Add parallel Print Page Options

Phao-lô, tôi tớ của Chúa Cứu Thế Giê-xu, được Thượng Đế gọi làm sứ đồ và được chọn rao Tin Mừng của Ngài cho mọi người.

Từ xưa, qua các nhà tiên tri của Ngài, Thượng Đế đã hứa ban Tin Mừng theo Thánh Kinh viết. 3-4 Tin Mừng về Con Thượng Đế: Đấng Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta. Về bản chất loài người, Ngài được sinh trong dòng họ vua Đa-vít nhưng qua Thánh Linh [a], Ngài được chỉ định làm Con Thượng Đế, với quyền năng cao cả, chứng tỏ bằng việc Ngài sống lại từ kẻ chết. Qua Chúa Cứu Thế, Thượng Đế đã giao cho tôi nhiệm vụ đặc biệt của một sứ đồ, để đưa dẫn mọi người trên thế giới trở lại tin nhận và vâng phục Chúa. Tôi làm công tác nầy vì Ngài. Còn quí anh chị em ở La-mã cũng được kêu gọi để thuộc riêng về Ngài.

Kính gởi: Anh chị em ở La-mã là người đã được Thượng Đế yêu thương và kêu gọi để trở thành dân thánh của Ngài.

Cầu chúc anh chị em nhận được ân phúc và bình an từ Thượng Đế, Cha chúng ta và từ Chúa Cứu Thế Giê-xu.

Lời cầu nguyện tạ ơn

Trước hết tôi cảm tạ Thượng Đế tôi, qua Chúa Cứu Thế Giê-xu về tất cả anh chị em, vì khắp nơi ai nấy đều ca ngợi đức tin anh chị em. Thượng Đế, Đấng mà tôi hết lòng phục vụ bằng cách rao truyền Tin Mừng về Con Ngài, biết rằng tôi luôn luôn nhắc đến anh chị em 10 mỗi khi cầu nguyện. Tôi cầu xin được đến thăm anh chị em và nếu đẹp ý Thượng Đế, thì việc ấy sẽ thành. 11 Tôi rất muốn gặp gỡ anh chị em để dùng những ân tứ thuộc linh tôi có mà giúp anh chị em lớn mạnh hơn. 12 Tôi muốn mỗi người trong chúng ta nên giúp đỡ lẫn nhau, theo đức tin mình có. Đức tin anh chị em sẽ khích lệ tôi, ngược lại, đức tin tôi sẽ khích lệ anh chị em. 13 Thưa anh chị em, tôi muốn anh chị em biết rằng, nhiều lần tôi dự định đến thăm các anh chị em nhưng chưa được. Tôi muốn thăm để giúp các anh chị em lớn lên về mặt tâm linh như tôi đã giúp các người ngoại quốc khác.

14 Tôi mang nặng một nghĩa vụ đối với mọi người—từ người Hi-lạp hay không phải Hi-lạp, người khôn ngoan cũng như người ngu dốt. 15 Vì thế mà tôi rất muốn rao truyền Tin Mừng cho quí anh chị em là người La-mã.

16 Tôi rất hãnh diện về Tin Mừng nầy, vì là quyền năng của Thượng Đế để cứu những ai tin—trước hết là người Do-thái rồi đến những người không phải Do-thái. 17 Tin Mừng ấy cho thấy Thượng Đế giúp cho con người hòa thuận lại với Ngài—bắt đầu và kết thúc đều qua đức tin. Như Thánh Kinh viết, “Những ai đã hòa thuận lại với Ngài sẽ sống mãi bằng đức tin.” [b]

Mọi người đều phạm tội

18 Cơn giận của Thượng Đế từ trời đã tỏ ra để chống lại mọi điều ác và trái phép mà con người làm. Qua nếp sống độc ác của họ, con người đã che giấu sự thật. 19 Thượng Đế nổi giận, vì những gì họ cần biết về Thượng Đế thì đã trình bày rõ ràng cho họ. Chính Thượng Đế đã phơi bày những điều ấy ra cho họ. 20 Có nhiều điều về Thượng Đế mà con người không thể thấy—chẳng hạn như quyền năng vô hạn và thiên tính của Ngài. Nhưng từ thuở tạo thiên lập địa, hai đặc tính nầy đều sờ sờ ra đó và ai cũng hiểu được. Cho nên họ không có lý do gì để bào chữa về những việc làm xấu xa của mình. 21 Họ đã biết Thượng Đế, nhưng không chịu tôn kính hoặc tạ ơn Ngài. Tư tưởng họ thật vô dụng. Trí óc họ đầy ngu tối. 22 Họ bảo rằng mình khôn ngoan nhưng lại hóa ra ngu dại. 23 Họ đánh đổi vinh hiển của Thượng Đế, là Đấng sống đời đời, để thờ lạy những thần tượng tạc giống hình người, chim chóc, súc vật hoặc rắn rết.

24 Vì họ hành động như thế nên Thượng Đế bỏ mặc họ đi theo con đường tội lỗi, lúc nào họ cũng muốn làm ác. Do đó, họ đầy dẫy tội nhục dục, sử dụng thân thể với nhau một cách bậy bạ. 25 Họ đã đánh đổi sự thật của Thượng Đế để lấy sự dối trá. Họ thờ phụng những vật được tạo dựng, thay vì thờ Đấng Tạo Hóa là Đấng đáng được ca ngợi đời đời. A-men.

26 Vì thế cho nên Thượng Đế đã bỏ mặc họ làm những việc nhơ nhuốc theo ý họ. Đàn bà không còn thực hành tình dục tự nhiên nữa, mà trái lại, hành dục với nhau. 27 Đàn ông cũng vậy, không còn thực hành tình dục tự nhiên nữa, mà lại hành dục với nhau. Đàn ông làm những việc nhơ nhuốc với nhau, vì lý do đó thân thể họ phải mang lấy hình phạt về tội phạm của mình.

28 Người ta không cho việc hiểu biết thực sự về Thượng Đế là quan trọng. Nên Thượng Đế bỏ mặc họ suy nghĩ theo ý tưởng ngông cuồng, làm những việc bậy bạ. 29 Lòng họ đầy dẫy tội lỗi, độc ác, ích kỷ, ganh ghét, đố kỵ, giết người, tranh giành, dối trá, làm hại nhau. Họ nói hành, 30 bêu xấu lẫn nhau và thù ghét Thượng Đế. Họ cộc cằn, kiêu căng và khoác lác. Lúc nào họ cũng nghĩ đến chuyện làm quấy, không vâng lời cha mẹ. 31 Họ ngu dại, không giữ lời hứa, thiếu nhân từ và khoan dung với người khác. 32 Họ biết luật Thượng Đế dạy rằng những ai có đời sống như vậy thật đáng chết, nhưng không những họ vẫn tiếp tục làm ác, mà lại còn xúi giục kẻ khác làm nữa.

Các bạn cũng phạm tội

Nếu bạn nghĩ rằng mình có thể lên án người khác, thì bạn lầm. Khi lên án người khác là tự lên án mình, vì chính mình cũng làm như họ. Thượng Đế lên án những người làm như thế và chúng ta biết phán quyết của Ngài là công bằng. Bạn lên án những người phạm tội, mà chính mình cũng phạm tội như họ. Bạn tưởng sẽ thoát khỏi sự trừng phạt của Thượng Đế sao? Ngài rất nhân từ và kiên nhẫn, chờ đợi bạn thay đổi, nhưng bạn không đếm xỉa gì đến lòng nhân từ Ngài. Bạn không biết rằng Thượng Đế nhân từ cốt để cho bạn ăn năn. Nhưng bạn ương ngạnh, không chịu thay đổi, cho nên bạn sẽ rước lấy sự trừng phạt nặng nề hơn, trong ngày Thượng Đế nổi giận. Vào ngày ấy, mọi người sẽ thấy sự xét xử công bình của Ngài. Thượng Đế sẽ thưởng phạt mỗi người theo việc họ đã làm. Một số người luôn làm lành, sống cho vinh hiển của Thượng Đế, cho danh dự và những gì bất diệt. Ngài sẽ ban cho họ sự sống đời đời. Còn những kẻ sống ích kỷ, không vâng theo sự thật mà đi theo điều ác, thì Thượng Đế sẽ giáng trừng phạt và cơn giận của Ngài. Ngài sẽ mang khốn khổ đến cho những kẻ làm ác—trước là người Do-thái, sau là cho những người không phải Do-thái. 10 Nhưng Ngài sẽ ban vinh dự và bình an cho những người làm lành—trước là người Do-thái sau là những người không phải Do-thái. 11 Vì Thượng Đế đối xử mọi người như nhau.

12 Ai không có luật pháp mà phạm tội sẽ phải chết, dù không có luật pháp. Cũng thế, những người có luật pháp mà phạm tội thì sẽ bị luật pháp xét xử. 13 Chỉ nghe luật pháp suông thôi, không thể nào giúp người ta hòa thuận lại với Thượng Đế đâu. Người nào vâng theo luật pháp mới hòa thuận lại với Ngài được. 14 Những người không phải Do-thái, dù không có luật pháp, nhưng nếu do bản chất tự nhiên làm theo những điều luật pháp qui định, thì những điều ấy là luật pháp của họ rồi. 15 Họ cho thấy rằng, tự lòng mình đã biết phân biệt phải quấy theo như luật pháp qui định. Họ chứng tỏ điều ấy qua lương tâm. Lương tâm có khi bảo rằng mình làm đúng, có khi bảo rằng mình làm sai. 16 Việc ấy sẽ xảy đến trong ngày mà Thượng Đế, qua Chúa Cứu Thế Giê-xu, sẽ xét xử những tâm tư thầm kín của con người. Đó là điều dạy dỗ của Tin Mừng mà tôi rao giảng.

Người Do-thái và luật pháp

17 Còn bạn thì sao? Bạn tự cho mình là người Do-thái. Bạn tin luật pháp Mô-se và khoe rằng mình sống gần Thượng Đế. 18 Bạn biết Ngài muốn bạn làm gì và điều gì là hệ trọng vì bạn học biết luật pháp. 19 Bạn tự cho mình là người dẫn đường kẻ mù, ánh sáng cho kẻ đi trong tối tăm. 20 Bạn tự cho mình có thể chỉ bảo điều phải cho kẻ ngu, và dạy những kẻ dốt nát. Vì bạn có luật pháp, nên bạn nghĩ mình biết mọi thứ và có sự thật theo mình. 21 Bạn dạy người khác mà không dạy bản thân mình sao? Bạn dạy kẻ khác đừng ăn cắp mà chính mình lại ăn cắp. 22 Bạn bảo kẻ khác không nên phạm tội ngoại tình mà chính mình lại phạm tội ấy. Bạn ghét thần tượng, mà lại đánh cắp hình tượng trong đền thờ. 23 Bạn khoe khoang là biết luật Thượng Đế, nhưng lại làm nhục danh Ngài bằng cách phạm luật ấy, 24 thật đúng như Thánh Kinh chép, “Vì ngươi mà dân ngoại xúc phạm đến danh CHÚA.” [c]

25 Nếu bạn tuân giữ luật pháp, thì phép cắt dương bì có ý nghĩa. Còn nếu bạn phạm luật, thì cắt dương bì cũng như không. 26 Những người không phải Do-thái vốn không chịu phép cắt dương bì, nhưng nếu họ làm theo điều luật pháp dạy bảo, thì xem như họ đã chịu phép ấy rồi. 27 Còn bạn là người Do-thái có luật pháp viết thành chữ và có phép cắt dương bì, nhưng bạn lại phạm luật. Cho nên những người không chịu phép cắt dương bì về phần thể xác, mà tuân theo luật pháp, sẽ kết án bạn.

28 Họ có thể làm như thế được là vì nếu một người chỉ có cái vỏ Do-thái về phần xác mà thôi thì không phải là người Do-thái thật; phép cắt dương bì [d] thật không phải chỉ có bề ngoài thân thể thôi đâu. 29 Người Do-thái thật là người Do-thái bên trong lòng; phép cắt dương bì thật là do Thánh Linh làm trong lòng, chứ không phải qua luật pháp viết thành chữ. Người như thế được Thượng Đế ca ngợi, chứ không phải con người.

