Add parallel Print Page Options

Lúc thiên sứ thứ năm thổi kèn, thì tôi thấy một ngôi sao trên trời rơi xuống đất. Ngôi sao ấy được trao cho chìa khóa của lỗ sâu dẫn tới hố không đáy. Khi ngôi sao mở lỗ dẫn đến hố không đáy thì có luồng khói bay lên như khói của lò lửa lớn. Luồng khói ấy che mặt trời khiến bầu trời tối sầm lại. Từ luồng khói túa ra vô số cào cào tràn lan trên đất. Chúng được trao cho quyền chích như bọ cạp. Chúng được lệnh không được làm hại cây cỏ mà chỉ được phép làm hại những người không có dấu của Thượng Đế trên trán thôi. Chúng không được quyền giết ai nhưng chỉ được gây đau nhức cho người ta trong vòng năm tháng. Cái đau nhức đó giống như khi bị bọ cạp chích. Trong những ngày ấy người ta tìm cái chết mà không được. Họ mong chết nhưng sự chết tránh xa.

Các con cào cào ấy giống như ngựa sẵn sàng ra trận. Trên đầu chúng đội giống như mão triều thiên vàng, mặt giống mặt người. Tóc chúng như tóc đàn bà và răng như răng sư tử. Ngực chúng giống như thuẫn che ngực, tiếng vỗ cánh bay của chúng nghe như tiếng ngựa rầm rập và chiến xa đổ ra trận. 10 Chúng có đuôi mang nọc như bọ cạp và chúng dùng đuôi để làm khổ người ta trong vòng năm tháng. 11 Chúng có một vua là thiên sứ của hố không đáy. Tên của vua ấy theo tiếng Hê-bơ-rơ là A-ba-đôn [a], còn tiếng Hi-lạp gọi là A-bô-li-ôn. [b]

12 Nạn thứ nhất vừa qua thì còn hai nạn nữa sắp đến.

13 Đến lượt thiên sứ thứ sáu thổi kèn thì tôi liền nghe có tiếng phát ra từ các sừng nơi bàn thờ vàng trước mặt Thượng Đế. 14 Tiếng đó nói với thiên sứ thứ sáu cầm kèn rằng, “Hãy mở trói cho bốn thiên sứ đang bị cột nơi bờ sông lớn Ơ-phơ-rát đi.” 15 Người ta liền mở trói cho bốn thiên sứ là những người đã được chuẩn bị sẵn sàng cho đến ngày, giờ, năm và tháng nầy để tiêu diệt một phần ba dân cư trên đất. 16 Tôi nghe con số quân sĩ cỡi ngựa trong đạo quân họ—hai trăm triệu.

17 Ngựa và người cỡi mà tôi thấy trong khải tượng giống thế nầy: Họ mang thuẫn che ngực màu đỏ lửa, xanh đậm và vàng đậm như diêm sinh. Đầu của ngựa giống như đầu sư tử, miệng phun lửa, khói và diêm sinh. 18 Một phần ba dân số thế giới bị giết do những đại nạn khủng khiếp phát ra từ miệng các con ngựa: lửa, khói và diêm sinh. 19 Quyền lực của các con ngựa là ở miệng và đuôi chúng; đuôi chúng giống như rắn có đầu và chúng dùng đuôi để làm hại người ta.

20 Còn những người không bị giết bởi những đại nạn ấy vẫn không ăn năn hoặc từ bỏ những gì do tay họ làm ra. Họ cũng không từ bỏ việc thờ cúng ma quỉ và các thần tượng bằng vàng, bạc, đồng, đá và gỗ—là những vật không thấy, không nghe cũng không đi được. 21 Họ cũng không ăn năn, quay khỏi tội giết người hoặc phù phép gian ác, khỏi tội nhục dục và trộm cắp.

Thiên sứ với cuộn sách nhỏ

10 Rồi tôi thấy một thiên sứ dũng mãnh khác từ thiên đàng xuống có đám mây bao bọc, trên đầu có cái mống, mặt giống như mặt trời, chân như trụ lửa. Người cầm trong tay một cuộn sách nhỏ mở ra. Chân phải người đặt trên biển và chân trái đặt trên đất. Rồi người kêu lớn như tiếng sư tử rống. Khi vừa kêu xong thì có bảy tiếng sấm rền đáp lại. Khi các tiếng sấm vừa đáp lại thì tôi định viết. Nhưng tôi nghe tiếng từ trời vọng xuống rằng, “Hãy giữ kín những điều các tiếng sấm nói, đừng viết xuống làm gì.”

