Add parallel Print Page Options

Phao-lô, tôi tớ của Chúa Cứu Thế Giê-xu, được Thượng Đế gọi làm sứ đồ và được chọn rao Tin Mừng của Ngài cho mọi người.

Từ xưa, qua các nhà tiên tri của Ngài, Thượng Đế đã hứa ban Tin Mừng theo Thánh Kinh viết. 3-4 Tin Mừng về Con Thượng Đế: Đấng Cứu Thế Giê-xu, Chúa chúng ta. Về bản chất loài người, Ngài được sinh trong dòng họ vua Đa-vít nhưng qua Thánh Linh [a], Ngài được chỉ định làm Con Thượng Đế, với quyền năng cao cả, chứng tỏ bằng việc Ngài sống lại từ kẻ chết. Qua Chúa Cứu Thế, Thượng Đế đã giao cho tôi nhiệm vụ đặc biệt của một sứ đồ, để đưa dẫn mọi người trên thế giới trở lại tin nhận và vâng phục Chúa. Tôi làm công tác nầy vì Ngài. Còn quí anh chị em ở La-mã cũng được kêu gọi để thuộc riêng về Ngài.

Kính gởi: Anh chị em ở La-mã là người đã được Thượng Đế yêu thương và kêu gọi để trở thành dân thánh của Ngài.

Cầu chúc anh chị em nhận được ân phúc và bình an từ Thượng Đế, Cha chúng ta và từ Chúa Cứu Thế Giê-xu.

Lời cầu nguyện tạ ơn

Trước hết tôi cảm tạ Thượng Đế tôi, qua Chúa Cứu Thế Giê-xu về tất cả anh chị em, vì khắp nơi ai nấy đều ca ngợi đức tin anh chị em. Thượng Đế, Đấng mà tôi hết lòng phục vụ bằng cách rao truyền Tin Mừng về Con Ngài, biết rằng tôi luôn luôn nhắc đến anh chị em 10 mỗi khi cầu nguyện. Tôi cầu xin được đến thăm anh chị em và nếu đẹp ý Thượng Đế, thì việc ấy sẽ thành. 11 Tôi rất muốn gặp gỡ anh chị em để dùng những ân tứ thuộc linh tôi có mà giúp anh chị em lớn mạnh hơn. 12 Tôi muốn mỗi người trong chúng ta nên giúp đỡ lẫn nhau, theo đức tin mình có. Đức tin anh chị em sẽ khích lệ tôi, ngược lại, đức tin tôi sẽ khích lệ anh chị em. 13 Thưa anh chị em, tôi muốn anh chị em biết rằng, nhiều lần tôi dự định đến thăm các anh chị em nhưng chưa được. Tôi muốn thăm để giúp các anh chị em lớn lên về mặt tâm linh như tôi đã giúp các người ngoại quốc khác.

14 Tôi mang nặng một nghĩa vụ đối với mọi người—từ người Hi-lạp hay không phải Hi-lạp, người khôn ngoan cũng như người ngu dốt. 15 Vì thế mà tôi rất muốn rao truyền Tin Mừng cho quí anh chị em là người La-mã.

16 Tôi rất hãnh diện về Tin Mừng nầy, vì là quyền năng của Thượng Đế để cứu những ai tin—trước hết là người Do-thái rồi đến những người không phải Do-thái. 17 Tin Mừng ấy cho thấy Thượng Đế giúp cho con người hòa thuận lại với Ngài—bắt đầu và kết thúc đều qua đức tin. Như Thánh Kinh viết, “Những ai đã hòa thuận lại với Ngài sẽ sống mãi bằng đức tin.” [b]

Mọi người đều phạm tội

18 Cơn giận của Thượng Đế từ trời đã tỏ ra để chống lại mọi điều ác và trái phép mà con người làm. Qua nếp sống độc ác của họ, con người đã che giấu sự thật. 19 Thượng Đế nổi giận, vì những gì họ cần biết về Thượng Đế thì đã trình bày rõ ràng cho họ. Chính Thượng Đế đã phơi bày những điều ấy ra cho họ. 20 Có nhiều điều về Thượng Đế mà con người không thể thấy—chẳng hạn như quyền năng vô hạn và thiên tính của Ngài. Nhưng từ thuở tạo thiên lập địa, hai đặc tính nầy đều sờ sờ ra đó và ai cũng hiểu được. Cho nên họ không có lý do gì để bào chữa về những việc làm xấu xa của mình. 21 Họ đã biết Thượng Đế, nhưng không chịu tôn kính hoặc tạ ơn Ngài. Tư tưởng họ thật vô dụng. Trí óc họ đầy ngu tối. 22 Họ bảo rằng mình khôn ngoan nhưng lại hóa ra ngu dại. 23 Họ đánh đổi vinh hiển của Thượng Đế, là Đấng sống đời đời, để thờ lạy những thần tượng tạc giống hình người, chim chóc, súc vật hoặc rắn rết.