Thế thì người Do-thái có gì hơn những dân tộc khác? Phép cắt dương bì có gì đặc biệt? Dĩ nhiên là có, về nhiều mặt. Điểm quan trọng nhất là: Thượng Đế đã trao lời dạy dỗ của Ngài cho người Do-thái. Nếu có một vài người Do-thái bất trung với Ngài, có phải vì vậy mà Ngài không thực hiện lời Ngài đã hứa sao? Không phải! Thượng Đế vẫn chân thật dù cho mọi người giả dối. Như Thánh Kinh viết:

“Ngài được chứng tỏ là đúng khi Ngài phán,
    và lẽ phải sẽ về phần Ngài.” (A)

Khi chúng ta phạm tội, điều đó chứng tỏ Thượng Đế đúng. Như thế có thể nào bảo rằng Thượng Đế trừng phạt chúng ta là sai chăng? (Tôi nói như một vài người thường nói) Không! Nếu Thượng Đế không trừng phạt chúng ta thì làm thế nào Ngài xét xử thế gian?

Có người sẽ bảo, “Khi tôi nói dối tức là tôi làm vinh hiển Ngài, vì sự dối của tôi chứng tỏ Thượng Đế là thật. Thế thì tại sao tôi bị xét xử như người có tội?” Nói như thế cũng chẳng khác nào lập luận, “Phải làm ác để mang cái thiện đến.” Có người bịa đặt, cho rằng chúng tôi dạy như thế. Họ nói bậy và thật đáng phạt.

Mọi người đều phạm tội

Thế thì người Do-thái có gì khá hơn dân tộc khác không? Không! Chúng ta đã nói rằng người Do-thái và tất cả dân tộc khác đều phạm tội. 10 Như lời Thánh Kinh viết:

“Chẳng có ai làm điều phải,
    kiếm một người cũng không ra.
11 Chẳng có ai hiểu biết.
    Không một người nào nhờ Thượng Đế cứu giúp.
12 Mọi người đều quay lưng đi.
    Ai nấy đều trở thành vô dụng.
Chẳng có một người làm lành,
    dù một người cũng chẳng có.” (B)

13 “Miệng chúng mở toang ra như huyệt mả;
    dùng lưỡi mình để nói dối.” (C)

“Lời nói chúng hiểm độc như nọc rắn.” (D)

14 “Môi miệng chúng đầy nguyền rủa
    và ganh ghét.” (E)

15 “Lúc nào cũng sẵn sàng để giết hại người khác.
16 Nơi nào chúng đi đều gây ra tai hại và đau khổ.
17 Chúng không biết sống hòa bình là gì.” (F)

18 “Chúng chẳng biết sợ Thượng Đế gì cả.” (G)

19 Chúng ta biết rằng những gì luật pháp dạy là dành cho những người có luật pháp. Vì thế không ai có thể bào chữa được, cho nên cả thế gian đều nằm dưới sự trừng phạt của Thượng Đế, 20 vì không ai nhờ tuân theo luật pháp mà được hòa thuận lại với Thượng Đế cả. Luật pháp chỉ cho chúng ta biết tội lỗi thôi.

Thượng Đế khiến con người trở nên công chính

21 Nhưng Thượng Đế đã cho chúng ta phương cách hòa thuận lại với Ngài, mà không qua luật pháp. Phương cách ấy đã được luật pháp và các nhà tiên tri dạy chúng ta. 22 Ngài khiến con người hòa thuận lại với Ngài qua đức tin [e] vào Chúa Cứu Thế Giê-xu. Hễ ai tin Chúa Cứu Thế đều được hòa thuận với Thượng Đế, vì mọi người đều đồng một tình trạng: 23 Mọi người đều phạm tội, không đáng hưởng vinh hiển của Thượng Đế. 24 Mọi người phải hòa thuận lại với Ngài qua ân phúc của Ngài, đó là một quà tặng từ Thượng Đế. Qua Chúa Cứu Thế Giê-xu, loài người được tha tội. 25 Thượng Đế đã hi sinh mạng sống Chúa Giê-xu để con người được xóa tội, nhờ tin vào sự chết của Ngài. Thượng Đế làm như thế để tỏ ra sự công chính của Ngài, như xưa kia Ngài bỏ qua tội lỗi mà con người đã phạm. 26 Ngày nay Thượng Đế đã ban Chúa Giê-xu để chứng tỏ điều Ngài làm là đúng. Như vậy, Ngài có thể xét xử công bình và hòa thuận lại với người nào đặt niềm tin mình nơi Chúa Giê-xu.

27 Thế thì chúng ta có lý do gì để tự khoe hay không?—Không! Tại sao? Vì con đường đức tin khiến cho chẳng còn ai có thể tự khoe như khi họ nhờ con đường vâng giữ luật pháp. 28 Con người được hòa thuận lại với Thượng Đế nhờ đức tin, chứ không phải nhờ vâng giữ luật pháp. 29 Có phải Thượng Đế chỉ là Thượng Đế của người Do-thái mà thôi hay Ngài cũng là Thượng Đế của những người không phải Do-thái nữa? Dĩ nhiên Ngài cũng là Thượng Đế của người không phải Do-thái nữa 30 vì chỉ có một Thượng Đế duy nhất thôi. Nếu Ngài đã làm cho người Do-thái [f] hòa thuận lại với Ngài qua đức tin của họ, thì Ngài cũng sẽ khiến cho mọi người không phải Do-thái [g] hòa thuận lại với Ngài qua đức tin của họ. 31 Thế thì có phải chúng ta đã phá bỏ luật pháp qua con đường đức tin không? Không phải! Trái lại, nhờ đức tin chúng ta làm cho luật pháp thêm vững chắc.

Dùng Áp-ra-ham làm dẫn chứng

Chúng ta có thể nói Áp-ra-ham, tổ tiên của dân tộc ta, đã học được gì về đức tin? Nếu Áp-ra-ham được hòa thuận với Thượng Đế nhờ những điều ông làm thì ông sẽ có lý do chính đáng để khoe. Nhưng Áp-ra-ham không thể tự khoe trước Thượng Đế. Vì Thánh Kinh viết, “Áp-ra-ham đặt niềm tin nơi Thượng Đế, Ngài chấp nhận niềm tin của ông và niềm tin ấy khiến ông hòa thuận lại với Ngài.” [h]

Ai làm việc thì lương bổng không thể xem là quà biếu mà là tiền công của mình. Nhưng con người không thể làm cách nào để hòa thuận lại với Thượng Đế được. Nên con người phải trông cậy vào Thượng Đế là Đấng có thể khiến cho kẻ ác hòa thuận lại với Ngài. Thượng Đế sẽ chấp nhận đức tin của họ, nhờ đó họ được hòa thuận lại với Ngài. Đa-vít cũng đã nói tương tự như thế. Ông bảo rằng ai được hòa thuận với Thượng Đế, nghĩa là được Ngài tha thứ những tội lỗi của mình, thật có phúc.

“Phúc cho người nào được xóa hết tội,
    bao nhiều việc phạm pháp đều được tha thứ.
Phúc cho kẻ mà Chúa không kết tội.” (H)

Có phải phúc lành nầy chỉ dành cho người được cắt dương bì thôi hay là cũng dành cho người không được cắt dương bì nữa? Chúng ta đã nói rằng Thượng Đế chấp nhận niềm tin của Áp-ra-ham và chính niềm tin ấy khiến ông hòa thuận lại với Ngài. 10 Ông được hòa thuận ra sao? Thượng Đế chấp nhận Áp-ra-ham trước khi ông chịu phép cắt dương bì hay là sau?—Trước khi ông chịu phép cắt dương bì. 11 Áp-ra-ham chịu cắt dương bì để chứng tỏ ông đã hòa thuận lại với Thượng Đế vì ông tin Ngài trước khi chịu cắt dương bì. Cho nên Áp-ra-ham trở nên cha của những người tin nhưng không được cắt dương bì; ông là cha của mọi tín hữu đã hòa thuận lại với Thượng Đế. 12 Áp-ra-ham cũng đồng thời là cha của những người đã chịu cắt dương bì và sống theo niềm tin mà Áp-ra-ham, tổ tiên chúng ta đã có trước khi chịu cắt dương bì.

Thượng Đế giữ lời hứa của Ngài

13 Áp-ra-ham và dòng dõi ông đã nhận lời hứa rằng sản nghiệp của họ sẽ gồm toàn thế giới. Ông nhận lời hứa ấy không nhờ luật pháp mà nhờ giảng hòa lại với Thượng Đế qua đức tin. 14 Nếu chúng ta có thể nhận được lời hứa của Thượng Đế bằng cách tuân giữ luật pháp thì đức tin trở nên vô ích. Lời hứa của Thượng Đế cho Áp-ra-ham cũng vô ích, 15 Vì luật pháp chỉ đưa đến cơn thịnh nộ của Thượng đế mà thôi. Nhưng nơi nào không có luật pháp thì cũng không có việc phạm pháp.

16 Cho nên chúng ta nhận được lời hứa của Thượng Đế qua đức tin. Lời hứa ấy trở thành một quà tặng, mà tất cả con cháu Áp-ra-ham đều có thể nhận. Lời hứa ấy không phải dành cho những người sống dưới luật pháp Mô-se mà là cho những người sống trong đức tin như Áp-ra-ham, tổ phụ chúng ta. 17 Như Thánh Kinh viết, “Ta lập ngươi làm cha của nhiều dân tộc.” [i] Điều nầy được thực hiện trước mặt Thượng Đế vì Áp-ra-ham tin cậy Ngài là Đấng ban sự sống cho kẻ chết và đã sáng tạo mọi vật từ chỗ hư vô.

18 Áp-ra-ham không hi vọng có con cái nối dòng, nhưng ông tin cậy Thượng đế và vẫn nuôi hi vọng, nên ông đã trở thành cha của nhiều dân tộc. Đúng như Thượng Đế đã bảo, “Dòng dõi ngươi sẽ đông không thể đếm được.” [j] 19 Lúc ấy Áp-ra-ham đã gần một trăm tuổi, quá tuổi bình thường để có con, còn Sa-ra thì không thể nào sinh con được. Áp-ra-ham lo âu về điều ấy nhưng niềm tin của ông nơi Thượng Đế vẫn không lay chuyển. 20 Ông không bao giờ hoài nghi rằng Thượng Đế sẽ không giữ lời hứa của Ngài, trái lại ông nắm chắc niềm tin. Ông vững tin hơn và ca ngợi Thượng Đế. 21 Áp-ra-ham tin chắc rằng những gì Ngài hứa thì Ngài cũng có quyền thực hiện được. 22 Cho nên “Thượng Đế chấp nhận đức tin của Áp-ra-ham, và đức tin ấy khiến ông hòa thuận lại với Ngài.” [k] 23 Câu “Thượng Đế chấp nhận đức tin của Áp-ra-ham” không phải chỉ viết cho ông mà thôi 24 mà còn cho chúng ta nữa. Thượng Đế sẽ chấp nhận chúng ta vì chúng ta tin nơi Đấng đã khiến Giê-xu, Chúa chúng ta, sống lại từ kẻ chết. 25 Chúa Giê-xu đã chịu chết vì tội chúng ta, Ngài đã sống lại để chúng ta được hòa thuận lại với Thượng Đế.

Hòa thuận lại với Thượng Đế

Vì đã trở nên công chính trước Thượng Đế qua đức tin, nên chúng ta hòa thuận lại với Ngài. Đó là nhờ Chúa Cứu Thế Giê-xu, Đấng đã đưa chúng ta vào ân phúc của Thượng Đế mà chúng ta hiện đang hưởng. Cho nên, chúng ta vui mừng vì hi vọng được dự phần trong vinh hiển của Thượng Đế. Chúng ta cũng vui trong cảnh khổ, vì cảnh khổ dạy chúng ta nhẫn nhục. Nhẫn nhục rèn luyện cá tính, cá tính đưa tới hi vọng. Hi vọng ấy sẽ không làm chúng ta thất vọng vì Thượng Đế đã trút đầy tình yêu của Ngài vào lòng chúng ta qua Thánh Linh mà Ngài đã cho chúng ta.

Trong khi chúng ta không thể tự cứu mình được thì đúng lúc ấy, Chúa Cứu Thế đã chịu chết vì chúng ta, mặc dù chúng ta đang sống như thù nghịch với Ngài. Dù là người tốt đi nữa, cũng ít ai chịu hi sinh tính mạng để cứu người khác. Nhưng Thượng Đế đã tỏ tình yêu lớn lao của Ngài như sau: Trong khi chúng ta đang là tội nhân thì Chúa Cứu Thế chịu chết vì chúng ta.