Rồi thiên sứ mà tôi thấy đứng trên biển và trên đất giơ tay phải lên trời, và thề, nhân danh quyền của Đấng sống đời đời là Đấng dựng nên trời, đất, biển và mọi vật trong đó. Thiên sứ thề rằng, “Sẽ không còn chần chờ gì nữa! Vào ngày mà thiên sứ thứ bảy thổi kèn thì những chương trình giấu kín của Thượng Đế sẽ làm xong. Bí mật ấy là Tin Mừng mà Thượng Đế trình bày ra cho các tôi tớ Ngài tức các nhà tiên tri của Ngài.”

Sau đó cũng nghe tiếng từ thiên đàng phán xuống lần nữa với tôi rằng, “Hãy đến lấy cuộn sách nơi tay của thiên sứ đang đứng trên biển và đất.”

Tôi liền bước đến xin thiên sứ trao cho tôi cuộn sách nhỏ. Người bảo tôi, “Hãy lấy cuộn sách nầy và ăn đi. Nó sẽ chua trong bụng ngươi nhưng trong miệng ngươi sẽ ngọt như mật.” 10 Tôi liền lấy cuộn sách nơi tay thiên sứ và ăn. Trong miệng tôi nó ngọt như mật nhưng sau khi ăn xong bụng tôi thấy chua. 11 Rồi người bảo tôi, “Ngươi còn phải nói tiên tri thêm về nhiều dân tộc, quốc gia, ngôn ngữ và về các vua chúa.”

Hai nhân chứng

11 Tôi được trao cho một thước đo giống cái roi và được dặn, “Hãy đi đo đền thờ [c] của Thượng Đế và bàn thờ, đồng thời đếm số người thờ phụng tại đó. Nhưng đừng đo sân ngoài đền thờ. Hãy để yên vì phần ấy đã được giao cho những người không thuộc dân Chúa. Họ sẽ chà đạp thành thánh trong bốn mươi hai tháng. Ta sẽ giao quyền lực cho hai nhân chứng. Họ sẽ nói tiên tri trong một ngàn hai trăm sáu mươi ngày. Họ sẽ ăn mặc vải sô để bày tỏ sự buồn thảm.” Hai nhân chứng ấy tức là hai cây ô-liu và hai chân đèn đứng trước mặt Chúa của cả thế gian. Nếu ai muốn làm hại họ, lửa sẽ ra từ miệng họ giết mọi kẻ thù. Nếu ai muốn hại họ cách nào khác thì cũng sẽ bị giết như thế. Hai nhân chứng ấy có quyền ngăn không cho mưa xuống đất trong thời gian họ nói tiên tri. Họ cũng có quyền biến nước ra máu và gây ra đủ thứ khốn khổ trên đất bao nhiêu lần cũng được.

Sau khi hai nhân chứng làm xong công tác thì một con vật từ hố không đáy lên chiến đấu cùng họ. Con vật sẽ thắng và giết họ. Xác của họ sẽ nằm phơi trên phố của thành lớn nơi Chúa bị đóng đinh vào thập tự giá. Thành ấy gọi là Xô-đôm và Ai-cập, mang ý nghĩa thiêng liêng. Mọi người từ mọi dân, mọi chi tộc, mọi thứ tiếng, mọi quốc gia sẽ nhìn thấy xác hai nhân chứng ấy trong ba ngày rưỡi vì chúng không cho phép ai chôn cất họ. 10 Dân cư trên đất sẽ vui mừng sung sướng vì hai người ấy đã chết. Họ gởi quà biếu lẫn nhau vì hai tiên tri ấy đã gây khốn khổ nhiều cho mọi người trên đất.

11 Nhưng sau ba ngày rưỡi, Thượng Đế cho hơi sống vào hai tiên tri trở lại. Họ sẽ đứng lên, mọi người sẽ trông thấy và hốt hoảng. 12 Rồi hai tiên tri sẽ nghe tiếng gọi lớn từ thiên đàng rằng, “Hãy lên đây!” Rồi họ sẽ cất lên trời trong đám mây trước mắt các kẻ thù.

13 Cùng lúc ấy có cơn động đất dữ dội, một phần mười thành phố sẽ sụp đổ. Bảy ngàn người chết trong cơn động đất, còn những kẻ sống sót rất kinh sợ và dâng vinh hiển cho Thượng Đế trên trời.

