Add parallel Print Page Options

Lời cầu nguyện của vua

Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca của Đa-vít.

20 Nguyện CHÚA đáp lời ngươi trong cơn nguy khốn.
    Nguyện Thượng Đế của Gia-cốp bảo vệ ngươi.
Nguyện Ngài sai ơn cứu giúp ngươi từ đền thánh Ngài,
    phù trợ ngươi từ núi Xi-ôn.
Nguyện Ngài nhớ lễ vật ngươi
    và chấp nhận sinh tế của ngươi. Xê-la
Nguyện Ngài ban cho ngươi điều lòng ngươi ước ao,
    và hoàn thành các dự định ngươi.
Chúng ta sẽ reo vui khi Ngài giúp đỡ ngươi,
    Chúng ta sẽ ca ngợi danh Ngài.
Nguyện Ngài ban cho ngươi điều ngươi cầu xin.

Nay ta biết CHÚA giúp đỡ vua
    là người được Ngài bổ nhiệm.
Từ trên trời thánh, Ngài sẽ trả lời người,
    và dùng tay phải mạnh mẽ giải cứu người.
Có người ỷ vào xe cộ, kẻ khác nhờ vào binh sĩ,
    nhưng chúng tôi nhờ cậy CHÚA là Thượng Đế chúng tôi.
Chúng bị vây phủ và bị đánh bại,
    nhưng chúng tôi cứ tiến tới và đắc thắng.

Lạy CHÚA, xin bảo vệ vua Ngài!
    Xin đáp lời kêu cứu của chúng tôi.

Lời cảm tạ vì vua

Soạn cho nhạc trưởng. Bài ca của Đa-vít.

21 Lạy CHÚA, vua vui mừng trong sức mạnh Ngài;
    vua hớn hở khi được Ngài cứu!
Ngài ban cho vua điều người ao ước
    và không từ chối điều gì người xin. Xê-la

Ngài đặt mọi điều tốt đẹp trước mặt người
    và đội mão triều bằng vàng trên đầu người.
Người xin được sống lâu, CHÚA liền ban cho,
    nên năm tháng người kéo dài vô tận.
Người được hiển vinh vì Ngài cho người sự đắc thắng.
    Ngài ban cho người vinh dự và lời ca tụng.
Ngài luôn ban phước cho người;
    Ngài khiến người vui mừng vì Ngài ở với người.
Vua thật tin cậy nơi CHÚA.
    Vì Thượng Đế Chí cao luôn yêu mến người
    cho nên người sẽ không dao động.
Tay CHÚA chống lại các kẻ thù nghịch mình;
    những kẻ ghét Ngài sẽ nếm biết quyền năng Ngài.
Khi Ngài xuất hiện,
    Ngài sẽ thiêu chúng trong lò lửa.
Đang cơn giận, Ngài sẽ thiêu đốt chúng trong lửa [a].
10 Ngài sẽ diệt gia đình chúng khỏi đất,
    và con cháu chúng cũng không còn.
11 Chúng âm mưu ác nghịch cùng Ngài,
    nhưng mưu mô chúng bất thành.
12 Ngài khiến chúng nó xoay lưng
    khi Ngài nhắm tên bắn chúng nó.

13 Lạy CHÚA, chúng tôi sẽ tôn cao Ngài bằng bài ca,
    Sẽ ca ngợi quyền năng cao cả của Ngài.

Lời cầu nguyện của kẻ đau khổ

Soạn cho nhạc trưởng theo điệu “Con nai bình minh.” Bài ca của Đa-vít.

22 Thượng Đế tôi ơi, Thượng Đế tôi ơi, sao Ngài lìa bỏ tôi?
Sao Ngài đứng xa, không cứu giúp tôi,
    không nghe tiếng tôi rên rỉ?
Lạy Thượng Đế tôi, ban ngày tôi kêu xin cùng Ngài,
    nhưng Ngài chẳng đáp lời,
    ban đêm cũng vậy, tôi có im lặng đâu.

Ngài là Đấng thánh đang ngự trị.
    Lời ca ngợi của Ít-ra-en là ngôi Ngài.
Tổ tiên chúng tôi tin cậy Ngài;
    Vì họ tin cậy Ngài cho nên Ngài cứu họ.
Họ kêu xin cùng CHÚA liền được giải cứu.
    Họ tin cậy Ngài nên không thất vọng.
Nhưng tôi là loài sâu bọ chứ không phải con người.
    Ai cũng khinh chê và ganh ghét tôi.
Ai thấy tôi đều chê cười.
    Chúng trề môi, lắc đầu.
Chúng giễu, “Hãy kêu CHÚA cứu giúp đi.
Có thể Ngài sẽ cứu ngươi.
    Nếu Ngài thích ngươi, Ngài sẽ giải cứu ngươi!”