24 Vì họ hành động như thế nên Thượng Đế bỏ mặc họ đi theo con đường tội lỗi, lúc nào họ cũng muốn làm ác. Do đó, họ đầy dẫy tội nhục dục, sử dụng thân thể với nhau một cách bậy bạ. 25 Họ đã đánh đổi sự thật của Thượng Đế để lấy sự dối trá. Họ thờ phụng những vật được tạo dựng, thay vì thờ Đấng Tạo Hóa là Đấng đáng được ca ngợi đời đời. A-men.

26 Vì thế cho nên Thượng Đế đã bỏ mặc họ làm những việc nhơ nhuốc theo ý họ. Đàn bà không còn thực hành tình dục tự nhiên nữa, mà trái lại, hành dục với nhau. 27 Đàn ông cũng vậy, không còn thực hành tình dục tự nhiên nữa, mà lại hành dục với nhau. Đàn ông làm những việc nhơ nhuốc với nhau, vì lý do đó thân thể họ phải mang lấy hình phạt về tội phạm của mình.

28 Người ta không cho việc hiểu biết thực sự về Thượng Đế là quan trọng. Nên Thượng Đế bỏ mặc họ suy nghĩ theo ý tưởng ngông cuồng, làm những việc bậy bạ. 29 Lòng họ đầy dẫy tội lỗi, độc ác, ích kỷ, ganh ghét, đố kỵ, giết người, tranh giành, dối trá, làm hại nhau. Họ nói hành, 30 bêu xấu lẫn nhau và thù ghét Thượng Đế. Họ cộc cằn, kiêu căng và khoác lác. Lúc nào họ cũng nghĩ đến chuyện làm quấy, không vâng lời cha mẹ. 31 Họ ngu dại, không giữ lời hứa, thiếu nhân từ và khoan dung với người khác. 32 Họ biết luật Thượng Đế dạy rằng những ai có đời sống như vậy thật đáng chết, nhưng không những họ vẫn tiếp tục làm ác, mà lại còn xúi giục kẻ khác làm nữa.

Các bạn cũng phạm tội

Nếu bạn nghĩ rằng mình có thể lên án người khác, thì bạn lầm. Khi lên án người khác là tự lên án mình, vì chính mình cũng làm như họ. Thượng Đế lên án những người làm như thế và chúng ta biết phán quyết của Ngài là công bằng. Bạn lên án những người phạm tội, mà chính mình cũng phạm tội như họ. Bạn tưởng sẽ thoát khỏi sự trừng phạt của Thượng Đế sao? Ngài rất nhân từ và kiên nhẫn, chờ đợi bạn thay đổi, nhưng bạn không đếm xỉa gì đến lòng nhân từ Ngài. Bạn không biết rằng Thượng Đế nhân từ cốt để cho bạn ăn năn. Nhưng bạn ương ngạnh, không chịu thay đổi, cho nên bạn sẽ rước lấy sự trừng phạt nặng nề hơn, trong ngày Thượng Đế nổi giận. Vào ngày ấy, mọi người sẽ thấy sự xét xử công bình của Ngài. Thượng Đế sẽ thưởng phạt mỗi người theo việc họ đã làm. Một số người luôn làm lành, sống cho vinh hiển của Thượng Đế, cho danh dự và những gì bất diệt. Ngài sẽ ban cho họ sự sống đời đời. Còn những kẻ sống ích kỷ, không vâng theo sự thật mà đi theo điều ác, thì Thượng Đế sẽ giáng trừng phạt và cơn giận của Ngài. Ngài sẽ mang khốn khổ đến cho những kẻ làm ác—trước là người Do-thái, sau là cho những người không phải Do-thái. 10 Nhưng Ngài sẽ ban vinh dự và bình an cho những người làm lành—trước là người Do-thái sau là những người không phải Do-thái. 11 Vì Thượng Đế đối xử mọi người như nhau.

12 Ai không có luật pháp mà phạm tội sẽ phải chết, dù không có luật pháp. Cũng thế, những người có luật pháp mà phạm tội thì sẽ bị luật pháp xét xử. 13 Chỉ nghe luật pháp suông thôi, không thể nào giúp người ta hòa thuận lại với Thượng Đế đâu. Người nào vâng theo luật pháp mới hòa thuận lại với Ngài được. 14 Những người không phải Do-thái, dù không có luật pháp, nhưng nếu do bản chất tự nhiên làm theo những điều luật pháp qui định, thì những điều ấy là luật pháp của họ rồi. 15 Họ cho thấy rằng, tự lòng mình đã biết phân biệt phải quấy theo như luật pháp qui định. Họ chứng tỏ điều ấy qua lương tâm. Lương tâm có khi bảo rằng mình làm đúng, có khi bảo rằng mình làm sai. 16 Việc ấy sẽ xảy đến trong ngày mà Thượng Đế, qua Chúa Cứu Thế Giê-xu, sẽ xét xử những tâm tư thầm kín của con người. Đó là điều dạy dỗ của Tin Mừng mà tôi rao giảng.