14 Nạn thứ nhì vừa xong. Xin lưu ý: Nạn thứ ba sắp đến ngay sau đó.

Kèn thứ bảy

15 Khi thiên sứ thứ bảy thổi kèn liền có nhiều tiếng lớn từ thiên đàng kêu lên rằng:

“Quyền cai trị thế gian nay thuộc về Chúa chúng ta
    và Đấng Cứu Thế của Ngài, Ngài sẽ cai trị đời đời.”

16 Rồi hai mươi bốn trưởng lão đang ngồi trên ngôi trước mặt Thượng Đế, sấp mặt xuống bái lạy Thượng Đế. 17 Họ nói:

“Lạy Chúa Toàn Năng,
    chúng tôi tạ ơn Ngài,
là Đấng hiện có, trước đã có
    vì Ngài đã dùng quyền năng lớn lao
    và bắt đầu cai trị!
18 Dân cư trên thế giới nổi giận,
    nhưng cơn thịnh nộ Ngài đã đến.
Tới lúc Ngài xét xử kẻ chết và ban thưởng cho các tôi tớ Ngài là các nhà tiên tri
    và các dân thánh của Ngài,
    những người kính sợ Ngài
    cả lớn lẫn nhỏ.
Đã đến lúc hủy diệt những kẻ hủy diệt thế gian!”

19 Rồi đền thờ của Thượng Đế trên thiên đàng mở ra. Người ta có thể thấy Rương Giao Ước trong đền thờ, trong đó đựng giao ước của Thượng Đế lập với dân Ngài. Tiếp sau có chớp, sấm vang rầm, động đất và cơn mưa đá lớn.

Người đàn bà và con rồng

12 Sau đó có một dấu lạ lớn hiện ra trên trời: Một người đàn bà mặc áo bằng mặt trời, có mặt trăng dưới chân, đầu đội mão triều có mười hai ngôi sao. Nàng đang mang thai và kêu la đau đẻ vì gần đến giờ sinh nở. Rồi có một dấu lạ khác hiện ra trên trời: Một con rồng khổng lồ màu đỏ có bảy đầu, mỗi đầu có bảy mão triều. Con rồng cũng có mười sừng. Đuôi nó quét một phần ba ngôi sao trên trời và ném xuống đất. Nó đứng trước mặt người đàn bà sắp sinh nở để chực hễ đứa nhỏ lọt lòng là nuốt sống nó ngay. Người đàn bà sinh ra một bé trai, đứa bé đó sẽ cai trị mọi dân tộc với một cây roi sắt. Đứa bé được tiếp lên nơi Thượng Đế và ngôi Ngài. Còn người đàn bà thì chạy trốn vào sa mạc, đến một nơi Thượng Đế đã chuẩn bị sẵn để được chăm sóc trong một ngàn hai trăm sáu mươi ngày.

Rồi có cuộc tranh chiến trên trời. Mi-chen [d] và các thiên sứ người chiến đấu cùng con rồng, con rồng cùng các thiên sứ nó cũng chống trả lại. Nhưng con rồng không thắng nổi cho nên nó và các thiên sứ nó mất chỗ đứng trên thiên đàng. Con rồng khổng lồ bị ném ra khỏi thiên đàng. Nó là con rắn đời xưa, tức ma quỉ hay Sa-tăng, chuyên đi lường gạt thế gian. Con rồng cùng các thiên sứ nó bị ném xuống đất.

10 Sau đó tôi nghe tiếng vang trên thiên đàng rằng:

“Sự cứu rỗi và quyền năng
    cùng nước của Thượng Đế chúng ta
    và quyền của Đấng Cứu Thế
    hiện đã đến.
Kẻ tố cáo anh chị em chúng ta,
    đã tố cáo họ ngày và đêm
    trước mặt Thượng Đế chúng ta
    đã bị ném xuống.
11 Anh chị em chúng ta
    đã chiến thắng nó bằng huyết
    của Chiên Con và
    bằng lời giảng của họ.
Họ đã không coi trọng mạng sống mình
    vì chẳng sợ chết.
12 Cho nên, các từng trời
    và mọi vật trong đó hãy vui lên!
Nhưng khốn cho đất và biển
    vì ma quỉ đã đến trên ngươi!
Nó đầy lòng căm giận vì nó biết
    nó không còn bao nhiêu thì giờ nữa.”