Cho nên nhờ Chúa Cứu Thế, chúng ta chắc chắn được cứu khỏi cơn giận của Thượng Đế vì chúng ta đã được hòa thuận lại với Ngài, qua huyết hi sinh của Chúa Cứu Thế. 10 Trong khi chúng ta còn là thù nghịch với Thượng Đế, thì chúng ta được hòa thuận lại với Ngài qua sự chết của Con Ngài. Vì đã được hòa thuận lại với Ngài, nên chắc chắn Ngài sẽ cứu chúng ta, qua chính mạng sống của Con Ngài. 11 Không những thế, ngày nay chúng ta vui mừng trong Thượng Đế qua Chúa Cứu Thế Giê-xu. Nhờ Ngài mà bây giờ chúng ta đã hòa thuận lại với Thượng Đế.

So sánh A-đam với Chúa Cứu Thế

12 Do hành động của một người mà tội lỗi nhập vào thế gian, rồi tội lỗi dẫn đến sự chết. Vì thế mọi người phải chết—vì mọi người đều phạm tội. 13 Tội lỗi đã thống trị trên thế gian trước khi có luật pháp Mô-se, nhưng khi chưa có luật thì việc phạm luật không bị xem là tội. 14 Từ đời A-đam cho đến đời Mô-se, mọi người đều phải chết, dù cho người ấy chưa hề phạm tội do việc phạm điều ngăn cấm, như A-đam đã phạm chẳng hạn.

A-đam là hình ảnh của Đấng sẽ đến trong tương lai. 15 Quà tặng của Thượng Đế không giống như tội lỗi của A-đam. Do tội lỗi của một người mà nhiều người phải chết, nhưng ân phúc của Thượng Đế lớn hơn thế; nhiều người nhận được quà tặng từ Thượng Đế nhờ ân phúc của một người, đó là Chúa Cứu Thế Giê-xu. 16 Sau khi A-đam phạm tội một lần, ông liền bị kết tội. Nhưng ân phúc của Thượng Đế thì khác. Ân phúc của Thượng Đế được ban cho sau khi xảy ra nhiều tội để chúng ta được hòa thuận lại với Ngài. 17 Một người phạm tội, khiến tất cả mọi người phải chết do tội của người ấy, nhưng bây giờ thì hễ ai nhận ân phúc của Thượng Đế và được hòa thuận với Ngài, sẽ nhận được sự sống thật và được quyền quản trị nhờ vào một người thôi, đó là Chúa Cứu Thế Giê-xu. 18 Cho nên, nếu một tội mà A-đam phạm đã mang đến cái chết cho mọi người, thì cũng qua một hành vi nhân đức của Chúa Cứu Thế mà mọi người được hòa thuận lại với Thượng Đế, để họ nhận được sự sống thật. 19 Vì sự bất vâng phục Thượng Đế của một người khiến mọi người mắc tội. Cũng thế, nhờ sự vâng phục Thượng Đế của một người mà mọi người được hòa thuận lại với Ngài. 20 Luật pháp khiến tội lỗi gia tăng. Nhưng khi tội lỗi gia tăng, ân phúc Thượng Đế lại nhiều hơn nữa. 21 Trước kia tội lỗi dùng sự chết thống trị trên chúng ta, nhưng Thượng Đế đã ban ân phúc dồi dào để chúng ta được hòa thuận lại với Ngài. Do đó chúng ta được sống đời đời qua Chúa Cứu Thế Giê-xu.

Chết trong tội lỗi mà sống cho Chúa Cứu Thế

Anh chị em có nghĩ rằng chúng ta nên tiếp tục sống trong tội lỗi để ân phúc Thượng Đế thêm nhiều không? Không được! Chúng ta đã chết vì nếp sống cũ của bản tính tội lỗi, thì chẳng lẽ lại cứ mãi sống trong tội lỗi sao? Anh chị em quên rằng khi chúng ta chịu lễ báp-têm là đã trở thành một phần của thân thể Đấng Cứu Thế Giê-xu rồi sao? Chúng ta dự phần trong cái chết Ngài qua lễ báp-têm. Khi chúng ta chịu báp-têm, chúng ta được chôn với Chúa Cứu Thế và dự phần trong cái chết của Ngài. Cho nên như Chúa Cứu Thế đã sống lại từ kẻ chết qua quyền năng kỳ diệu của Cha thế nào, chúng ta cũng sẽ sống một đời mới như thế.

Vì Chúa Cứu Thế chịu chết, chúng ta đồng chết với Ngài, nên chúng ta cũng sẽ đồng sống lại với Ngài từ kẻ chết giống như Ngài. Chúng ta biết rằng đời cũ của chúng ta đã chết với Chúa Cứu Thế trên thập tự giá, để bản tính tội lỗi không còn cầm quyền và chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Vì ai đã chết là thoát khỏi gông cùm tội lỗi.

Nếu chúng ta chết với Chúa Cứu Thế, thì chúng ta biết mình cũng sẽ sống lại với Ngài. Chúa Cứu Thế đã sống lại từ kẻ chết, chúng ta biết rằng Ngài không thể chết nữa. Sự chết hiện nay chẳng còn quyền gì trên Ngài. 10 Thật vậy, khi Chúa Cứu Thế chịu chết thì Ngài đánh bại quyền lực của tội lỗi một lần đủ cả. Bây giờ Ngài đã nhận sự sống mới nên Ngài sống cho Thượng Đế. 11 Cũng thế, anh chị em hãy xem mình như chết về quyền lực của tội lỗi nhưng sống với Thượng Đế qua Chúa Cứu Thế Giê-xu.

12 Cho nên đừng để tội lỗi thống trị đời sống anh chị em trên đất đặng làm theo ý muốn con người xác thịt của mình. 13 Đừng hiến dâng chi thể mình mà phục vụ tội lỗi, làm công cụ cho điều ác. Trái lại hãy hiến dâng chính mình cho Thượng Đế như là người đã chết mà nay được sống lại. Hãy hiến thân thể mình cho Thượng Đế, để phục vụ điều lành. 14 Tội lỗi không còn thống trị anh chị em nữa, vì anh chị em không còn ở dưới luật pháp nhưng ở dưới ân phúc của Thượng Đế.

Hãy làm tôi mọi cho sự công chính

15 Thế thì chúng ta phải làm sao? Chẳng lẽ vì bây giờ chúng ta không còn ở dưới luật pháp mà ở dưới ân phúc thì chúng ta cứ phạm tội sao? Không được! 16 Chắc hẳn anh chị em biết rằng khi mình chịu làm tôi mọi cho người nào thì phải vâng phục người ấy. Người mà mình vâng phục là chủ mình. Anh chị em có thể đi theo tội lỗi để dẫn đến cái chết về mặt thiêng liêng hoặc vâng theo Thượng Đế là Đấng có thể khiến anh chị em hòa thuận với Ngài. 17 Trước kia anh chị em làm nô lệ cho tội lỗi—tội lỗi thống trị anh chị em. Nhưng tạ ơn Thượng Đế, anh chị em đã hoàn toàn vâng theo những điều được dạy bảo. 18 Đã được giải thoát khỏi tội lỗi, bây giờ anh chị em làm nô lệ cho điều thiện. 19 Tôi phải dùng ví dụ nầy vì hơi khó cho anh chị em hiểu. Nếu trước kia anh chị em hiến dâng thân thể mình làm nô lệ cho tội lỗi và điều ác; chỉ sống cho điều ác thôi. Cũng thế, nay anh chị em hãy hiến thân thể mình để làm tôi cho điều thiện. Nghĩa là anh chị em chỉ sẽ sống cho Thượng Đế mà thôi.

20 Trước kia anh chị em làm nô lệ cho tội lỗi nên điều thiện không quản trị anh chị em. 21 Trước kia anh chị em làm điều ác, đến nỗi ngày nay anh chị em vẫn còn xấu hổ về việc ấy. Những điều ác đó chỉ dẫn đến sự chết. 22 Nhưng nay anh chị em đã thoát khỏi tội lỗi, và trở thành nô lệ cho Thượng Đế để sống cho Ngài và nhận sự sống đời đời. 23 Ai phạm tội thì phải lãnh tiền công của tội lỗi—đó là sự chết. Nhưng quà tặng của Thượng Đế là sự sống đời đời trong Đấng Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta.

Dẫn chứng về hôn nhân

Thưa anh chị em, anh chị em đều hiểu luật Mô-se và biết rằng luật pháp áp dụng cho người nào là chỉ khi người ấy còn sống mà thôi. Chẳng hạn, chồng còn sống bao lâu thì luật buộc người đàn bà phải gắn bó với chồng bấy lâu. Nếu chồng chết thì người vợ được giải thoát khỏi luật hôn nhân. Trong khi chồng còn sống mà vợ đi lấy người khác thì bị luật pháp kết tội ngoại tình. Nhưng khi chồng chết rồi, thì dù cho lấy người khác cũng không bị kết tội ngoại tình.

Cũng thế, thưa anh chị em, khi con người cũ của mình chết rồi, thì anh chị em được giải thoát khỏi luật pháp, nhờ sự chết của Chúa Cứu Thế. Nghĩa là, ngày nay các anh chị em thuộc về một Đấng khác—Đấng đã sống lại từ kẻ chết—để anh chị em sống ích lợi cho Thượng Đế. Trước kia anh chị em bị con người tội lỗi của mình thống trị. Luật pháp khiến chúng ta hành động theo tội lỗi thống trị bên trong chúng ta, cho nên mọi hành động chúng ta chỉ dẫn đến sự chết. Trước kia, luật pháp kềm giữ chúng ta như tù nhân, nhưng nay con người cũ đã chết, nghĩa là chúng ta được giải thoát khỏi luật pháp. Cho nên chúng ta phục vụ Thượng Đế theo cách mới trong Thánh Linh, chứ không theo cách cũ qua những luật viết thành chữ nữa.

Cuộc tranh chiến với tội lỗi

Có lẽ anh chị em nghĩ rằng tôi cho luật pháp là tội lỗi. Không phải! Nhưng luật pháp cho tôi biết thế nào là tội lỗi. Nếu luật pháp không nói, “Ngươi không được thèm muốn đồ vật của kẻ khác” [l] thì tôi sẽ không biết tội trộm cắp là gì. Tội lỗi đã tìm cách dùng điều răn ấy khiến tôi tham muốn đủ thứ điều trái phép. Nhưng khi không có luật pháp, tội lỗi không có quyền gì. Trước khi tôi biết luật pháp thì tôi vẫn sống, nhưng khi luật pháp đến thì tội lỗi sống trong tôi, 10 còn tôi thì chết. Điều răn đáng lẽ giúp tôi sống, hóa ra làm cho tôi chết. 11 Tội lỗi đã tìm cách phỉnh gạt tôi bằng cách dùng luật pháp làm cho tôi chết.

12 Cho nên luật pháp là thánh thiện, điều răn cũng thánh thiện, tốt và công chính. 13 Như thế nghĩa là điều tốt lại mang cái chết đến cho tôi sao? Không phải! Tội lỗi dùng cái tốt để mang cái chết đến cho tôi. Như thế để tôi biết tội lỗi là gì, và điều răn cho thấy tội lỗi quả thật là xấu.

Cuộc chiến nội tâm

14 Chúng ta biết luật pháp là thiêng liêng, nhưng tôi không thiêng liêng vì tôi làm nô lệ cho tội lỗi. 15 Tôi không hiểu điều mình làm. Tôi không làm điều mình thích mà lại làm điều mình ghét. 16 Nếu tôi làm điều tôi ghét, thì tôi nhìn nhận luật pháp là đúng. 17 Nhưng thực ra không phải tôi làm những điều tôi ghét mà là do tội lỗi bên trong xui khiến tôi. 18 Thật thế, tôi biết trong con người tôi chẳng có tính thiện nào—nghĩa là trong xác thể trần tục và tội lỗi của tôi không có cái gì gọi là thiện cả. Tôi muốn làm điều phải mà tôi lại không làm. 19 Điều thiện mình muốn làm, thì không làm, nhưng lại làm điều ác mà mình không muốn. 20 Cho nên khi tôi làm điều mình ghét, thì chẳng phải tôi làm nữa mà là tội lỗi bên trong xui khiến tôi.