Người Do-thái và luật pháp

17 Còn bạn thì sao? Bạn tự cho mình là người Do-thái. Bạn tin luật pháp Mô-se và khoe rằng mình sống gần Thượng Đế. 18 Bạn biết Ngài muốn bạn làm gì và điều gì là hệ trọng vì bạn học biết luật pháp. 19 Bạn tự cho mình là người dẫn đường kẻ mù, ánh sáng cho kẻ đi trong tối tăm. 20 Bạn tự cho mình có thể chỉ bảo điều phải cho kẻ ngu, và dạy những kẻ dốt nát. Vì bạn có luật pháp, nên bạn nghĩ mình biết mọi thứ và có sự thật theo mình. 21 Bạn dạy người khác mà không dạy bản thân mình sao? Bạn dạy kẻ khác đừng ăn cắp mà chính mình lại ăn cắp. 22 Bạn bảo kẻ khác không nên phạm tội ngoại tình mà chính mình lại phạm tội ấy. Bạn ghét thần tượng, mà lại đánh cắp hình tượng trong đền thờ. 23 Bạn khoe khoang là biết luật Thượng Đế, nhưng lại làm nhục danh Ngài bằng cách phạm luật ấy, 24 thật đúng như Thánh Kinh chép, “Vì ngươi mà dân ngoại xúc phạm đến danh CHÚA.” [c]

25 Nếu bạn tuân giữ luật pháp, thì phép cắt dương bì có ý nghĩa. Còn nếu bạn phạm luật, thì cắt dương bì cũng như không. 26 Những người không phải Do-thái vốn không chịu phép cắt dương bì, nhưng nếu họ làm theo điều luật pháp dạy bảo, thì xem như họ đã chịu phép ấy rồi. 27 Còn bạn là người Do-thái có luật pháp viết thành chữ và có phép cắt dương bì, nhưng bạn lại phạm luật. Cho nên những người không chịu phép cắt dương bì về phần thể xác, mà tuân theo luật pháp, sẽ kết án bạn.

28 Họ có thể làm như thế được là vì nếu một người chỉ có cái vỏ Do-thái về phần xác mà thôi thì không phải là người Do-thái thật; phép cắt dương bì [d] thật không phải chỉ có bề ngoài thân thể thôi đâu. 29 Người Do-thái thật là người Do-thái bên trong lòng; phép cắt dương bì thật là do Thánh Linh làm trong lòng, chứ không phải qua luật pháp viết thành chữ. Người như thế được Thượng Đế ca ngợi, chứ không phải con người.

Thế thì người Do-thái có gì hơn những dân tộc khác? Phép cắt dương bì có gì đặc biệt? Dĩ nhiên là có, về nhiều mặt. Điểm quan trọng nhất là: Thượng Đế đã trao lời dạy dỗ của Ngài cho người Do-thái. Nếu có một vài người Do-thái bất trung với Ngài, có phải vì vậy mà Ngài không thực hiện lời Ngài đã hứa sao? Không phải! Thượng Đế vẫn chân thật dù cho mọi người giả dối. Như Thánh Kinh viết:

“Ngài được chứng tỏ là đúng khi Ngài phán,
    và lẽ phải sẽ về phần Ngài.” (A)

Khi chúng ta phạm tội, điều đó chứng tỏ Thượng Đế đúng. Như thế có thể nào bảo rằng Thượng Đế trừng phạt chúng ta là sai chăng? (Tôi nói như một vài người thường nói) Không! Nếu Thượng Đế không trừng phạt chúng ta thì làm thế nào Ngài xét xử thế gian?

Có người sẽ bảo, “Khi tôi nói dối tức là tôi làm vinh hiển Ngài, vì sự dối của tôi chứng tỏ Thượng Đế là thật. Thế thì tại sao tôi bị xét xử như người có tội?” Nói như thế cũng chẳng khác nào lập luận, “Phải làm ác để mang cái thiện đến.” Có người bịa đặt, cho rằng chúng tôi dạy như thế. Họ nói bậy và thật đáng phạt.

Mọi người đều phạm tội

Thế thì người Do-thái có gì khá hơn dân tộc khác không? Không! Chúng ta đã nói rằng người Do-thái và tất cả dân tộc khác đều phạm tội. 10 Như lời Thánh Kinh viết:

“Chẳng có ai làm điều phải,
    kiếm một người cũng không ra.
11 Chẳng có ai hiểu biết.
    Không một người nào nhờ Thượng Đế cứu giúp.
12 Mọi người đều quay lưng đi.
    Ai nấy đều trở thành vô dụng.
Chẳng có một người làm lành,
    dù một người cũng chẳng có.” (B)

13 “Miệng chúng mở toang ra như huyệt mả;
    dùng lưỡi mình để nói dối.” (C)

“Lời nói chúng hiểm độc như nọc rắn.” (D)

14 “Môi miệng chúng đầy nguyền rủa
    và ganh ghét.” (E)

15 “Lúc nào cũng sẵn sàng để giết hại người khác.
16 Nơi nào chúng đi đều gây ra tai hại và đau khổ.
17 Chúng không biết sống hòa bình là gì.” (F)

18 “Chúng chẳng biết sợ Thượng Đế gì cả.” (G)

19 Chúng ta biết rằng những gì luật pháp dạy là dành cho những người có luật pháp. Vì thế không ai có thể bào chữa được, cho nên cả thế gian đều nằm dưới sự trừng phạt của Thượng Đế, 20 vì không ai nhờ tuân theo luật pháp mà được hòa thuận lại với Thượng Đế cả. Luật pháp chỉ cho chúng ta biết tội lỗi thôi.