13 Khi con rồng thấy đã bị ném xuống đất nó liền đuổi theo người đàn bà đã sinh bé trai. 14 Nhưng người đàn bà được ban cho cặp cánh chim phượng hoàng lớn để bay đến chỗ đã dành sẵn nơi sa mạc. Nơi đó nàng được chăm sóc trong một ngàn hai trăm sáu mươi ngày, tránh xa khỏi con rồng [e]. 15 Con rồng liền lấy miệng phun nước như sông theo sau để làm nước lụt cuốn người đàn bà đi. 16 Nhưng đất giúp người đàn bà bằng cách hả miệng nuốt con sông phun ra từ miệng con rồng. 17 Con rồng vô cùng tức giận người đàn bà nên nó đi tranh chiến với con cái nàng—tức những người vâng theo mệnh lệnh của Thượng Đế và giữ lời dạy của Chúa Giê-xu.

18 Rồi con rồng đứng trên bờ biển.

Footnotes

  1. Khải Huyền 9:11 A-ba-đôn Trong tiếng Hê-bơ-rơ từ ngữ nầy có nghĩa là “sự chết” hay “sự hủy phá.” Xem Gióp 26:6 và Thi 88:11.
  2. Khải Huyền 9:11 A-bô-li-ôn Từ ngữ nầy có nghĩa là “Kẻ hủy diệt.”
  3. Khải Huyền 11:1 đền thờ Nhà của Thượng Đế—nơi dân CHÚA thờ phụng và phục vụ Ngài. Ở đây Giăng hình dung đền thờ ấy như một toà nhà đặc biệt ở Giê-ru-sa-lem để dân Do-thái thờ phụng. Xem thêm câu 19.
  4. Khải Huyền 12:7 Mi-chen Thiên sứ trưởng—tức người lãnh đạo các thiên sứ của Thượng Đế (Giu-đe 9).
  5. Khải Huyền 12:14 con rồng Nguyên văn, “con rắn.”

Tiếng Kèn Thứ Năm

Vị thiên sứ thứ năm thổi kèn, tôi thấy một ngôi sao từ trời lao xuống đất, và ngôi sao ấy được ban cho chìa khóa của vực thẳm. Ngôi sao ấy mở vực thẳm, khói từ vực thẳm bốc lên cuồn cuộn như khói của một lò lửa lớn; mặt trời và bầu trời bị khói từ vực thẳm che tối. Từ trong luồng khói đó châu chấu bay ra khắp đất, và chúng được ban cho quyền phá hoại như quyền của những bò cạp trên đất. Chúng được lịnh không được làm hại cỏ xanh, các loài thực vật, hay cây cối trên đất, nhưng chỉ làm hại những người không có ấn của Ðức Chúa Trời trên trán. Chúng không được phép giết họ, nhưng chỉ hành hạ họ trong năm tháng, và họ sẽ bị đau đớn như bị bò cạp chích. Trong những ngày ấy người ta sẽ tìm cái chết nhưng tìm không được; họ mong cho được chết, nhưng tử thần đã trốn khỏi họ.

Hình dạng những châu chấu ấy giống như những ngựa chiến được chuẩn bị sẵn sàng để ra trận. Trên đầu chúng có vật gì giống như cái mão bằng vàng, và mặt chúng giống như mặt người. Chúng có tóc như tóc phụ nữ, và răng chúng như răng sư tử. Chúng có giáp che ngực cứng như giáp sắt, và âm thanh của cánh chúng như tiếng của nhiều xe chiến mã đang xông vào trận mạc. 10 Chúng có đuôi như đuôi bò cạp với ngòi chích độc trong đuôi ấy, và trong đuôi chúng có chất độc[a] làm người ta đau đớn trong năm tháng. 11 Chúng có một vua lãnh đạo chúng, đó là quỷ sứ[b] của vực thẳm. Tên của nó trong tiếng Hê-bơ-rơ là “A-ba-đôn,”[c] còn tên đó trong tiếng Hy-lạp là “A-pô-ly-ôn.”[d]

12 Cơn khốn thứ nhất đã qua, này, còn hai cơn khốn nữa sắp đến.

Tiếng Kèn Thứ Sáu

13 Vị thiên sứ thứ sáu thổi kèn, tôi nghe có tiếng từ bốn sừng của bàn thờ bằng vàng trước mặt Ðức Chúa Trời 14 bảo vị thiên sứ thứ sáu đang có cây kèn rằng, “Hãy thả bốn thiên sứ đang bị trói ở sông lớn Ơ-phơ-rát ra.” 15 Vậy bốn thiên sứ ấy, vốn được chuẩn bị sẵn cho giờ, ngày, tháng, và năm, được thả ra để tiêu diệt một phần ba nhân loại. 16 Số của các kỵ binh là hai trăm triệu; tôi đã nghe được quân số đó của họ.