21 Nên tôi đã học được luật nầy: Khi muốn làm điều thiện, thì điều ác đeo đuổi tôi. 22 Lòng tôi rất ưa thích luật pháp Thượng Đế, 23 nhưng tôi lại thấy một luật khác tác động bên trong con người tôi, chiến đấu với luật mà lòng tôi đã chấp nhận. Đó là luật tội lỗi sống trong tôi, cố bắt tôi làm tôi mọi cho nó. 24 Thật khốn cho tôi! Ai sẽ giải thoát tôi khỏi thân thể chết nầy? 25 Cảm tạ Thượng Đế đã cứu tôi qua Giê-xu, Đấng Cứu Thế, Chúa chúng ta!

Vì vậy, lòng tôi thì làm nô lệ cho luật pháp của Thượng Đế, còn xác thể tôi thì làm nô lệ cho luật pháp của tội lỗi.

Hãy để Thánh Linh ngự trị

Hiện nay những ai ở trong Đấng Cứu Thế Giê-xu không còn bị kết tội nữa. Qua Chúa Cứu Thế Giê-xu, luật pháp của Thánh Linh ban cho tôi [m] sự sống mới và giải thoát tôi khỏi luật pháp là điều vốn đưa đến tội lỗi và sự chết. Thực ra luật pháp không có quyền gì, vì đã trở thành yếu đuối qua con người tội lỗi của chúng ta. Nhưng Thượng Đế đã làm điều mà luật pháp không làm được. Ngài sai Con Ngài đến thế gian, mang thân thể mà con người dùng để phục vụ tội lỗi. Khi Con Ngài chết để chuộc tội chúng ta, Thượng Đế dùng một sinh mạng để tiêu diệt tội lỗi. Thượng Đế làm như thế để hoàn thành điều mà luật pháp đòi hỏi. Cho nên hiện nay chúng ta không còn sống theo con người tội lỗi của mình nữa, mà sống theo Thánh Linh.

Ai sống theo bản tính tội lỗi thì lúc nào cũng nghĩ theo ý muốn của tội lỗi. Nhưng ai sống theo Thánh Linh, thì nghĩ đến những điều Thánh Linh ưa thích. Nếu con người tội lỗi quản trị trong tâm tư sẽ dẫn đến sự chết. Nhưng nếu Thánh Linh ngự trị tâm tư sẽ đưa đến sự sống và hòa bình. Khi tâm tư ai bị con người tội lỗi quản trị thì người ấy nghịch lại Thượng Đế vì không tuân giữ luật pháp của Ngài, mà thực ra họ cũng chẳng có khả năng tuân giữ. Những ai bị con người tội lỗi thống trị không thể nào làm vừa lòng Thượng Đế.

Nhưng anh chị em không còn bị con người tội lỗi thống trị nữa. Anh chị em được Thánh Linh ngự trị, nếu Thánh Linh của Thượng Đế thật sự sống trong anh chị em. Ai không có Thánh linh của Chúa Cứu Thế, thì không thuộc về Chúa Cứu Thế. 10 Thân thể của anh chị em lúc nào cũng xem như chết vì tội lỗi. Nhưng nếu Chúa Cứu Thế sống trong anh chị em, thì Thánh Linh sẽ cho anh chị em sự sống, vì Chúa Cứu Thế đã giúp anh chị em hoà thuận lại với Thượng Đế. 11 Thượng Đế đã khiến Chúa Giê-xu sống lại từ kẻ chết và nếu Thánh Linh của Thượng Đế sống trong anh chị em, thì Ngài cũng ban sự sống cho thân thể vốn chết của anh chị em. Thượng Đế là Đấng khiến Chúa Cứu Thế sống lại từ kẻ chết, cũng sẽ ban sự sống qua Thánh Linh là Đấng sống trong anh chị em.

12 Cho nên, anh chị em ơi, đừng để con người tội lỗi thống trị mình để sống theo ý muốn con người cũ của mình nữa. 13 Nếu anh chị em sống theo ý muốn xấu xa của con người tội lỗi, tâm linh anh chị em sẽ chết. Nhưng nếu anh chị em nhờ Thánh Linh để không còn làm quấy qua xác thịt mình, thì anh chị em sẽ sống thật.

14 Con cái thật của Thượng Đế là những người sống dưới sự hướng dẫn của Thánh Linh Ngài. 15 Thánh Linh mà anh chị em nhận lãnh không để chúng ta làm nô lệ cho sự sợ hãi nữa; Ngài biến chúng ta trở nên con cái Thượng Đế. Nhờ Thánh Linh đó mà chúng ta có thể gọi, “Thưa Cha!” [n] 16 Chính Thánh Linh cùng với tâm linh của chúng ta chứng nhận rằng chúng ta là con cái Thượng Đế. 17 Nếu chúng ta là con cái Thượng Đế thì chúng ta sẽ nhận lãnh phúc lành từ Thượng Đế cùng với Chúa Cứu Thế miễn là chúng ta đồng chịu khổ với Ngài để chúng ta cùng nhận vinh hiển với Ngài.

Vinh hiển tương lai của chúng ta

18 Những sự đau khổ mà chúng ta hiện đang nếm trải không đáng gì so với vinh hiển sẽ được phô bày ra cho chúng ta. 19 Mọi vật Thượng Đế mà tạo dựng rất nóng lòng trông mong lúc mà Thượng Đế bày tỏ con cái Ngài cho thế gian. 20 Mọi vật Thượng Đế tạo dựng đã thay đổi và trở thành vô dụng, không phải do ý muốn của những vật ấy, mà là do ý muốn Thượng Đế, vì luôn luôn có hi vọng nầy: 21 Những vật Thượng Đế tạo dựng sẽ không còn bị tổn hại nữa mà nhận được sự tự do và vinh hiển dành cho con cái Thượng Đế.

22 Cho đến bây giờ chúng ta biết mọi vật Thượng Đế tạo dựng đang mong đợi trong quặn thắt như người đàn bà sắp sinh nở. 23 Không phải chỉ thế giới hữu hình thôi đâu, mà bên trong chúng ta cũng chờ đợi trong quặn thắt. Chúng ta nhận được Thánh Linh là phần đặt cọc của lời hứa từ Thượng Đế. Cho nên chúng ta chờ đợi Thượng Đế làm xong việc biến hóa chúng ta thành con cái Ngài, nghĩa là sẽ giải thoát con người chúng ta. 24 Vì đã được cứu rồi, nên chúng ta nuôi hi vọng ấy. Nếu chúng ta đã thấy điều mình đang trông mong thì không thể gọi là hi vọng nữa. Thấy rồi thì đâu còn gì để mà trông mong? 25 Nhưng nếu chúng ta trông mong điều mình chưa nhận được thì chúng ta kiên nhẫn chờ đợi điều ấy.

26 Ngoài ra, Thánh Linh cũng giúp cho bản chất yếu đuối của chúng ta. Vì chúng ta không biết nên cầu xin như thế nào. Nhưng chính Thánh Linh cầu xin Thượng Đế giùm cho chúng ta, đến nỗi van xin Ngài bằng những tâm tư sâu kín mà ngôn ngữ không diễn tả được. 27 Thượng Đế nhìn thấy lòng dạ mỗi người. Ngài cũng biết ý nghĩ của Thánh Linh vì Thánh Linh cầu thay cho con dân Thượng Đế theo ý muốn Ngài.

28 Chúng ta biết mọi việc hợp lại đều mang lợi ích đến cho những ai yêu mến Thượng Đế, là những người Ngài đã gọi, theo mục đích của Ngài. 29 Thượng Đế biết họ trước khi tạo dựng vũ trụ và Ngài đã dự định rằng họ sẽ giống như Con Ngài để Chúa Giê-xu trở thành con đầu lòng của tất cả các anh chị em. 30 Ngài muốn họ trở nên giống như Con Ngài. Những người Ngài muốn trở nên giống như Con Ngài thì Ngài đã gọi. Những người Ngài đã gọi, Ngài cũng đã làm cho hòa thuận lại với mình; và những người Ngài đã làm cho hòa thuận thì được Ngài tôn vinh.

Tình yêu Thượng Đế qua Chúa Giê-xu

31 Cho nên chúng ta sẽ nói sao về điều nầy? Nếu Thượng Đế ở cùng chúng ta thì không ai có thể thắng chúng ta được. 32 Ngài đã không tiếc Con Ngài nhưng đã hi sinh Con ấy vì chúng ta. Cho nên Ngài cũng sẽ cho chúng ta mọi điều cùng với Con Ngài. 33 Ai có thể kiện cáo người mà Thượng Đế đã chọn? Không một ai, vì Thượng Đế là Đấng khiến họ trở nên công chính. 34 Ai có thể kết tội con dân của Thượng Đế? Không một ai, vì Chúa Cứu Thế Giê-xu đã chết, nhưng cũng đã sống lại từ kẻ chết và hiện nay đang ngồi bên phải Thượng Đế để cầu thay cho chúng ta. 35 Có gì phân cách tình yêu của Chúa Cứu Thế dành cho chúng ta không? Có phải khốn khó, hoạn nạn, đau khổ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm hay chết chóc không? 36 Như Thánh Kinh viết:

“Vì Ngài mà chúng tôi
    lúc nào cũng kề cái chết.
Người ta xem chúng tôi không khác gì
    mấy con chiên sẵn sàng bị làm thịt.” (I)

37 Nhưng trong mọi hoàn cảnh ấy chúng ta toàn thắng nhờ Thượng Đế là Đấng đã bày tỏ tình yêu của Ngài cho chúng ta. 38 Tôi tin chắc rằng dù sự chết, sự sống, thiên sứ, thần linh, việc hiện tại, việc tương lai, quyền lực, 39 những gì bên trên chúng ta, bên dưới chúng ta, hoặc bất cứ biến cố nào trên thế giới, không điều gì có thể phân cách chúng ta khỏi tình yêu mà Thượng Đế đã bày tỏ ra trong Giê-xu, Đấng Cứu Thế, Chúa chúng ta.

Footnotes

  1. Rô-ma 1:3 Thánh Linh Nguyên văn, “thần linh của sự thánh thiện.”
  2. Rô-ma 1:17 Những ai … bằng đức tin Ha 2:4.
  3. Rô-ma 2:24 Vì ngươi … danh CHÚA Ê-sai 52:5. Xem thêm Ê-xê 36:20-23.
  4. Rô-ma 2:28 cắt dương bì Xem Bảng Giải Thích Từ Ngữ. Ở đây Phao-lô dùng nghĩa bóng để chỉ những tín hữu cùng chia xẻ giao ước mới mà Thượng Đế ban cho dân Ngài qua Chúa Giê-xu.
  5. Rô-ma 3:22 đức tin Hay “sự trung tín.”
  6. Rô-ma 3:30 người Do-thái Nguyên văn, “người chịu cắt dương bì.”
  7. Rô-ma 3:30 người không phải Do-thái Nguyên văn, “người không chịu cắt dương bì.”
  8. Rô-ma 4:3 Áp-ra-ham … với Ngài Sáng 15:6.
  9. Rô-ma 4:17 Ta lập … dân tộc Sáng 17:5.
  10. Rô-ma 4:18 Dòng dõi … đếm được Sáng 15:5.
  11. Rô-ma 4:22 Thượng Đế … với Ngài Sáng 15:6.
  12. Rô-ma 7:7 Ngươi không … kẻ khác Xuất 20:17; Phục 5:21.
  13. Rô-ma 8:2 cho tôi Một vài bản Hi-lạp ghi “cho anh chị em.”
  14. Rô-ma 8:15 Thưa Cha Nguyên văn, “ A-ba.” Tiếng trẻ con Do-thái gọi cha trong ngôn ngữ A-ram.

Lời Mở Ðầu

Phao-lô, một đầy tớ[a] của Ðức Chúa Jesus Christ, được kêu gọi làm sứ đồ, được biệt riêng để rao truyền Tin Mừng của Ðức Chúa Trời, là Tin Mừng đã được hứa từ trước qua các vị tiên tri của Ngài trong Kinh Thánh, liên quan đến Con Ngài, mà về phương diện phàm nhân thì được sinh ra từ dòng dõi Vua Ða-vít, còn về phương diện Linh của sự thánh khiết[b] thì được xác chứng là Con Ðức Chúa Trời đầy quyền năng qua sự sống lại từ cõi chết, đó là Ðức Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta, qua Ngài chúng tôi nhận được ân sủng và chức vụ sứ đồ để vì danh Ngài dẫn dắt mọi dân tin thờ Chúa và vâng phục Ngài, trong đó có anh chị em, những người được gọi để thuộc về Ðức Chúa Jesus Christ, kính gởi tất cả những người được Ðức Chúa Trời yêu thương, được gọi làm thánh đồ ở Rô-ma. Nguyện ân sủng và bình an từ Ðức Chúa Trời, Cha chúng ta, và từ Ðức Chúa Jesus Christ, là Chúa, đến cùng anh chị em.

