Ngài bận tâm?
    Tại sao CHÚA chăm sóc loài người [d]?
CHÚA tạo nên con người [e] dưới thiên sứ một chút
    rồi ban cho người vinh hiển và danh dự.
Ngài đặt con người quản trị
    mọi loài Ngài đã tạo dựng.
    Ngài đặt mọi vật dưới quyền
    kiểm soát của con người:
tất cả chiên cừu, gia súc, muông thú,
chim trời, cá biển và mọi sinh vật trong biển.
Lạy CHÚA là chủ tôi,
    danh CHÚA thật diệu kỳ trên khắp đất!

Cảm tạ vì đắc thắng

[f] Soạn cho nhạc trưởng theo điệu “Cái chết của Con [g].” Thi thiên của Đa-vít.

Lạy CHÚA, tôi sẽ hết lòng ca ngợi Ngài.
    Tôi sẽ thuật lại các phép lạ Ngài đã làm.
Tôi sẽ vui mừng vì Ngài;
    lạy Thượng Đế Chí Cao,
    tôi sẽ ca ngợi danh Ngài.
Các kẻ thù tôi lùi lại;
    vì cớ Ngài chúng bị vây khốn
    và tiêu diệt.

Ngài đã nghe lời than vãn của tôi;
    Ngài ngự trên ngôi và phân xử
    công bằng cho tôi.
CHÚA quở trách các quốc gia
    và tiêu diệt kẻ ác;
    Ngài vĩnh viễn xóa sạch tên chúng nó.
Kẻ thù tôi bị tiêu diệt đời đời.
    Ngài hủy phá thành của chúng nó;
    không ai còn nhớ đến chúng nữa.

Nhưng CHÚA ngự trị đến muôn đời.
    Ngài ngự trên ngôi và phân xử,
dùng lẽ công bằng phân xử thế gian;
    Ngài sẽ phân xử chính trực
    cho mọi dân.
CHÚA bênh vực kẻ khốn khổ;
    Ngài bênh vực họ khi họ
    lâm cảnh khốn cùng.

10 Những ai biết uy danh CHÚA
    sẽ đặt lòng tin cậy nơi Ngài
    vì Ngài không xua đuổi
    kẻ tìm kiếm Ngài.

11 Hãy ca ngợi CHÚA là vua ngự
    trên núi Xi-ôn [h].
    Hãy thuật cho các dân biết
    những việc lớn lao Ngài làm.
12 Ngài ghi nhớ kẻ giết người;
Ngài không quên tiếng kêu
    của kẻ khốn cùng.

13 Lạy CHÚA, xin thương xót tôi.
    Hãy xem kẻ thù hại tôi biết bao nhiêu.
    Đừng để tôi đi qua cổng chết.
14 Rồi tại cửa thành Giê-ru-sa-lem,
    tôi sẽ ca ngợi Ngài;
    tôi sẽ vui mừng vì Ngài đã cứu tôi.

15 Các dân rơi vào hố chúng đã đào.
    Chân chúng vướng phải lưới
    chúng đã giăng.
16 CHÚA đã tỏ mình qua những
    phán quyết công bình của Ngài;
    kẻ ác bị sập bẫy do điều chúng làm. Hi-gai-on [i]Xê-la

17 Kẻ ác đi xuống mồ
    và những ai quên CHÚA cũng vậy.
18 Nhưng những kẻ khốn cùng
    sẽ không bị quên lãng.
    Hi vọng của kẻ nghèo không bao giờ tiêu mất.

19 Lạy CHÚA, xin đứng dậy phân xử các nước.
    Đừng để các dân tưởng mình mạnh mẽ.
20 Lạy CHÚA, xin hãy dạy họ kính sợ Ngài.
    Các dân nên biết rằng mình
    chẳng qua chỉ là người phàm. Xê-la