17 Các chiến mã và các kỵ binh tôi thấy trong khải tượng trông giống như thế này: Họ mặc áo giáp đỏ như lửa, xanh như nước biển, và vàng như lưu huỳnh; đầu các chiến mã giống như đầu sư tử, và miệng chúng phun ra lửa, khói, và lưu huỳnh. 18 Một phần ba nhân loại bị tiêu diệt bằng ba tai họa đó, tức bằng lửa, khói, và lưu huỳnh phun ra từ miệng chúng. 19 Sức mạnh của các chiến mã ấy ở trong miệng và đuôi chúng, vì đuôi chúng giống như rắn độc có đầu; và chúng dùng miệng và đuôi chúng để giết hại.

20 Tuy nhiên nhân loại còn lại, tức những người không bị giết bởi các tai họa ấy, vẫn không chịu ăn năn những việc tay họ làm. Họ vẫn không từ bỏ sự thờ lạy các quỷ và các thần tượng làm bằng vàng, bạc, đồng, đá, và gỗ là những thứ không thể thấy, nghe, và đi. 21 Họ vẫn không ăn năn từ bỏ các tội sát nhân, tà thuật, gian dâm, và trộm cắp của họ.

Thiên Sứ và Cuộn Sách Nhỏ

10 Tôi lại thấy một vị thiên sứ mạnh mẽ khác từ trời xuống, mình cuộn trong mây, trên đầu có cầu vồng, mặt sáng rực như mặt trời, và hai chân như hai trụ lửa. Trong tay vị thiên sứ ấy cầm một cuộn sách nhỏ đã được mở ra. Vị thiên sứ ấy đặt chân phải trên biển và chân trái trên đất, rồi hô lên một tiếng lớn như tiếng sư tử rống. Khi vị thiên sứ ấy hô lên, bảy tiếng sấm vang rền đáp lại. Khi bảy tiếng sấm vừa dứt, tôi định ghi xuống thì tôi nghe có tiếng từ trời phán, “Hãy niêm phong những lời của bảy tiếng sấm vừa nói, đừng ghi lại những lời ấy.” Bấy giờ vị thiên sứ tôi đã thấy đứng trên biển và trên đất đưa tay phải lên trời, nhân danh Ðấng hằng sống đời đời vô cùng, Ðấng đã tạo dựng trời và mọi vật trong đó, đất và mọi vật trong đó, biển và mọi vật trong đó, và thề rằng, “Sẽ không còn trì hoãn nữa, nhưng trong những ngày tiếng kèn của vị thiên sứ thứ bảy vang lên, huyền nhiệm của Ðức Chúa Trời sẽ được làm ứng nghiệm, y như Ngài đã báo cho các đầy tớ Ngài là các vị tiên tri.”

Kế đó tiếng tôi đã nghe từ trời phán với tôi một lần nữa rằng, “Hãy đi, lấy cuộn sách đã mở ở nơi tay vị thiên sứ đứng trên biển và trên đất.”

Tôi đến gặp vị thiên sứ ấy và xin vị ấy cho tôi cuộn sách nhỏ. Vị thiên sứ ấy nói với tôi, “Hãy lấy và ăn đi. Nó sẽ ngọt như mật trong miệng ngươi, nhưng sẽ đắng trong bụng ngươi.”

10 Tôi lấy cuộn sách nhỏ khỏi tay vị thiên sứ và ăn nó. Sách ấy ngọt như mật trong miệng tôi, nhưng khi nuốt vào, bụng tôi thấy đắng. 11 Bấy giờ tôi được bảo, “Ngươi còn phải nói tiên tri về nhiều dân tộc, nhiều quốc gia, nhiều ngôn ngữ, và nhiều vua chúa.”