Lời Cầu Nguyện Cảm Tạ

Trước hết, nhờ Ðức Chúa Jesus Christ, tôi cảm tạ Ðức Chúa Trời của tôi về tất cả anh chị em, vì đức tin của anh chị em đã được truyền tụng khắp thế giới. Vì Ðức Chúa Trời, Ðấng tôi phục vụ với tất cả tâm hồn trong việc rao truyền Tin Mừng về Con Ngài, có thể làm chứng cho tôi rằng tôi hằng nhắc đến anh chị em trong khi cầu nguyện. 10 Tôi luôn cầu xin rằng, nếu đẹp ý Ðức Chúa Trời, xin Ngài mở đường cho tôi đến thăm anh chị em. 11 Vì tôi rất mong được gặp anh chị em để có thể chia sẻ với anh chị em một số ơn phước thuộc linh, hầu làm vững mạnh đức tin anh chị em, 12 tức là khi tôi được ở giữa anh chị em, chúng ta có thể khích lệ đức tin lẫn nhau, tức đức tin của anh chị em và đức tin của tôi.

13 Thưa anh chị em,[c] tôi muốn anh chị em biết rằng, tôi đã định đến thăm anh chị em nhiều lần, để có thể gặt hái những kết quả giữa anh chị em như tôi đã gặt hái giữa các dân ngoại khác, nhưng lần nào tôi cũng gặp trở ngại.

14 Tôi mắc nợ cả người Hy-lạp[d] lẫn người man rợ, cả người thông thái lẫn người khờ dại. 15 Vì thế tôi nóng lòng muốn giảng Tin Mừng cho anh chị em, những người ở Rô-ma.

Quyền Năng Ðức Chúa Trời Tỏ Ra Qua Tin Mừng

16 Thật vậy, tôi không hổ thẹn về Tin Mừng đâu, vì đó là quyền năng Ðức Chúa Trời để cứu mọi người có lòng tin, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp.[e] 17 Vì trong Tin Mừng ấy sự công chính của Ðức Chúa Trời được biểu lộ, từ đức tin đến đức tin,[f] như có chép rằng,

“Người công chính sẽ sống bởi đức tin.”[g]

CẢ NHÂN LOẠI PHẢI CHỊU ÐỨC CHÚA TRỜI PHÁN XÉT

(1:18 - 3:20)

Tội Lỗi của Nhân Loại

18 Cơn thịnh nộ của Ðức Chúa Trời từ trời đã biểu lộ để trừng phạt mọi hình thức vô luân và gian ác của những kẻ dùng những biện pháp gian ác đàn áp sự thật. 19 Vì những gì con người có thể biết về Ðức Chúa Trời đã được bày tỏ cho họ rồi, bởi Ðức Chúa Trời đã bày tỏ cho họ. 20 Thật vậy từ khi dựng nên trời đất, qua những gì đã được dựng nên, con người đã thấy rõ và nhận biết những gì không thấy được về Ngài, như quyền năng đời đời và thần tính của Ngài, vì thế họ không còn lý do để bào chữa. 21 Vì dù họ đã biết Ðức Chúa Trời, họ vẫn không chịu tôn vinh Ngài là Ðức Chúa Trời và biết ơn Ngài; ngược lại, đầu óc họ cứ suy luận viển vông, tâm trí điên rồ của họ đã trở nên u tối. 22 Họ cho mình là khôn ngoan nhưng đã trở nên điên dại. 23 Họ đã đánh đổi vinh hiển của Ðức Chúa Trời không hề hư nát cho những hình tượng của con người hay hư nát, hoặc của chim chóc, súc vật,[h] và rắn rết.[i]

24 Vì thế Ðức Chúa Trời đã phó mặc họ cho những dục vọng của lòng họ, để họ sa vào những ô uế, làm nhục thân thể của nhau. 25 Họ đã đánh đổi chân lý của Ðức Chúa Trời để lấy sự giả dối; họ thờ phượng và phục vụ loài thọ tạo thay vì Ðấng Tạo Hóa, Ðấng đáng được ca ngợi đời đời. A-men.

26 Chính vì thế Ðức Chúa Trời đã phó mặc họ cho những dục vọng đồi bại của họ. Ngay cả phụ nữ của họ cũng đã đổi cách chung đụng xác thịt tự nhiên để theo cách phản tự nhiên. 27 Tương tự, đàn ông cũng đã bỏ cách chung đụng xác thịt tự nhiên với đàn bà mà un đốt sự thèm khát nhục dục với nhau; đàn ông làm những chuyện đồi bại với đàn ông, do đó họ phải chuốc lấy hình phạt tương xứng với hành động sai lầm của họ.

28 Vì họ không coi sự nhận biết Ðức Chúa Trời là trọng, nên Ðức Chúa Trời đã phó mặc họ cho một tâm trí bại hoại, để làm những điều không nên làm. 29 Lòng họ đầy mọi thứ bất chính, gian ác, tham lam, và hiểm độc. Họ đầy sự ganh tị, sát nhân, gây gổ, lừa đảo, và xảo quyệt. Họ nói hành, 30 vu khống, ghét Ðức Chúa Trời, xấc xược, kiêu căng, khoác lác, giỏi tạo ra điều ác, không vâng lời cha mẹ, 31 không chút lương tri, không giữ lời hứa, không chút tình cảm, không chút xót thương.

32 Dù họ đã biết rõ luật của Ðức Chúa Trời rằng hễ ai làm những việc như thế thì đáng chết, thế mà không những chính họ đã làm những điều ấy, mà còn tán thành những người khác làm những điều ấy nữa.

Sự Phán Xét của Ðức Chúa Trời

Vậy hỡi người kia, dù bạn là ai, khi bạn xét đoán người khác, bạn sẽ không thể bào chữa cho mình; vì khi xét đoán người khác mà bạn cũng làm những việc như người đó làm tức là bạn đã tự kết án mình. Chúng ta biết rằng sự phán xét của Ðức Chúa Trời đối với những ai làm những việc tội lỗi như thế là hợp với chân lý.

Hỡi người kia, khi bạn lên án người khác mà chính bạn cũng làm những việc ấy và hành động như thế, bạn tưởng bạn có thể thoát khỏi sự phán xét của Ðức Chúa Trời sao? Hay bạn coi thường sự phong phú của đức nhân từ, sức chịu đựng, và lòng khoan dung của Ðức Chúa Trời? Bạn không biết rằng lòng nhân từ của Ðức Chúa Trời là cốt để bạn có cơ hội ăn năn sao? Nhưng ấy là vì lòng cứng cỏi và không chịu ăn năn của bạn mà bạn đã tự chất chứa cho mình cơn thịnh nộ trong ngày thịnh nộ và biểu lộ sự phán xét công bình của Ðức Chúa Trời, Ðấng sẽ báo trả mỗi người tùy theo việc họ làm. Ai bền chí làm lành để tìm vinh hiển, tôn trọng, và sự bất tử, sẽ được Ngài ban cho sự sống đời đời. Còn kẻ ích kỷ, không vâng theo chân lý, nhưng cứ đi theo sự gian ác sẽ chuốc lấy cơn giận và cơn thịnh nộ của Ngài. Hoạn nạn và khốn khổ sẽ giáng trên mọi kẻ làm ác, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp, 10 nhưng vinh hiển, tôn trọng, và bình an sẽ ban cho mọi người làm lành, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp. 11 Vì Ðức Chúa Trời không thiên vị ai cả.

Mọi Người Sẽ Bị Chúa Phán Xét

12 Ai không biết Luật Pháp mà phạm tội thì sẽ bị chết mất, không cần chiếu theo Luật Pháp; còn ai có Luật Pháp mà phạm tội thì sẽ bị xét xử theo Luật Pháp. 13 Vì đối với Ðức Chúa Trời, không phải người nghe biết Luật Pháp là công chính, nhưng người làm theo Luật Pháp mới được xưng là công chính.

14 Vì khi các dân ngoại, những người không có Luật Pháp, theo bản năng tự nhiên đã làm những điều Luật Pháp dạy bảo thì chính những người đó, dù không có Luật Pháp, là luật pháp cho họ rồi. 15 Họ đã chứng tỏ rằng những gì Luật Pháp đòi hỏi đã được khắc ghi trong lòng họ, và lương tâm họ cũng làm chứng cho điều đó, vì những tư tưởng của họ cứ xung đột với nhau, khi thì cáo trách, khi thì binh vực. 16 Ðiều ấy sẽ thể hiện rõ trong ngày Ðức Chúa Trời, qua Ðức Chúa Jesus Christ, phán xét mọi tư tưởng thầm kín của mọi người, theo Tin Mừng tôi rao giảng.

Người Do-thái Sẽ Bị Phán Xét Dù Ðã Có Luật Pháp của Môi-se

17 Còn bạn, nếu bạn mang danh là người Do-thái, ỷ lại vào Luật Pháp, tự hào về mối liên hệ với Ðức Chúa Trời, 18 cho rằng mình hiểu biết ý muốn Ngài, biết phân biệt đúng sai nhờ đã được dạy dỗ từ Luật Pháp, 19 và cho mình là người dẫn đường cho người mù, ánh sáng cho người đi trong tối tăm, 20 giáo sư của người khờ dại, thầy cô của người ấu trĩ, và có Luật Pháp là hiện thân của tri thức và chân lý, 21 vậy tại sao bạn dạy người khác mà không dạy mình? Bạn giảng chớ trộm cắp, mà bạn có trộm cắp không? 22 Bạn cấm người ta ngoại tình, mà bạn có ngoại tình không? Bạn gớm ghiếc sự thờ lạy thần tượng, mà bạn có cướp đồ trong các đền miếu không? 23 Bạn tự hào về Luật Pháp, mà bạn có làm nhục Ðức Chúa Trời vì đã vi phạm Luật Pháp không? 24 Như có chép,

“Vì cớ các ngươi, danh Ðức Chúa Trời đã bị nói phạm giữa các dân ngoại.”Ê-sai 52:5 LXX

Người Do-thái Sẽ Bị Phán Xét Dù Ðã Ðược Cắt Bì

25 Thật vậy phép cắt bì rất có giá trị nếu bạn giữ trọn Luật Pháp; nhưng nếu bạn là người vi phạm Luật Pháp thì dù đã được cắt bì, bạn cũng trở nên như người không được cắt bì thôi. 26 Như vậy nếu một người không được cắt bì nhưng vâng giữ những đòi hỏi của Luật Pháp thì tuy không được cắt bì nhưng người ấy chẳng thể được xem như đã được cắt bì rồi sao?

27 Vậy những người không được cắt bì trên thân xác nhưng luôn vâng giữ Luật Pháp sẽ xét đoán bạn là người có văn bản của Luật Pháp và được cắt bì, vì bạn đã vi phạm Luật Pháp. 28 Vì một người chỉ có bề ngoài là người Do-thái thì không phải là người Do-thái thật; cũng thế, sự cắt bì chỉ ở bên ngoài và trên thân xác, sự cắt bì đó không phải là sự cắt bì thật. 29 Nhưng một người bên trong là người Do-thái mới thật sự là người Do-thái. Sự cắt bì thật là sự cắt bì trong lòng, bằng Ðức Thánh Linh,[j] chứ không bằng văn tự. Một người như thế sẽ được khen ngợi không phải từ loài người, nhưng từ Ðức Chúa Trời.

Người Do-thái Sẽ Bị Phán Xét Dù Ðã Có Lời Chúa

Vậy thì làm người Do-thái có ích gì chăng? Hoặc được cắt bì có lợi gì chăng?

Có ích lợi nhiều lắm. Có giá trị đủ mọi mặt. Trước hết người Do-thái được Ðức Chúa Trời ủy thác Lời Ngài[k] cho họ.