Thượng Đế khiến con người trở nên công chính

21 Nhưng Thượng Đế đã cho chúng ta phương cách hòa thuận lại với Ngài, mà không qua luật pháp. Phương cách ấy đã được luật pháp và các nhà tiên tri dạy chúng ta. 22 Ngài khiến con người hòa thuận lại với Ngài qua đức tin [e] vào Chúa Cứu Thế Giê-xu. Hễ ai tin Chúa Cứu Thế đều được hòa thuận với Thượng Đế, vì mọi người đều đồng một tình trạng: 23 Mọi người đều phạm tội, không đáng hưởng vinh hiển của Thượng Đế. 24 Mọi người phải hòa thuận lại với Ngài qua ân phúc của Ngài, đó là một quà tặng từ Thượng Đế. Qua Chúa Cứu Thế Giê-xu, loài người được tha tội. 25 Thượng Đế đã hi sinh mạng sống Chúa Giê-xu để con người được xóa tội, nhờ tin vào sự chết của Ngài. Thượng Đế làm như thế để tỏ ra sự công chính của Ngài, như xưa kia Ngài bỏ qua tội lỗi mà con người đã phạm. 26 Ngày nay Thượng Đế đã ban Chúa Giê-xu để chứng tỏ điều Ngài làm là đúng. Như vậy, Ngài có thể xét xử công bình và hòa thuận lại với người nào đặt niềm tin mình nơi Chúa Giê-xu.

27 Thế thì chúng ta có lý do gì để tự khoe hay không?—Không! Tại sao? Vì con đường đức tin khiến cho chẳng còn ai có thể tự khoe như khi họ nhờ con đường vâng giữ luật pháp. 28 Con người được hòa thuận lại với Thượng Đế nhờ đức tin, chứ không phải nhờ vâng giữ luật pháp. 29 Có phải Thượng Đế chỉ là Thượng Đế của người Do-thái mà thôi hay Ngài cũng là Thượng Đế của những người không phải Do-thái nữa? Dĩ nhiên Ngài cũng là Thượng Đế của người không phải Do-thái nữa 30 vì chỉ có một Thượng Đế duy nhất thôi. Nếu Ngài đã làm cho người Do-thái [f] hòa thuận lại với Ngài qua đức tin của họ, thì Ngài cũng sẽ khiến cho mọi người không phải Do-thái [g] hòa thuận lại với Ngài qua đức tin của họ. 31 Thế thì có phải chúng ta đã phá bỏ luật pháp qua con đường đức tin không? Không phải! Trái lại, nhờ đức tin chúng ta làm cho luật pháp thêm vững chắc.

Footnotes

  1. Rô-ma 1:3 Thánh Linh Nguyên văn, “thần linh của sự thánh thiện.”
  2. Rô-ma 1:17 Những ai … bằng đức tin Ha 2:4.
  3. Rô-ma 2:24 Vì ngươi … danh CHÚA Ê-sai 52:5. Xem thêm Ê-xê 36:20-23.
  4. Rô-ma 2:28 cắt dương bì Xem Bảng Giải Thích Từ Ngữ. Ở đây Phao-lô dùng nghĩa bóng để chỉ những tín hữu cùng chia xẻ giao ước mới mà Thượng Đế ban cho dân Ngài qua Chúa Giê-xu.
  5. Rô-ma 3:22 đức tin Hay “sự trung tín.”
  6. Rô-ma 3:30 người Do-thái Nguyên văn, “người chịu cắt dương bì.”
  7. Rô-ma 3:30 người không phải Do-thái Nguyên văn, “người không chịu cắt dương bì.”

Lời Mở Ðầu

Phao-lô, một đầy tớ[a] của Ðức Chúa Jesus Christ, được kêu gọi làm sứ đồ, được biệt riêng để rao truyền Tin Mừng của Ðức Chúa Trời, là Tin Mừng đã được hứa từ trước qua các vị tiên tri của Ngài trong Kinh Thánh, liên quan đến Con Ngài, mà về phương diện phàm nhân thì được sinh ra từ dòng dõi Vua Ða-vít, còn về phương diện Linh của sự thánh khiết[b] thì được xác chứng là Con Ðức Chúa Trời đầy quyền năng qua sự sống lại từ cõi chết, đó là Ðức Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta, qua Ngài chúng tôi nhận được ân sủng và chức vụ sứ đồ để vì danh Ngài dẫn dắt mọi dân tin thờ Chúa và vâng phục Ngài, trong đó có anh chị em, những người được gọi để thuộc về Ðức Chúa Jesus Christ, kính gởi tất cả những người được Ðức Chúa Trời yêu thương, được gọi làm thánh đồ ở Rô-ma. Nguyện ân sủng và bình an từ Ðức Chúa Trời, Cha chúng ta, và từ Ðức Chúa Jesus Christ, là Chúa, đến cùng anh chị em.