Hai Nhân Chứng

11 Ðoạn tôi được cho một cây thước đo, giống như một cây gậy, và được bảo rằng, “Hãy đứng dậy và đo đền thờ Ðức Chúa Trời, bàn thờ, và những khí dụng[e] để thờ phượng trong đó, nhưng hãy chừa sân ngoài của đền thờ, đừng đo nó, vì nó đã được ban cho các dân ngoại, và họ sẽ giày đạp thành thánh trong bốn mươi hai tháng. Ta sẽ cho hai nhân chứng của Ta, mặc vải gai, nói tiên tri trong một ngàn hai trăm sáu mươi ngày.” Ðó là hai cây ô-liu và hai cây đèn đứng trước mặt Chúa của thế gian. Nếu ai muốn làm hại họ, lửa từ miệng họ phun ra sẽ thiêu rụi kẻ thù của họ. Nếu ai muốn làm hại họ, kẻ ấy sẽ bị giết như thế. Hai vị ấy có quyền đóng cửa trời để mưa không rơi xuống đất trong những ngày họ nói tiên tri, và họ có quyền biến nước thành máu và đánh phạt trái đất bằng mọi thứ tai họa, bất cứ lúc nào họ muốn.

Khi họ hoàn thành sứ mạng làm chứng của mình, một con thú từ vực thẳm đi lên sẽ tấn công họ, đánh bại họ, và giết họ. Thi thể họ sẽ bị phơi bày trên đường của thành vĩ đại mà phương diện thuộc linh gọi là Sô-đôm và Ai-cập, nơi Chúa của họ đã chịu đóng đinh. Người ta từ các dân tộc, các bộ lạc, các ngôn ngữ, và các quốc gia sẽ nhìn thấy thi thể họ trong ba ngày rưỡi; và chúng không cho đem thi thể họ chôn trong mộ. 10 Những người sống trên đất sẽ vui mừng về cái chết của họ, người ta sẽ ăn mừng và tặng quà cho nhau, vì hai vị tiên tri ấy đã làm khổ những người sống trên đất.

11 Nhưng sau ba ngày rưỡi, sinh khí từ Ðức Chúa Trời nhập vào họ, khiến họ đứng dậy trên chân mình. Bấy giờ những kẻ đang nhìn xem họ đều cực kỳ sợ hãi. 12 Họ nghe một tiếng lớn từ trời gọi họ rằng, “Hãy lên đây!” Bấy giờ họ được cất lên trời trong đám mây, giữa lúc những kẻ thù của họ đang nhìn theo. 13 Ngay giờ đó một trận động đất lớn xảy ra; một phần mười của thành phố bị sụp đổ, và bảy ngàn người bị chết vì trận động đất ấy; những người sống sót đều cực kỳ sợ hãi, và dâng vinh hiển lên Ðức Chúa Trời trên trời.

14 Cơn khốn thứ nhì đã qua; kìa, cơn khốn thứ ba sắp đến cách mau chóng.

Tiếng Kèn Thứ Bảy

15 Vị thiên sứ thứ bảy thổi kèn, có tiếng lớn trên trời nói rằng,

“Vương quốc của thế gian đã trở thành vương quốc của Chúa chúng ta và của Ðấng Christ của Ngài;
Ngài sẽ trị vì đời đời vô cùng.”

16 Bấy giờ hai mươi bốn vị trưởng lão đang ngồi trên ngai của họ trước mặt Ðức Chúa Trời liền quỳ sấp mặt xuống, thờ lạy Ðức Chúa Trời, 17 và nói,

“Chúng con cảm tạ Ngài,
Lạy Chúa là Ðức Chúa Trời Toàn Năng,
Ðấng Hiện Là và Ðấng Ðã Là;
Vì Ngài đã lấy quyền lực lớn lao của Ngài để trị vì.
18 Muôn dân nổi giận,
Nhưng cơn thịnh nộ của Ngài đã đến,
Thời điểm phán xét những kẻ chết đã đến,
Ðó là lúc ban thưởng cho các đầy tớ Ngài, các vị tiên tri, các thánh đồ, và những người kính sợ danh Ngài, cả nhỏ lẫn lớn,
Và tiêu diệt những kẻ phá hủy trái đất.”

19 Bấy giờ đền thờ Ðức Chúa Trời trên trời mở ra, rương giao ước của Ngài trong đền thờ Ngài được trông thấy; rồi sét chớp, âm vang, sấm nổ, động đất, và một trận mưa đá khủng khiếp xảy ra.