Nếu có một số người bất trung thì sao? Liệu sự vô tín của họ sẽ vô hiệu hóa sự thành tín của Ðức Chúa Trời chăng?

Chẳng hề như vậy! Dù mọi người đều dối trá, Ðức Chúa Trời vẫn luôn luôn chân thật, như có chép rằng,

“Hầu Chúa luôn luôn đúng mỗi khi Ngài tuyên phán,
Và luôn luôn đắc thắng mỗi khi Ngài phán xét.”Thi 51:4 LXX

Nhưng nếu sự bất chính của chúng ta làm cho sự công chính của Ðức Chúa Trời được thể hiện rõ ràng hơn, thì chúng ta sẽ nói làm sao? Có phải Ðức Chúa Trời bất công khi Ngài giáng cơn thịnh nộ trên chúng ta chăng? (Tôi nói theo cách của người đời thường nói.)

Chẳng hề như vậy! Vì nếu thế làm sao Ðức Chúa Trời có thể xét đoán thế gian được?

Còn nếu nhờ vào sự dối trá của tôi mà đức chân thật của Ðức Chúa Trời được nổi bật lên, quy vinh hiển về cho Ngài, thì tại sao tôi còn bị kết án như một kẻ tội lỗi?

Nếu như thế là đúng thì tại sao “Chúng ta không cứ làm điều ác đi để được điều thiện” như mấy kẻ đã vu khống chúng tôi, bảo rằng chúng tôi đã nói như vậy? Họ bị định tội là đáng lắm!

Mọi Người Ðều Phạm Tội

Vậy thì sao? Chúng ta có khá hơn gì chăng?

Không, chẳng khá hơn gì cả. Vì như chúng tôi đã chứng tỏ rằng, người Do-thái lẫn người Hy-lạp, tất cả đều ở dưới quyền lực của tội lỗi, 10 như có chép rằng,

“Chẳng có ai công chính,
Dù một người cũng không.
11 Chẳng có người nào hiểu biết.
Chẳng ai tìm kiếm Ðức Chúa Trời.
12 Tất cả đều lìa bỏ Ngài.
Họ cùng nhau trở thành vô dụng.
Chẳng có ai làm điều lành,
Dù một người cũng không.[l]
13 Cổ họng chúng khác nào huyệt mả mở ra;Thi 5:9 LXX
Lưỡi chúng nói toàn những lời giả dối;
Dưới môi chúng là nọc rắn độc.Thi 140:3 LXX
14 Miệng chúng chứa đầy những lời nguyền rủa và cay đắng.Thi 10:7 LXX
15 Chân chúng lẹ làng đi gây đổ máu.
16 Nẻo đường chúng đi qua để lại điêu tàn và đau khổ.
17 Chúng chẳng biết con đường hòa bình là gì.[m]
18 Chẳng có sự kính sợ Ðức Chúa Trời ở trước mắt chúng.”Thi 36:1

19 Chúng ta biết rằng tất cả những gì Luật Pháp nói là nói cho những người ở dưới Luật Pháp để mọi miệng phải im lặng, và cả thế gian phải chịu sự phán xét của Ðức Chúa Trời, 20 vì không người nào nhờ vâng giữ Luật Pháp mà được kể là công chính trước mặt Ngài, bởi Luật Pháp giúp người ta biết thế nào là tội lỗi.

LOÀI NGƯỜI ÐƯỢC XƯNG CÔNG CHÍNH NHỜ ÐỨC TIN

(3:21 - 5:21)

Cách Ðức Chúa Trời Giúp Chúng Ta Trở Nên Công Chính

21 Tuy nhiên hiện nay sự công chính của Ðức Chúa Trời đã được thể hiện độc lập với Luật Pháp, nhưng được Luật Pháp và Các Tiên Tri làm chứng cho. 22 Tất cả những ai có lòng tin đều được kể là công chính trước mặt Ðức Chúa Trời, vì đã tin vào Ðức Chúa Jesus Christ, không phân biệt người nào, 23 vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất vinh hiển của Ðức Chúa Trời. 24 Nhờ ân sủng Ngài, chúng ta không phải trả một giá nào, mà được xưng công chính, nhờ sự cứu chuộc đã thực hiện trong Ðức Chúa Jesus Christ.

25 Ðức Chúa Trời đã lập Ðấng Christ làm con vật hiến tế chuộc tội, hầu khi chúng ta tin vào huyết của Ðấng Christ, Ngài có thể nguôi cơn giận của Ngài. Ðức Chúa Trời đã bày tỏ đức công chính của Ngài, khi Ngài bỏ qua những tội lỗi loài người vi phạm trước kia, nhờ ơn chịu đựng vô lượng của Ngài; 26 hiện nay Ngài cũng bày tỏ đức công chính của Ngài khi Ngài, Ðấng công chính, xưng công chính cho những người tin nhận Ðức Chúa Jesus.

Tầm Quan Trọng của Ðức Tin

27 Vậy chúng ta tự hào ở điểm nào? Chúng ta chẳng có gì để tự hào cả.

Chúng ta tự hào vì cậy vào Luật Pháp chăng? Hoặc cậy vào việc làm chăng? Hoàn toàn không. Nhưng chúng ta chỉ cậy vào luật của đức tin, 28 vì chúng ta tin rằng một người có thể được xưng công chính nhờ đức tin mà không cần phải làm những việc Luật Pháp đòi hỏi.

29 Ðức Chúa Trời nào phải là của người Do-thái thôi sao? Ngài không phải là Ðức Chúa Trời của các dân ngoại nữa sao?

Vâng, Ngài cũng là Ðức Chúa Trời của các dân ngoại nữa. 30 Vậy chỉ có một Ðức Chúa Trời, Ðấng sẽ cho những người được cắt bì được xưng công chính bởi đức tin, và cũng sẽ cho những người không được cắt bì được xưng công chính bởi đức tin.

31 Thế thì chúng ta dựa vào đức tin mà phế bỏ Luật Pháp chăng?

Chẳng hề như vậy! Ngược lại chúng ta củng cố giá trị của Luật Pháp.

Gương của Áp-ra-ham

Vậy chúng ta sẽ nói gì về tổ phụ Áp-ra-ham của chúng ta theo phần xác đã được? Vì nếu nhờ vào việc làm mà Áp-ra-ham đã được xưng công chính thì ông có lý do để tự hào; nhưng ông không thể tự hào trước mặt Ðức Chúa Trời được, vì Kinh Thánh đã nói gì?

“Áp-ra-ham tin Ðức Chúa Trời, và vì thế ông được kể là công chính.”Sáng 15:6

Thế thì, đối với người làm việc, tiền công không phải là ơn huệ, nhưng là món nợ chủ phải trả. Nhưng đối với người không cậy vào việc làm, mà chỉ tin vào Ðấng làm cho người có tội được xưng công chính, thì đức tin của người ấy được kể là yếu tố giúp người ấy được xưng công chính. Ðó cũng là điều Ða-vít đã nói về phước hạnh của người được Ðức Chúa Trời kể là công chính mà không nhờ cậy vào việc làm,

“Phước cho người được tha những vi phạm mình, được khỏa lấp những tội lỗi mình.
Phước cho người được Chúa không kể tội của mình.”Thi 32:1-2

Áp-ra-ham Ðược Xưng Công Chính Không Nhờ Phép Cắt Bì

Phải chăng phước hạnh ấy chỉ dành cho những người được cắt bì, hay cũng cho những người không được cắt bì nữa? Vì nếu chúng ta nói rằng,

“Nhờ đức tin mà Áp-ra-ham được kể là công chính,”Sáng 15:6

10 thì nếu vậy, ông ta được kể là công chính như thế nào? Lúc ông đã được cắt bì rồi, hay lúc ông chưa được cắt bì?

Không phải sau khi ông đã được cắt bì đâu, nhưng là trước khi ông được cắt bì. 11 Ông đã nhận dấu cắt bì như một dấu ấn của việc được xưng công chính nhờ đức tin trong khi ông còn là một người chưa được cắt bì, để ông có thể làm tổ phụ của tất cả những người có đức tin dù không được cắt bì, hầu họ cũng được kể là công chính. 12 Cũng vậy, ông là tổ phụ của những người được cắt bì, tức những người không những chỉ được cắt bì nhưng cũng bước theo những bước đức tin mà ông, tổ phụ Áp-ra-ham của chúng ta, đã trải qua trong lúc ông chưa được cắt bì.

Áp-ra-ham Ðược Xưng Công Chính Không Nhờ Vâng Giữ Luật Pháp

13 Vì không phải nhờ vâng giữ Luật Pháp mà Áp-ra-ham hay dòng dõi ông được lời hứa sẽ nhận thế gian làm cơ nghiệp, nhưng là nhờ được xưng công chính bởi đức tin. 14 Vì nếu nhờ vâng giữ Luật Pháp mà được thừa hưởng cơ nghiệp thì đức tin đã trở thành vô ích, và lời hứa đã bị vô hiệu hóa. 15 Vì Luật Pháp sẽ đem cơn thịnh nộ đến với người phạm pháp; và chỉ nơi nào không có Luật Pháp, nơi đó mới không có sự phạm pháp.

16 Thế thì nhờ đức tin tiếp nhận ân sủng mà lời hứa được bảo đảm cho cả dòng dõi của Áp-ra-ham, không những chỉ cho dòng dõi ở dưới Luật Pháp, nhưng cũng cho dòng dõi đức tin của ông nữa. Ông chính là tổ phụ của tất cả chúng ta, (17 như có chép rằng,

“Ta đã lập ngươi làm cha của nhiều dân tộc”Sáng 17:5)

trước mặt Ðức Chúa Trời, Ðấng ông tin có quyền làm cho kẻ chết sống lại và ra lịnh[n] cho những gì chưa hiện hữu trở thành hiện hữu.

Ðức Tin của Áp-ra-ham và Ðức Tin của Chúng Ta

18 Mặc dù Áp-ra-ham[o] không còn gì để hy vọng, ông vẫn hy vọng và vẫn tin rằng ông sẽ trở thành

“Cha của nhiều dân tộc,”Sáng 17:5

theo như lời đã phán với ông rằng,

“Dòng dõi ngươi sẽ đông như thế.”Sáng 15:5

19 Ðức tin của ông không hề suy giảm, mặc dù thân thể ông coi như đã chết, vì lúc ấy ông đã gần một trăm tuổi, và dạ bà Sa-ra không còn thể sinh con.[p] 20 Nhưng đối với lời hứa của Ðức Chúa Trời, ông không hề nao núng đức tin mà nghi ngờ gì cả,[q] nhưng càng tin tưởng mãnh liệt hơn, và như thế đã đem vinh hiển về cho Ðức Chúa Trời. 21 Ông tin quả quyết rằng Ðức Chúa Trời có khả năng làm thành những gì Ngài đã hứa. 22 Vì thế ông đã được kể là người công chính.

23 Nhưng khi viết rằng, “ông đã được kể là người công chính,” thì điều ấy không những chỉ nói về một mình ông, 24 nhưng cũng nói về chúng ta nữa. Chúng ta cũng sẽ được kể là những người công chính khi chúng ta tin Ðấng đã làm cho Ðức Chúa Jesus, Chúa chúng ta, từ cõi chết sống lại. 25 Ngài đã bị nộp để chết vì tội chúng ta và đã được làm cho sống lại, để chúng ta được xưng công chính.

Kết Quả của Việc Ðược Xưng Công Chính Bởi Ðức Tin

Vì vậy khi chúng ta được xưng công chính bởi đức tin, chúng ta được hòa thuận với Ðức Chúa Trời nhờ Ðức Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta. Nhờ Ngài chúng ta có thể cậy đức tin vào trong ân sủng này, tức ân sủng chúng ta đang hưởng;[r] và chúng ta có thể vui mừng về hy vọng được hưởng vinh hiển của Ðức Chúa Trời. Không những thế, chúng ta còn có thể vui mừng về những gian khổ của chúng ta nữa, vì biết rằng gian khổ sinh ra chịu đựng, chịu đựng sinh ra bản lĩnh, bản lĩnh sinh ra hy vọng; và hy vọng sẽ không làm chúng ta thất vọng, vì tình yêu của Ðức Chúa Trời đã tuôn đổ vào lòng chúng ta qua Ðức Thánh Linh, Ðấng Ðức Chúa Trời ban cho chúng ta.[s]

Trong khi chúng ta còn hoàn toàn bất lực, đến đúng thời điểm Ðấng Christ đã chết thay cho người có tội. Vì dễ gì có ai bằng lòng chết thay cho người công chính; họa hoằn lắm mới có người chịu chết thay cho người thiện lành. Còn Ðức Chúa Trời đã biểu lộ tình yêu của Ngài đối với chúng ta, trong khi chúng ta còn là người có tội, Ðấng Christ đã chết thay cho chúng ta.