Lời Cầu Nguyện Cảm Tạ

Trước hết, nhờ Ðức Chúa Jesus Christ, tôi cảm tạ Ðức Chúa Trời của tôi về tất cả anh chị em, vì đức tin của anh chị em đã được truyền tụng khắp thế giới. Vì Ðức Chúa Trời, Ðấng tôi phục vụ với tất cả tâm hồn trong việc rao truyền Tin Mừng về Con Ngài, có thể làm chứng cho tôi rằng tôi hằng nhắc đến anh chị em trong khi cầu nguyện. 10 Tôi luôn cầu xin rằng, nếu đẹp ý Ðức Chúa Trời, xin Ngài mở đường cho tôi đến thăm anh chị em. 11 Vì tôi rất mong được gặp anh chị em để có thể chia sẻ với anh chị em một số ơn phước thuộc linh, hầu làm vững mạnh đức tin anh chị em, 12 tức là khi tôi được ở giữa anh chị em, chúng ta có thể khích lệ đức tin lẫn nhau, tức đức tin của anh chị em và đức tin của tôi.

13 Thưa anh chị em,[c] tôi muốn anh chị em biết rằng, tôi đã định đến thăm anh chị em nhiều lần, để có thể gặt hái những kết quả giữa anh chị em như tôi đã gặt hái giữa các dân ngoại khác, nhưng lần nào tôi cũng gặp trở ngại.

14 Tôi mắc nợ cả người Hy-lạp[d] lẫn người man rợ, cả người thông thái lẫn người khờ dại. 15 Vì thế tôi nóng lòng muốn giảng Tin Mừng cho anh chị em, những người ở Rô-ma.

Quyền Năng Ðức Chúa Trời Tỏ Ra Qua Tin Mừng

16 Thật vậy, tôi không hổ thẹn về Tin Mừng đâu, vì đó là quyền năng Ðức Chúa Trời để cứu mọi người có lòng tin, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp.[e] 17 Vì trong Tin Mừng ấy sự công chính của Ðức Chúa Trời được biểu lộ, từ đức tin đến đức tin,[f] như có chép rằng,

“Người công chính sẽ sống bởi đức tin.”[g]

CẢ NHÂN LOẠI PHẢI CHỊU ÐỨC CHÚA TRỜI PHÁN XÉT

(1:18 - 3:20)

Tội Lỗi của Nhân Loại

18 Cơn thịnh nộ của Ðức Chúa Trời từ trời đã biểu lộ để trừng phạt mọi hình thức vô luân và gian ác của những kẻ dùng những biện pháp gian ác đàn áp sự thật. 19 Vì những gì con người có thể biết về Ðức Chúa Trời đã được bày tỏ cho họ rồi, bởi Ðức Chúa Trời đã bày tỏ cho họ. 20 Thật vậy từ khi dựng nên trời đất, qua những gì đã được dựng nên, con người đã thấy rõ và nhận biết những gì không thấy được về Ngài, như quyền năng đời đời và thần tính của Ngài, vì thế họ không còn lý do để bào chữa. 21 Vì dù họ đã biết Ðức Chúa Trời, họ vẫn không chịu tôn vinh Ngài là Ðức Chúa Trời và biết ơn Ngài; ngược lại, đầu óc họ cứ suy luận viển vông, tâm trí điên rồ của họ đã trở nên u tối. 22 Họ cho mình là khôn ngoan nhưng đã trở nên điên dại. 23 Họ đã đánh đổi vinh hiển của Ðức Chúa Trời không hề hư nát cho những hình tượng của con người hay hư nát, hoặc của chim chóc, súc vật,[h] và rắn rết.[i]

24 Vì thế Ðức Chúa Trời đã phó mặc họ cho những dục vọng của lòng họ, để họ sa vào những ô uế, làm nhục thân thể của nhau. 25 Họ đã đánh đổi chân lý của Ðức Chúa Trời để lấy sự giả dối; họ thờ phượng và phục vụ loài thọ tạo thay vì Ðấng Tạo Hóa, Ðấng đáng được ca ngợi đời đời. A-men.

26 Chính vì thế Ðức Chúa Trời đã phó mặc họ cho những dục vọng đồi bại của họ. Ngay cả phụ nữ của họ cũng đã đổi cách chung đụng xác thịt tự nhiên để theo cách phản tự nhiên. 27 Tương tự, đàn ông cũng đã bỏ cách chung đụng xác thịt tự nhiên với đàn bà mà un đốt sự thèm khát nhục dục với nhau; đàn ông làm những chuyện đồi bại với đàn ông, do đó họ phải chuốc lấy hình phạt tương xứng với hành động sai lầm của họ.