Người Phụ Nữ và Con Rồng

12 Bấy giờ một hiện tượng lớn lạ xảy ra trên trời: một phụ nữ mặc bằng mặt trời, mặt trăng ở dưới chân nàng, đầu nàng đội mão làm bằng mười hai ngôi sao. Người phụ nữ ấy mang thai; nàng kêu la vì chuyển bụng và đau đớn quặn thắt vì sắp sinh.

Khi ấy cũng có một hiện tượng lạ khác xảy ra trên trời: kìa, một Con Rồng lớn, màu đỏ, có bảy đầu và mười sừng; trên các đầu nó có bảy vương miện. Ðuôi nó quét sạch một phần ba các ngôi sao trên trời và quăng chúng xuống đất. Con Rồng đứng trước mặt người phụ nữ sắp sinh con, chực ăn nuốt đứa con do nàng sinh ra. Người phụ nữ sinh một con trai, là Ðấng sẽ chăn dắt muôn dân bằng cây gậy sắt; con trai của nàng được đoạt lấy đưa lên Ðức Chúa Trời và đến tận ngai của Ngài. Còn người phụ nữ thì trốn vào đồng hoang, nơi đó Ðức Chúa Trời đã chuẩn bị sẵn cho nàng một chỗ, để tại đó nàng được nuôi một ngàn hai trăm sáu mươi ngày.

Trận Chiến giữa Thiên Sứ Mi-chên và Con Rồng

Bấy giờ có một trận chiến ở trên trời, Mi-chên và các thiên sứ của ngài đánh nhau với Con Rồng. Con Rồng và các quỷ sứ của nó đánh lại; nhưng chúng bị đánh bại, và không còn tìm thấy chỗ nào trên trời cho chúng nữa. Con Rồng lớn bị ném xuống, đó là Con Rắn thời xưa, có tên là Ác Quỷ và Sa-tan, kẻ lừa dối dân cư trên khắp thế gian; nó bị ném xuống đất, và các quỷ sứ của nó cũng bị ném xuống chung với nó.

10 Bấy giờ tôi nghe một tiếng lớn trên trời nói rằng,

“Bây giờ ơn cứu rỗi, quyền lực, và vương quốc của Ðức Chúa Trời chúng ta,
Và quyền năng của Ðấng Christ của Ngài đã đến.
Vì Kẻ Tố Cáo anh chị em chúng ta đã bị ném xuống;
Nó là kẻ ngày đêm tố cáo họ trước mặt Ðức Chúa Trời chúng ta.
11 Nhưng họ đã chiến thắng nó, nhờ huyết của Chiên Con,
Và nhờ những lời làm chứng của họ;
Vì họ không tham sống sợ chết.
12 Vậy hỡi các từng trời và những ai ở trong đó, hãy vui mừng lên.
Nhưng khốn cho đất và biển,
Vì Ác Quỷ đã xuống chỗ của các ngươi, và nó vô cùng tức giận,
Vì nó biết thì giờ của nó không còn bao lâu nữa.”

Con Rồng Ðuổi Bắt Người Phụ Nữ

13 Khi Con Rồng thấy nó đã bị ném xuống đất, nó đuổi bắt người phụ nữ đã sinh đứa con trai. 14 Nhưng người phụ nữ được ban cho đôi cánh của chim đại bàng lớn, để nàng có thể bay vào đồng hoang, về chỗ ở của nàng, nơi nàng được nuôi một kỳ, các kỳ, và nửa kỳ, thoát khỏi Con Rắn. 15 Con Rắn phun nước trong miệng nó ra như một dòng sông, đuổi theo người phụ nữ, để dùng dòng nước lũ cuốn trôi nàng. 16 Nhưng trái đất giúp người phụ nữ; đất hả miệng nuốt dòng sông mà Con Rồng đã phun ra từ miệng nó. 17 Con Rồng rất tức giận người phụ nữ; nó đi gây chiến với con cái còn lại của nàng, đó là những người vâng giữ các điều răn của Ðức Chúa Trời và gìn giữ những lời chứng của Ðức Chúa Jesus.

18 Bấy giờ Con Rồng đứng trên bãi cát nơi bờ biển.

Footnotes

  1. Khải Huyền 9:10 nt: quyền năng
  2. Khải Huyền 9:11 nt: sứ giả, ctd: thiên sứ
  3. Khải Huyền 9:11 nghĩa là Sự Hủy Diệt
  4. Khải Huyền 9:11 nghĩa là Kẻ Hủy Diệt
  5. Khải Huyền 11:1 Có bản dịch là “những người thờ phượng”