Bây giờ nhờ huyết Ngài chúng ta đã được xưng công chính, thì trong tương lai cũng nhờ chính Ngài, chúng ta sẽ được cứu khỏi cơn thịnh nộ bội phần hơn biết bao.

10 Vì khi chúng ta còn là thù nghịch với Ðức Chúa Trời mà còn được giải hòa với Ngài nhờ sự chết của Con Ngài, huống chi bây giờ đã được giải hòa rồi, chúng ta sẽ được cứu nhờ sự sống của Con Ngài bội phần hơn biết bao. 11 Không những thế, nhưng chúng ta cũng vui mừng trong Ðức Chúa Trời, nhờ Ðức Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta, nhờ Ngài ngày nay chúng ta đã nhận được sự giải hòa.

A-đam và Ðấng Christ

12 Như vậy bởi một người, tội lỗi đã vào thế gian, rồi bởi tội lỗi, sự chết đã xâm nhập, và như thế sự chết đã lan tràn đến mọi người, vì mọi người đều đã phạm tội. 13 Số là tội lỗi đã hiện hữu trong thế gian trước khi có Luật Pháp, nhưng vì lúc đó chưa có Luật Pháp nên người ta không biết mình đã phạm tội trầm trọng như thế nào. 14 Thật vậy, từ A-đam đến Môi-se, sự chết đã ngự trị trên mọi người, kể cả những người phạm những tội không giống như tội của A-đam, người làm hình bóng về Ðấng phải đến.

15 Nhưng sự phạm tội không như ân sủng. Vì nếu chỉ bởi tội lỗi của một người mà mọi người phải chết, thì ân sủng của Ðức Chúa Trời và tặng phẩm trong ân sủng của Ngài cho nhiều người qua một người, là Ðức Chúa Jesus Christ, càng dồi dào hơn biết bao. 16 Tặng phẩm của Ðức Chúa Trời[t] cũng khác với hậu quả phạm tội của một người; một đàng thì vì một người phạm tội mà cả nhân loại phải lãnh án bị đoán phạt, còn một đàng khác nhờ ân sủng mà người ta tuy đã phạm tội nhiều lần vẫn được kể là công chính. 17 Vì nếu bởi một người phạm tội mà sự chết đã cầm quyền trên mọi người qua người ấy, thì cũng bởi một người là Ðức Chúa Jesus Christ mà sự sống sẽ cầm quyền trong những ai tiếp nhận ân sủng và tặng phẩm của sự công chính càng bội phần hơn biết bao.

18 Vậy như bởi một người phạm tội mà mọi người bị đoán phạt thể nào, thì cũng bởi một người đem lại sự công chính mà mọi người được xưng công chính và được hưởng sự sống cũng thể ấy. 19 Vì như bởi sự không vâng lời của một người mà nhiều người đã trở thành những kẻ có tội thể nào, thì cũng bởi sự vâng lời của một người mà nhiều người sẽ trở thành những người được kể là công chính cũng thể ấy.

20 Luật Pháp được ban hành để cho thấy tội lỗi đã gia tăng như thể nào; nhưng nơi nào tội lỗi gia tăng, nơi ấy ân sủng lại càng gia tăng nhiều hơn. 21 Vậy, như tội lỗi thống trị khiến người ta phải chết thể nào, thì ân sủng cũng thống trị, qua sự công chính, làm người ta được hưởng sự sống đời đời nhờ Ðức Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta, cũng thể ấy.

ÐỜI MỚI CỦA NGƯỜI ÐƯỢC XƯNG CÔNG CHÍNH

(6:1 - 8:39)

Chết Ðối Với Tội Lỗi, Sống Lại Với Ðấng Christ

Vậy chúng ta sẽ nói làm sao? Chúng ta cứ tiếp tục sống trong tội lỗi để ân sủng có thể gia tăng chăng? Chẳng hề như vậy! Làm thể nào chúng ta đã chết đối với tội lỗi còn có thể tiếp tục sống trong tội lỗi? Hay anh chị em không biết rằng khi tất cả chúng ta chịu báp-têm trong Ðức Chúa Jesus Christ, chúng ta đã chịu báp-têm vào sự chết của Ngài sao? Vậy qua phép báp-têm, chúng ta được chôn với Ngài trong sự chết của Ngài, để như Ðấng Christ nhờ vinh hiển của Ðức Chúa Cha sống lại từ trong cõi chết thể nào, thì chúng ta cũng có thể sống trong đời sống mới thể ấy. Vì nếu chúng ta đã hiệp nhất với Ngài trong sự chết của Ngài thể nào, chắc chắn chúng ta cũng sẽ hiệp nhất với Ngài trong sự sống lại của Ngài thể ấy. Chúng ta biết rằng con người cũ của chúng ta đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Ngài để bản ngã tội lỗi có thể bị tiêu diệt, và để từ đó trở đi chúng ta không còn làm nô lệ cho tội lỗi nữa. Vì ai đã chết thì đã được giải thoát khỏi quyền lực của tội lỗi. Nếu chúng ta đã cùng chết với Ðấng Christ, chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ cùng sống với Ngài. Chúng ta biết rằng Ðấng Christ, sau khi đã từ cõi chết sống lại, sẽ không bao giờ chết nữa; sự chết không có quyền gì trên Ngài nữa. 10 Cái chết mà Ngài đã chết, Ngài chết đối với tội lỗi, chỉ một lần đủ cả; nhưng sự sống mà Ngài đang sống, Ngài sống cho Ðức Chúa Trời. 11 Vậy anh chị em cũng hãy coi mình như đã chết đối với tội lỗi và đang sống cho Ðức Chúa Trời trong Ðức Chúa Jesus Christ.

12 Thế thì xin anh chị em đừng để tội lỗi cầm quyền trong thân thể sẽ chết này của anh chị em, khiến anh chị em vâng theo dục vọng nó. 13 Ðừng để các chi thể anh chị em làm những khí cụ của sự bất chính để phục vụ tội lỗi, nhưng hãy dâng chính mình cho Ðức Chúa Trời như những người đã từ cõi chết sống lại và dâng các chi thể mình làm những khí cụ của sự công chính để phục vụ Ðức Chúa Trời. 14 Vì tội lỗi sẽ không có quyền gì trên anh chị em, bởi anh chị em không còn ở dưới Luật Pháp, nhưng đang ở dưới ân sủng.

Nô Lệ của Sự Công Chính

15 Vậy thì sao? Chúng ta được phép phạm tội thoải mái, vì chúng ta không còn ở dưới Luật Pháp mà đang ở dưới ân sủng chăng?

Chẳng hề như vậy! 16 Anh chị em không biết rằng một khi anh chị em đem thân làm nô lệ để vâng phục ai, anh chị em sẽ làm nô lệ của người mình vâng phục, hoặc của tội lỗi để phải chết, hoặc của sự vâng lời để được trở nên công chính chăng?

17 Tạ ơn Ðức Chúa Trời, vì trước kia anh chị em vốn là nô lệ của tội lỗi, mà nay lại hết lòng vâng theo khuôn mẫu tín lý đã truyền lại[u] cho mình, 18 và sau khi được giải thoát khỏi tội lỗi, anh chị em đã trở thành nô lệ cho sự công chính.

19 Tôi nói theo cách người đời thường nói, vì bản ngã xác thịt của anh chị em vẫn còn yếu đuối. Như trước kia anh chị em đã trao các chi thể mình để làm nô lệ cho sự ô uế và tội lỗi đến nỗi đã trở nên quá tội lỗi thể nào, nay hãy dâng các chi thể của anh chị em để làm nô lệ cho sự công chính hầu sẽ trở nên thánh cũng thể ấy.

20 Vì khi anh chị em còn là nô lệ của tội lỗi thì đối với sự công chính anh chị em thấy mình được tự do. 21 Thế hồi đó anh chị em làm nô lệ cho tội lỗi và đã thu được kết quả gì mà bây giờ anh chị em lại hổ thẹn vậy? Thì ra kết quả của những việc ấy chỉ là sự chết. 22 Nhưng bây giờ anh chị em đã được giải thoát khỏi tội lỗi và được làm nô lệ cho Ðức Chúa Trời, anh chị em có được kết quả của mình là sự thánh hóa, và cuối cùng là sự sống đời đời. 23 Vì tiền công của tội lỗi là sự chết, nhưng tặng phẩm của Ðức Chúa Trời là sự sống đời đời trong Ðức Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta.

Tôi Con Chúa và Luật Pháp

Thưa anh chị em,[v] anh chị em không biết rằng (tôi muốn nói với những người đã hiểu biết Luật Pháp) luật pháp chỉ ràng buộc một người khi người ấy còn sống chăng?

Giống như một phụ nữ đã có chồng; hễ ngày nào chồng nàng còn sống, luật pháp ràng buộc người phụ nữ ấy với chồng nàng, nhưng nếu chồng nàng chết, nàng không còn bị luật pháp ràng buộc với chồng nàng nữa. Vì thế trong khi chồng nàng còn sống, nếu nàng ăn ở với người khác, nàng sẽ bị gọi là kẻ ngoại tình; nhưng nếu chồng nàng qua đời, luật pháp cho nàng được tự do; nàng có quyền lấy chồng khác và không bị coi là kẻ ngoại tình.

Cũng thế, anh chị em của tôi ơi, anh chị em đã chết đối với Luật Pháp qua thân thể của Ðấng Christ rồi. Bây giờ anh chị em đã thuộc về một người khác, thuộc về Đấng đã sống lại từ cõi chết, để chúng ta có kết quả cho Ðức Chúa Trời. Vì khi chúng ta còn sống trong xác thịt, những dục vọng tội lỗi, qua Luật Pháp, đã hành động trong các chi thể chúng ta, đưa đến hậu quả là sự chết. Nhưng bây giờ chúng ta đã được giải thoát khỏi Luật Pháp rồi, tức là đã chết đối với những gì giam giữ chúng ta bấy lâu nay rồi, vì thế chúng ta hãy phục vụ Chúa theo cách mới của Ðức Thánh Linh chứ không theo cách cũ của văn tự.

Liên Hệ Giữa Luật Pháp và Tội Lỗi

Vậy chúng ta sẽ nói làm sao? Luật Pháp là tội lỗi chăng?

Chẳng hề như vậy! Nếu không nhờ Luật Pháp, tôi không biết tội lỗi là gì; vì tôi không biết tham lam là gì, nếu Luật Pháp không nói,

“Ngươi chớ tham lam.”Xuất 20:17; Phục 5:21

Nhưng tội lỗi đã thừa dịp, dùng điều răn để khơi dậy trong tôi mọi thứ ham muốn. Thật vậy, nếu không có Luật Pháp thì tội lỗi coi như đã chết. Ðã có thời tôi sống và không biết gì đến Luật Pháp, nhưng từ khi điều răn đến, tội lỗi lại sống dậy, còn tôi thì chết, 10 và đáng lý điều răn phải dẫn tôi đến sự sống, thì nó lại đưa tôi đến sự chết! 11 Vì tội lỗi đã thừa dịp dùng điều răn để gạt tôi và dùng nó để giết tôi. 12 Nói tóm lại, Luật Pháp là thánh, và điều răn là thánh, đúng, và tốt.

13 Thế thì có phải điều tốt lại đem sự chết đến cho tôi chăng?

Chẳng hề như vậy! Nhưng ấy là vì tội lỗi đã dùng điều tốt để đem sự chết đến cho tôi, hầu bản chất của tội lỗi được bộc lộ, và qua điều răn, bản chất cực kỳ xấu xa của tội lỗi được bộc lộ rõ ràng.