Notas al pie

  1. Thánh Thi 7:1 Thi thiên 7 điệu Si-gai Có thể là một điệu hát buồn thảm và đầy tình cảm.
  2. Thánh Thi 7:4 bạn hữu Hay “đồng minh.”
  3. Thánh Thi 7:6 Lạy CHÚA, … đứng dậy Dân chúng nói câu nầy khi họ mang Rương Giao Ước vào mặt trận để chứng tỏ Thượng Đế ở với họ. Xem Dân 10:35-36.
  4. Thánh Thi 8:4 Thì con người … loài người Nguyên văn, “Ê-nóc … con cái A-đam.” Đây là lối nói của người Hê-bơ-rơ để ám chỉ loài người—con cháu của A-đam và Ê-nóc.
  5. Thánh Thi 8:5 con người Tức là loài người nói chung.
  6. Thánh Thi 9:1 Thi thiên 9 Trong nhiều bản Hê-bơ-rơ và bản cổ Hi-lạp thì Thi thiên 9 và 10 nhập chung làm một.
  7. Thánh Thi 9:1 Thi thiên 9 Cái chết của Con Nguyên văn, “A-la-mốt của Ben.” Đây là một điệu nhạc hay là một bản hòa tấu trong đền thờ. Xem I Sử 15:20.
  8. Thánh Thi 9:11 Hãy ca ngợi … trên núi Xi-ôn Hay “Hỡi cư dân Xi-ôn, hãy ca ngợi CHÚA.” Xem “Xi-ôn” trong Bảng Giải Thích Từ Ngữ.
  9. Thánh Thi 9:16 Hi-gai-on Hay “suy tư.” Cùng với dấu hiệu Xê-la, dấu hiệu nầy có thể nghĩa là hãy ngưng lại và suy tư.

Phao-lô ở Cô-rinh

18 Sau đó Phao-lô rời A-thên đi sang Cô-rinh. Tại đây ông gặp một người Do-thái tên A-qui-la, sinh quán ở xứ Bôn-tu. A-qui-la và vợ là Bích-xi-la, mới từ nước Ý đến Cô-rinh vì hoàng đế Lau-đia ra lệnh trục xuất tất cả mọi người Do-thái khỏi La-mã. Phao-lô đến thăm A-qui-la và Bích-xi-la. Vì hai vợ chồng cùng nghề may lều như Phao-lô, nên ông ở và làm việc chung với họ. Mỗi ngày Sa-bát, Phao-lô thảo luận với các người Do-thái và Hi-lạp trong hội đường, tìm cách thuyết phục họ tin nhận Chúa Giê-xu.

Xi-la và Ti-mô-thê cũng mới từ Ma-xê-đoan đến nhập với Phao-lô ở Cô-rinh. Sau đó, Phao-lô dùng thì giờ rao giảng Tin Mừng, chứng minh cho người Do-thái thấy Chúa Giê-xu là Đấng Cứu Thế. Nhưng họ không chịu chấp nhận lời dạy của Phao-lô và buông ra những lời thô bỉ. Cho nên ông giũ bụi khỏi áo mình [a] và cảnh cáo họ, “Nếu các anh em không được cứu là tại các anh em! Tôi đã làm hết sức mình rồi! Từ nay, tôi chỉ sẽ đi đến với những người không phải Do-thái thôi.” Phao-lô rời hội đường, dọn đến nhà Tít Giúc-tu, kế bên hội đường. Ông nầy kính thờ Thượng Đế. Cơ-rít-bu là quản lý hội đường ấy. Ông và mọi người trong nhà đều tin nhận Chúa. Nhiều người khác ở Cô-rinh cũng nghe Phao-lô, tin nhận và chịu lễ báp-têm.

Ban đêm, Chúa nói với Phao-lô qua một dị tượng rằng, “Đừng sợ. Chớ im lặng nhưng hãy tiếp tục rao giảng cho dân chúng. 10 Ta ở với ngươi, không ai hại ngươi được đâu vì có rất nhiều người của ta trong thành nầy.” 11 Phao-lô ở đó một năm rưỡi, giảng lời Chúa cho dân chúng.

Phao-lô bị giải đến trước Ga-li-ô

12 Khi Ga-li-ô đang giữ chức tổng đốc miền Nam Hi-lạp thì có mấy người Do-thái họp lại chống Phao-lô và lôi ông ra tòa. 13 Họ tố cáo rằng, “Người nầy dạy dân ta thờ Thượng Đế theo lối trái nghịch với luật chúng ta.”