28 Vì họ không coi sự nhận biết Ðức Chúa Trời là trọng, nên Ðức Chúa Trời đã phó mặc họ cho một tâm trí bại hoại, để làm những điều không nên làm. 29 Lòng họ đầy mọi thứ bất chính, gian ác, tham lam, và hiểm độc. Họ đầy sự ganh tị, sát nhân, gây gổ, lừa đảo, và xảo quyệt. Họ nói hành, 30 vu khống, ghét Ðức Chúa Trời, xấc xược, kiêu căng, khoác lác, giỏi tạo ra điều ác, không vâng lời cha mẹ, 31 không chút lương tri, không giữ lời hứa, không chút tình cảm, không chút xót thương.

32 Dù họ đã biết rõ luật của Ðức Chúa Trời rằng hễ ai làm những việc như thế thì đáng chết, thế mà không những chính họ đã làm những điều ấy, mà còn tán thành những người khác làm những điều ấy nữa.

Sự Phán Xét của Ðức Chúa Trời

Vậy hỡi người kia, dù bạn là ai, khi bạn xét đoán người khác, bạn sẽ không thể bào chữa cho mình; vì khi xét đoán người khác mà bạn cũng làm những việc như người đó làm tức là bạn đã tự kết án mình. Chúng ta biết rằng sự phán xét của Ðức Chúa Trời đối với những ai làm những việc tội lỗi như thế là hợp với chân lý.

Hỡi người kia, khi bạn lên án người khác mà chính bạn cũng làm những việc ấy và hành động như thế, bạn tưởng bạn có thể thoát khỏi sự phán xét của Ðức Chúa Trời sao? Hay bạn coi thường sự phong phú của đức nhân từ, sức chịu đựng, và lòng khoan dung của Ðức Chúa Trời? Bạn không biết rằng lòng nhân từ của Ðức Chúa Trời là cốt để bạn có cơ hội ăn năn sao? Nhưng ấy là vì lòng cứng cỏi và không chịu ăn năn của bạn mà bạn đã tự chất chứa cho mình cơn thịnh nộ trong ngày thịnh nộ và biểu lộ sự phán xét công bình của Ðức Chúa Trời, Ðấng sẽ báo trả mỗi người tùy theo việc họ làm. Ai bền chí làm lành để tìm vinh hiển, tôn trọng, và sự bất tử, sẽ được Ngài ban cho sự sống đời đời. Còn kẻ ích kỷ, không vâng theo chân lý, nhưng cứ đi theo sự gian ác sẽ chuốc lấy cơn giận và cơn thịnh nộ của Ngài. Hoạn nạn và khốn khổ sẽ giáng trên mọi kẻ làm ác, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp, 10 nhưng vinh hiển, tôn trọng, và bình an sẽ ban cho mọi người làm lành, trước là người Do-thái, sau là người Hy-lạp. 11 Vì Ðức Chúa Trời không thiên vị ai cả.

Mọi Người Sẽ Bị Chúa Phán Xét

12 Ai không biết Luật Pháp mà phạm tội thì sẽ bị chết mất, không cần chiếu theo Luật Pháp; còn ai có Luật Pháp mà phạm tội thì sẽ bị xét xử theo Luật Pháp. 13 Vì đối với Ðức Chúa Trời, không phải người nghe biết Luật Pháp là công chính, nhưng người làm theo Luật Pháp mới được xưng là công chính.

14 Vì khi các dân ngoại, những người không có Luật Pháp, theo bản năng tự nhiên đã làm những điều Luật Pháp dạy bảo thì chính những người đó, dù không có Luật Pháp, là luật pháp cho họ rồi. 15 Họ đã chứng tỏ rằng những gì Luật Pháp đòi hỏi đã được khắc ghi trong lòng họ, và lương tâm họ cũng làm chứng cho điều đó, vì những tư tưởng của họ cứ xung đột với nhau, khi thì cáo trách, khi thì binh vực. 16 Ðiều ấy sẽ thể hiện rõ trong ngày Ðức Chúa Trời, qua Ðức Chúa Jesus Christ, phán xét mọi tư tưởng thầm kín của mọi người, theo Tin Mừng tôi rao giảng.