Trận Chiến Nội Tâm

14 Chúng ta biết rằng Luật Pháp là thuộc linh, còn tôi là xác thịt đã bị bán làm nô lệ cho tội lỗi. 15 Nên tôi không hiểu việc tôi làm. Vì điều tôi muốn, tôi không làm; còn điều tôi ghét, tôi lại làm. 16 Nếu tôi làm điều mình không muốn, tôi mặc nhiên nhìn nhận rằng Luật Pháp là tốt. 17 Nhưng đúng ra không phải chính tôi làm điều đó, bèn là tội lỗi ở trong tôi. 18 Tôi biết điều thiện không ở trong tôi, tức trong xác thịt tôi, bởi lẽ tôi muốn làm điều thiện nhưng không làm được. 19 Tôi không làm điều thiện mình muốn nhưng lại làm điều ác mình không muốn. 20 Nếu tôi làm điều mình không muốn, thì tôi không còn là người làm điều ấy, nhưng là tội lỗi ở trong tôi.

21 Bởi đó tôi khám phá ra luật này: khi tôi muốn làm điều thiện thì điều ác cũng có mặt ngay lúc đó. 22 Trong thâm tâm tôi, tôi rất thích Luật Pháp của Ðức Chúa Trời, 23 nhưng tôi thấy có một luật khác trong các chi thể tôi đang chiến đấu chống lại luật của tâm trí tôi, và bắt tôi phải chịu khuất phục dưới luật của tội lỗi, là luật đang ở trong các chi thể tôi.

24 Khốn thay cho tôi! Ai sẽ cứu tôi khỏi thân thể sẽ chết này?

25 Cảm tạ Ðức Chúa Trời, nhờ Ðức Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta!

Thế thì về mặt tâm trí tôi phục vụ luật của Ðức Chúa Trời, còn về mặt xác thịt tôi bị làm nô lệ cho luật của tội lỗi.

Sống trong Ðức Thánh Linh

Cho nên hiện nay không còn có sự kết tội cho những ai ở trong Ðức Chúa Jesus Christ. Vì luật của Ðức Thánh Linh, Ðấng ban sự sống trong Ðức Chúa Jesus Christ, đã giải thoát tôi[w] khỏi luật của tội lỗi và sự chết. Vì điều chi Luật Pháp không thực hiện được, do xác thịt làm cho suy yếu, thì Ðức Chúa Trời đã làm rồi. Ngài đã sai chính Con Ngài lấy xác thịt giống như xác thịt tội lỗi của chúng ta để giải quyết vấn đề tội lỗi; Ngài đã đoán phạt tội lỗi trên thân thể của Con Ngài. Ngài làm như vậy để sự công chính mà Luật Pháp đòi hỏi có thể được thực hiện đầy đủ trong chúng ta, những người không sống theo xác thịt, nhưng sống theo Ðức Thánh Linh.

Vì những ai sống theo xác thịt thì để tâm trí họ vào những gì thuộc về xác thịt, nhưng những ai sống theo Ðức Thánh Linh thì để tâm trí họ vào những gì thuộc về Ðức Thánh Linh. Ðể tâm trí vào những gì thuộc về xác thịt dẫn đến sự chết, nhưng để tâm trí vào những gì thuộc về Ðức Thánh Linh dẫn đến sự sống và bình an. Vì tâm trí để vào những gì thuộc về xác thịt là chống nghịch với Ðức Chúa Trời, vì nó không chịu thuận phục dưới luật của Ðức Chúa Trời, đúng ra là nó không thể thuận phục được. Thật vậy, những người sống theo xác thịt không thể nào làm vui lòng Ðức Chúa Trời.

Tuy nhiên anh chị em không sống theo xác thịt nhưng theo Ðức Thánh Linh, nếu thật sự Ðức Thánh Linh của Ðức Chúa Trời đang ở trong anh chị em. Ai không có Ðức Thánh Linh của Ðấng Christ, người ấy không thuộc về Ngài. 10 Nhưng nếu Ðấng Christ ở trong anh chị em thì dù thân thể anh chị em sẽ chết vì tội lỗi, nhưng tâm linh vẫn sống[x] vì được xưng công chính. 11 Nếu Ðức Thánh Linh của Ðấng đã làm cho Ðức Chúa Jesus sống lại từ cõi chết ở trong anh chị em, thì Ðấng đã làm cho Ðấng Christ sống lại từ cõi chết cũng sẽ ban sự sống cho thân thể sẽ chết của anh chị em qua Ðức Thánh Linh của Ngài, Ðấng đang ngự trị trong anh chị em.

12 Thế thì thưa anh chị em, chúng ta không còn mắc nợ xác thịt để sống theo xác thịt nữa. 13 Vì nếu anh chị em cứ sống theo xác thịt, anh chị em chắc chắn sẽ chết, nhưng nếu anh chị em nhờ Ðức Thánh Linh làm chết những hành vi của bản ngã xác thịt, anh chị em sẽ sống. 14 Vì tất cả những ai được Ðức Thánh Linh của Ðức Chúa Trời dẫn dắt đều là con của Ðức Chúa Trời. 15 Bởi anh chị em đã không nhận lấy tâm linh của kẻ làm nô lệ để phải sợ hãi nữa, nhưng anh chị em đã nhận lấy tâm linh của người làm con nuôi, để nhờ đó chúng ta có thể thưa một cách dạn dĩ, “A-ba, Cha!” 16 Chính Ðức Thánh Linh làm chứng với tâm linh chúng ta rằng chúng ta là con cái Ðức Chúa Trời. 17 Nếu chúng ta là con cái, chúng ta cũng là những người thừa kế, những người thừa kế của Ðức Chúa Trời và những người đồng thừa kế với Ðấng Christ, nếu chúng ta thật sự chịu khổ với Ngài để chúng ta cũng được vinh hiển với Ngài.

Vinh Hiển Tương Lai

18 Thật vậy tôi cho rằng những đau khổ hiện tại không đáng sánh với vinh hiển tương lai là vinh hiển sẽ được bày tỏ cho chúng ta. 19 Vì muôn loài thọ tạo đang nôn nóng ngóng trông ngày Ðức Chúa Trời cho các con cái Ngài hiển lộ. 20 Vì muôn vật đã bị khuất phục dưới sự hư ảo, không phải tự ý, nhưng bởi Ðấng bắt chúng phải chịu như vậy, với hy vọng 21 rằng chính muôn vật cũng sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ của sự hư nát để vào hưởng tự do trong vinh hiển với các con cái Ðức Chúa Trời. 22 Vì chúng ta biết rằng muôn vật đang rên rỉ và quằn quại đau đớn như người sắp sinh cho đến bây giờ. 23 Không những muôn vật mà thôi, nhưng cũng có chúng ta nữa, những người có những trái đầu mùa của Ðức Thánh Linh;[y] chính chúng ta rên rỉ trong lòng, nôn nóng trông chờ ngày được hưởng trọn quyền làm con nuôi, tức sự cứu chuộc thân thể mình. 24 Vì trong niềm hy vọng đó chúng ta được cứu; nhưng khi hy vọng đã được thấy thì không còn là hy vọng, vì ai lại trông mong điều mình đang thấy bao giờ? 25 Nhưng nếu chúng ta đặt hy vọng vào điều chúng ta chưa thấy, thì đó mới là điều chúng ta bền chí trông chờ.

Ðức Thánh Linh Cầu Thay

26 Cũng vậy Ðức Thánh Linh giúp chúng ta trong khi chúng ta yếu đuối, vì chúng ta không biết phải cầu nguyện như thế nào cho đúng, nhưng chính Ðức Thánh Linh cầu thay cho chúng ta bằng những tiếng rên rỉ không thể diễn tả bằng lời. 27 Ðấng thấu rõ mọi lòng biết rõ tâm trí của Ðức Thánh Linh, vì Ðức Thánh Linh theo ý muốn Ðức Chúa Trời cầu thay cho các thánh đồ.

Phước của Người Yêu Kính Chúa

28 Chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho những người yêu kính Ðức Chúa Trời, tức những người được gọi theo mục đích của Ngài. 29 Vì những người Ngài đã biết trước, thì Ngài cũng đã định trước để trở nên giống như hình ảnh của Con Ngài, hầu Con ấy có thể làm Con Trưởng giữa một đàn em đông đúc. 30 Những người Ngài đã định trước thì Ngài cũng đã kêu gọi; những người Ngài đã kêu gọi thì Ngài cũng đã xưng công chính; và những người Ngài đã xưng công chính thì Ngài cũng đã làm cho vinh hiển.

Tình Yêu của Ðức Chúa Trời Ðối Với Chúng Ta Trong Ðấng Christ

31 Như vậy chúng ta sẽ nói gì về những điều ấy? Nếu Ðức Chúa Trời binh vực chúng ta, ai có thể chống lại chúng ta?

32 Ngài đã không tiếc chính Con Ngài, nhưng vì tất cả chúng ta, mà ban Con ấy, lẽ nào Ngài sẽ không ban cho chúng ta mọi sự cùng với Con ấy sao?

33 Ai sẽ kiện cáo những người Ðức Chúa Trời chọn?

Ðã có Ðức Chúa Trời, Ðấng xác nhận họ là công chính.

34 Ai sẽ kết án họ chăng?

Ðã có Ðức Chúa Jesus Christ, Ðấng đã chết, đúng hơn là Ðấng đã sống lại, Ðấng đang ở bên phải Ðức Chúa Trời, và Ngài đang cầu thay cho chúng ta.

35 Ai có thể tách rời chúng ta ra khỏi tình yêu của Ðấng Christ? Có phải hoạn nạn, khốn cùng, bách hại, đói khát, trần truồng, nguy hiểm, hoặc gươm giáo chăng? 36 Như có chép rằng,

“Vì cớ Ngài, chúng con bị giết suốt ngày;
Chúng con bị xem như chiên để đem giết thịt.”Thi 44:22

37 Tuy nhiên trong mọi sự ấy, chúng ta đều chiến thắng tất cả nhờ Ðấng yêu thương chúng ta. 38 Vì tôi tin chắc rằng không điều gì, dù sự chết hay sự sống, các thiên sứ hay các quỷ sứ,[z] việc hiện tại hay việc tương lai, hay bất cứ quyền lực nào, 39 điều gì đến từ trời cao hay ra từ vực thẳm, hay bất cứ vật thọ tạo nào, có thể tách rời chúng ta ra khỏi tình yêu của Ðức Chúa Trời trong Ðức Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta.

Footnotes

  1. Rô-ma 1:1 nt: nô lệ
  2. Rô-ma 1:4 Gr. πνεῦμα ἁγιωσύνης
  3. Rô-ma 1:13 nt: anh em (tương tự trong cả sách)
  4. Rô-ma 1:14 “Người Hy-lạp” ở chỗ này chỉ về người văn minh (thời đó)
  5. Rô-ma 1:16 "Người Hy-lạp" trong sách nầy chỉ về toàn thể nhân loại ngoại trừ người Do-thái
  6. Rô-ma 1:17 ctd: càng ngày tin Chúa mãnh liệt hơn
  7. Rô-ma 1:17 nt: Hab 2:4
  8. Rô-ma 1:23 nt: động vật bốn cẳng
  9. Rô-ma 1:23 nt: loài bò sát
  10. Rô-ma 2:29 ctd: trong tâm linh
  11. Rô-ma 3:2 ctd: Sấm Ngôn
  12. Rô-ma 3:12 3:10-12 - Thi 14:1-3 và 53:1-3 LXX
  13. Rô-ma 3:17 3:15-17 - Ê-sai 59:7-8; ctd: đường lối hòa bình
  14. Rô-ma 4:17 nt: gọi
  15. Rô-ma 4:18 nt: ông ấy
  16. Rô-ma 4:19 nt: như đã chết
  17. Rô-ma 4:20 nt: vô tín
  18. Rô-ma 5:2 nt: đang đứng
  19. Rô-ma 5:5 nt: Ðấng được ban cho chúng ta
  20. Rô-ma 5:16 nt: "sự ban cho" (chữ “Ðức Chúa Trời” được hiểu ngầm)
  21. Rô-ma 6:17 ctd: đã ủy thác
  22. Rô-ma 7:1 nt: anh em (tương tự cho cả sách)
  23. Rô-ma 8:2 nt: bạn (ngôi thứ hai số ít); chỗ nầy dịch theo bản Byzantine (ngôi thứ nhất số ít)
  24. Rô-ma 8:10 ctd: nhưng Đức Thánh Linh vẫn ban sự sống
  25. Rô-ma 8:23 ctd: có Ðức Thánh Linh như là trái đầu mùa của Ðức Chúa Trời ban
  26. Rô-ma 8:38 nt: những kẻ cầm đầu