14 Phao-lô định lên tiếng thì Ga-li-ô bảo mấy người Do-thái, “Mấy anh Do-thái à, tôi sẵn sàng nghe mấy anh nếu mấy anh khiếu nại về chuyện phạm pháp hay lỗi lầm gì. 15 Chứ còn điều mấy anh cáo chỉ thuộc những vấn đề từ ngữ và danh hiệu—những chuyện tranh luận trong luật pháp mấy anh thôi. Cho nên, chuyện nầy mấy anh phải tự giải quyết lấy. Tôi không phân xử đâu.” 16 Ga-li-ô liền đuổi họ ra khỏi tòa án.

17 Chúng liền bắt Sốt-then, quản lý hội đường, đánh đòn ngay tại tòa án nhưng Ga-li-ô chẳng thèm để ý.

Phao-lô trở về An-ti-ốt

18 Phao-lô ở với các tín hữu nhiều ngày nữa rồi từ giã, xuống thuyền đi qua xứ Xy-ri, cùng với A-qui-la và Bích-xi-la. Ở Xen-cơ-rê Phao-lô cạo đầu [b], vì ông có lời hứa nguyện với Thượng Đế. 19 Rồi họ đến Ê-phê-sô, Phao-lô chia tay với Bích-xi-la và A-qui-la. Trong khi ở đó, Phao-lô đi vào hội đường và thảo luận với người Do-thái. 20 Họ yêu cầu ông ở thêm nữa nhưng Phao-lô từ chối. 21 Lúc từ giã, Phao-lô bảo họ, “Nếu Chúa muốn thì tôi sẽ trở lại thăm anh chị em.” Rồi ông xuống thuyền rời Ê-phê-sô.

22 Đến Xê-xa-rê, Phao-lô đi lên và chào mừng hội thánh, rồi ông qua An-ti-ốt. 23 Ở lại đó ít lâu, ông từ giã, đi qua thăm các miền thuộc Ga-la-ti và Phi-ri-gi. Đi từ thành nầy qua thành khác, ông khích lệ và nâng đỡ các tín hữu.

A-bô-lô ở Ê-phê-sô và Cô-rinh

24 Có một người Do-thái tên A-bô-lô đến Ê-phê-sô. Quê ông ở thành A-lịch-sơn. Ông có tài ăn nói và biết Thánh Kinh rất khá. 25 Ông được dạy dỗ về đường lối Chúa và luôn luôn hăng hái [c] giảng dạy sự thật của Chúa Giê-xu. Nhưng A-bô-lô chỉ biết có lễ báp-têm của Giăng [d] mà thôi. 26 A-bô-lô bắt đầu giảng dạy rất hùng hồn trong hội đường. Khi Bích-xi-la và A-qui-la nghe ông giảng, liền mời về nhà giải thích thêm cho ông về đường lối Chúa. 27 A-bô-lô muốn đi đến miền Nam Hi-lạp, nên các anh em giúp đỡ và viết một bức thư giới thiệu ông với các tín hữu ở đó, yêu cầu họ tiếp đón ông. Các tín hữu nầy đã tin nhận Chúa Giê-xu, nhờ ân phúc Thượng Đế, cho nên khi A-bô-lô đến nơi, ông nâng đỡ họ rất nhiều. 28 Ông biện luận hùng hồn với mấy người Do-thái trước mặt cả dân chúng, dùng Thánh Kinh chứng minh rằng Chúa Giê-xu là Chúa Cứu Thế.

Notas al pie

  1. Công Vụ Các Sứ đồ 18:6 giũ bụi … áo mình Đây là dấu hiệu cảnh cáo cho thấy Phao-lô không còn nói chuyện với người Do-thái ở thành ấy nữa.
  2. Công Vụ Các Sứ đồ 18:18 cạo đầu Điều nầy để chứng tỏ Phao-lô đã thực hiện xong lời hứa nguyện Na-xi-rê, tức một thời gian biệt riêng dành để phục vụ Thượng Đế. Xem Dân 6:1-21.
  3. Công Vụ Các Sứ đồ 18:25 hăng hái Hay “được Thánh Linh nung nấu.”
  4. Công Vụ Các Sứ đồ 18:25 Giăng Tức Giăng Báp-tít. Xem thêm chú thích nầy ở Bảng Giải Thích Từ Ngữ.