Người Do-thái Sẽ Bị Phán Xét Dù Ðã Có Luật Pháp của Môi-se

17 Còn bạn, nếu bạn mang danh là người Do-thái, ỷ lại vào Luật Pháp, tự hào về mối liên hệ với Ðức Chúa Trời, 18 cho rằng mình hiểu biết ý muốn Ngài, biết phân biệt đúng sai nhờ đã được dạy dỗ từ Luật Pháp, 19 và cho mình là người dẫn đường cho người mù, ánh sáng cho người đi trong tối tăm, 20 giáo sư của người khờ dại, thầy cô của người ấu trĩ, và có Luật Pháp là hiện thân của tri thức và chân lý, 21 vậy tại sao bạn dạy người khác mà không dạy mình? Bạn giảng chớ trộm cắp, mà bạn có trộm cắp không? 22 Bạn cấm người ta ngoại tình, mà bạn có ngoại tình không? Bạn gớm ghiếc sự thờ lạy thần tượng, mà bạn có cướp đồ trong các đền miếu không? 23 Bạn tự hào về Luật Pháp, mà bạn có làm nhục Ðức Chúa Trời vì đã vi phạm Luật Pháp không? 24 Như có chép,

“Vì cớ các ngươi, danh Ðức Chúa Trời đã bị nói phạm giữa các dân ngoại.”Ê-sai 52:5 LXX

Người Do-thái Sẽ Bị Phán Xét Dù Ðã Ðược Cắt Bì

25 Thật vậy phép cắt bì rất có giá trị nếu bạn giữ trọn Luật Pháp; nhưng nếu bạn là người vi phạm Luật Pháp thì dù đã được cắt bì, bạn cũng trở nên như người không được cắt bì thôi. 26 Như vậy nếu một người không được cắt bì nhưng vâng giữ những đòi hỏi của Luật Pháp thì tuy không được cắt bì nhưng người ấy chẳng thể được xem như đã được cắt bì rồi sao?

27 Vậy những người không được cắt bì trên thân xác nhưng luôn vâng giữ Luật Pháp sẽ xét đoán bạn là người có văn bản của Luật Pháp và được cắt bì, vì bạn đã vi phạm Luật Pháp. 28 Vì một người chỉ có bề ngoài là người Do-thái thì không phải là người Do-thái thật; cũng thế, sự cắt bì chỉ ở bên ngoài và trên thân xác, sự cắt bì đó không phải là sự cắt bì thật. 29 Nhưng một người bên trong là người Do-thái mới thật sự là người Do-thái. Sự cắt bì thật là sự cắt bì trong lòng, bằng Ðức Thánh Linh,[j] chứ không bằng văn tự. Một người như thế sẽ được khen ngợi không phải từ loài người, nhưng từ Ðức Chúa Trời.

Người Do-thái Sẽ Bị Phán Xét Dù Ðã Có Lời Chúa

Vậy thì làm người Do-thái có ích gì chăng? Hoặc được cắt bì có lợi gì chăng?

Có ích lợi nhiều lắm. Có giá trị đủ mọi mặt. Trước hết người Do-thái được Ðức Chúa Trời ủy thác Lời Ngài[k] cho họ.

Nếu có một số người bất trung thì sao? Liệu sự vô tín của họ sẽ vô hiệu hóa sự thành tín của Ðức Chúa Trời chăng?

Chẳng hề như vậy! Dù mọi người đều dối trá, Ðức Chúa Trời vẫn luôn luôn chân thật, như có chép rằng,

“Hầu Chúa luôn luôn đúng mỗi khi Ngài tuyên phán,
Và luôn luôn đắc thắng mỗi khi Ngài phán xét.”Thi 51:4 LXX

Nhưng nếu sự bất chính của chúng ta làm cho sự công chính của Ðức Chúa Trời được thể hiện rõ ràng hơn, thì chúng ta sẽ nói làm sao? Có phải Ðức Chúa Trời bất công khi Ngài giáng cơn thịnh nộ trên chúng ta chăng? (Tôi nói theo cách của người đời thường nói.)

Chẳng hề như vậy! Vì nếu thế làm sao Ðức Chúa Trời có thể xét đoán thế gian được?

Còn nếu nhờ vào sự dối trá của tôi mà đức chân thật của Ðức Chúa Trời được nổi bật lên, quy vinh hiển về cho Ngài, thì tại sao tôi còn bị kết án như một kẻ tội lỗi?

Nếu như thế là đúng thì tại sao “Chúng ta không cứ làm điều ác đi để được điều thiện” như mấy kẻ đã vu khống chúng tôi, bảo rằng chúng tôi đã nói như vậy? Họ bị định tội là đáng lắm!

Mọi Người Ðều Phạm Tội

Vậy thì sao? Chúng ta có khá hơn gì chăng?

Không, chẳng khá hơn gì cả. Vì như chúng tôi đã chứng tỏ rằng, người Do-thái lẫn người Hy-lạp, tất cả đều ở dưới quyền lực của tội lỗi, 10 như có chép rằng,

“Chẳng có ai công chính,
Dù một người cũng không.
11 Chẳng có người nào hiểu biết.
Chẳng ai tìm kiếm Ðức Chúa Trời.
12 Tất cả đều lìa bỏ Ngài.
Họ cùng nhau trở thành vô dụng.
Chẳng có ai làm điều lành,
Dù một người cũng không.[l]
13 Cổ họng chúng khác nào huyệt mả mở ra;Thi 5:9 LXX
Lưỡi chúng nói toàn những lời giả dối;
Dưới môi chúng là nọc rắn độc.Thi 140:3 LXX
14 Miệng chúng chứa đầy những lời nguyền rủa và cay đắng.Thi 10:7 LXX
15 Chân chúng lẹ làng đi gây đổ máu.
16 Nẻo đường chúng đi qua để lại điêu tàn và đau khổ.
17 Chúng chẳng biết con đường hòa bình là gì.[m]
18 Chẳng có sự kính sợ Ðức Chúa Trời ở trước mắt chúng.”Thi 36:1

19 Chúng ta biết rằng tất cả những gì Luật Pháp nói là nói cho những người ở dưới Luật Pháp để mọi miệng phải im lặng, và cả thế gian phải chịu sự phán xét của Ðức Chúa Trời, 20 vì không người nào nhờ vâng giữ Luật Pháp mà được kể là công chính trước mặt Ngài, bởi Luật Pháp giúp người ta biết thế nào là tội lỗi.

LOÀI NGƯỜI ÐƯỢC XƯNG CÔNG CHÍNH NHỜ ÐỨC TIN

(3:21 - 5:21)

Cách Ðức Chúa Trời Giúp Chúng Ta Trở Nên Công Chính

21 Tuy nhiên hiện nay sự công chính của Ðức Chúa Trời đã được thể hiện độc lập với Luật Pháp, nhưng được Luật Pháp và Các Tiên Tri làm chứng cho. 22 Tất cả những ai có lòng tin đều được kể là công chính trước mặt Ðức Chúa Trời, vì đã tin vào Ðức Chúa Jesus Christ, không phân biệt người nào, 23 vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất vinh hiển của Ðức Chúa Trời. 24 Nhờ ân sủng Ngài, chúng ta không phải trả một giá nào, mà được xưng công chính, nhờ sự cứu chuộc đã thực hiện trong Ðức Chúa Jesus Christ.

25 Ðức Chúa Trời đã lập Ðấng Christ làm con vật hiến tế chuộc tội, hầu khi chúng ta tin vào huyết của Ðấng Christ, Ngài có thể nguôi cơn giận của Ngài. Ðức Chúa Trời đã bày tỏ đức công chính của Ngài, khi Ngài bỏ qua những tội lỗi loài người vi phạm trước kia, nhờ ơn chịu đựng vô lượng của Ngài; 26 hiện nay Ngài cũng bày tỏ đức công chính của Ngài khi Ngài, Ðấng công chính, xưng công chính cho những người tin nhận Ðức Chúa Jesus.

Tầm Quan Trọng của Ðức Tin

27 Vậy chúng ta tự hào ở điểm nào? Chúng ta chẳng có gì để tự hào cả.

Chúng ta tự hào vì cậy vào Luật Pháp chăng? Hoặc cậy vào việc làm chăng? Hoàn toàn không. Nhưng chúng ta chỉ cậy vào luật của đức tin, 28 vì chúng ta tin rằng một người có thể được xưng công chính nhờ đức tin mà không cần phải làm những việc Luật Pháp đòi hỏi.

29 Ðức Chúa Trời nào phải là của người Do-thái thôi sao? Ngài không phải là Ðức Chúa Trời của các dân ngoại nữa sao?

Vâng, Ngài cũng là Ðức Chúa Trời của các dân ngoại nữa. 30 Vậy chỉ có một Ðức Chúa Trời, Ðấng sẽ cho những người được cắt bì được xưng công chính bởi đức tin, và cũng sẽ cho những người không được cắt bì được xưng công chính bởi đức tin.

31 Thế thì chúng ta dựa vào đức tin mà phế bỏ Luật Pháp chăng?

Chẳng hề như vậy! Ngược lại chúng ta củng cố giá trị của Luật Pháp.

Footnotes

  1. Rô-ma 1:1 nt: nô lệ
  2. Rô-ma 1:4 Gr. πνεῦμα ἁγιωσύνης
  3. Rô-ma 1:13 nt: anh em (tương tự trong cả sách)
  4. Rô-ma 1:14 “Người Hy-lạp” ở chỗ này chỉ về người văn minh (thời đó)
  5. Rô-ma 1:16 "Người Hy-lạp" trong sách nầy chỉ về toàn thể nhân loại ngoại trừ người Do-thái
  6. Rô-ma 1:17 ctd: càng ngày tin Chúa mãnh liệt hơn
  7. Rô-ma 1:17 nt: Hab 2:4
  8. Rô-ma 1:23 nt: động vật bốn cẳng
  9. Rô-ma 1:23 nt: loài bò sát
  10. Rô-ma 2:29 ctd: trong tâm linh
  11. Rô-ma 3:2 ctd: Sấm Ngôn
  12. Rô-ma 3:12 3:10-12 - Thi 14:1-3 và 53:1-3 LXX
  13. Rô-ma 3:17 3:15-17 - Ê-sai 59:7-8; ctd: đường lối hòa bình