Ngài để mẹ tôi sinh ra tôi.
    Khi tôi còn là hài nhi Ngài khiến tôi tin cậy Ngài.
10 Từ khi mới chào đời tôi đã nương cậy nơi CHÚA,
    Ngài đã là Thượng Đế tôi từ khi tôi lọt lòng mẹ.

11 Cho nên Thượng Đế ôi, xin đừng đứng xa tôi.
    Nay cơn khốn khó gần kề, không ai cứu giúp.
12 Người ta vây tôi đông như bò đực hung tợn.
    Chúng vây kín tôi bốn phía,
    như bò đực cường bạo của Ba-san.
13 Chúng hả miệng chực ăn nuốt tôi
    như sư tử đói gầm thét.

14 Sức lực tôi tiêu tan như nước đổ xuống đất.
    Xương cốt tôi rời rã.
Tinh thần tôi như sáp,
    tan chảy trong lòng tôi.
15 Sức lực tôi khô cằn như bình thợ gốm,
    lưỡi tôi dính nơi vòm họng.
Ngài để tôi nằm trong bụi đất của sự chết.
16 Kẻ ác vây tôi; chúng đánh bẫy tôi như lũ chó.
    Chúng cắn xé tay và chân tôi [b].
17 Tôi có thể đếm được các xương cốt tôi;
    mọi người nhìn chăm vào tôi.
18 Chúng chia nhau áo xống tôi,
    và bắt thăm lấy quần áo tôi.

19 Nhưng CHÚA ôi, xin chớ đứng xa tôi.
    Ngài là sức lực tôi.
    Xin hãy mau đến cứu giúp tôi.
20 Xin hãy cứu tôi khỏi lưỡi gươm;
    và cứu mạng tôi khỏi loài chó.
21 Xin hãy cứu tôi khỏi hàm sư tử;
    và khỏi sừng bò đực [c].

22 Rồi tôi sẽ thuật về CHÚA
    cho đồng bào Ít-ra-en của tôi;
    tôi sẽ ca ngợi Ngài trong buổi họp công cộng.
23 Tất cả những ai kính sợ CHÚA,
    hãy ca ngợi Ngài.
Các con cháu Gia-cốp ơi,
    hãy tôn trọng Ngài;
    Toàn dân Ít-ra-en, hãy kính sợ Ngài.
24 Ngài không bỏ quên kẻ lâm cảnh khổ.
Ngài không lánh mặt khỏi họ
    nhưng nghe tiếng kêu xin của họ.

25 Lạy CHÚA, tôi ca ngợi Ngài giữa hội lớn của dân CHÚA;
    những kẻ thờ phụng Ngài sẽ thấy tôi thực hiện lời hứa.
26 Nầy kẻ nghèo, hãy đến và ăn no nê [d];
    những ai trông đợi CHÚA sẽ ca ngợi Ngài.
Nguyện lòng các ngươi vui mừng [e] mãi mãi!
27 Dân chúng khắp nơi sẽ nhớ và quay về cùng Ngài.
    Mọi gia tộc trên thế gian
    sẽ thờ phụng Ngài;
28 vì CHÚA là Vua, Ngài cai quản mọi quốc gia.
29 Dân chúng đã ăn no nê,
    rồi cúi xuống thờ phụng Ngài.
Thật vậy, mọi người sẽ cúi mình trước mặt Ngài—
    tất cả những người sẽ qua đời.
30 Những kẻ hậu sinh sẽ phục vụ Ngài;
    Thế hệ mai sau sẽ nghe biết CHÚA.
31 Chúng sẽ rao ra rằng Ngài làm điều công chính;
    Những kẻ sắp chào đời sẽ nghe biết những điều Thượng Đế đã làm.

Footnotes

  1. Thánh Thi 21:9 Khi Ngài … trong lửa Hay “Ngài sẽ khiến vua như lò lửa cháy khi Ngài đến giúp vua. Và trong cơn giận Ngài, CHÚA sẽ tuyệt diệt chúng.”
  2. Thánh Thi 22:16 Chúng cắn xé tay và chân tôi Hay “Chúng đâm thủng tay và chân tôi.”
  3. Thánh Thi 22:21 hãy cứu tôi … khỏi sừng bò đực Hay “Ngài đã trả lời tôi và bảo vệ tôi khỏi sừng bò đực.” Đây có thể là lời cầu cứu (như nửa phần đầu của chương nầy) và là câu xác nhận rằng Thượng Đế đã trả lời cho tác giả (như nửa phần sau của chương).
  4. Thánh Thi 22:26 hãy đến và ăn no nê Tác giả dâng lên của lễ cảm tạ mà nhiều khác người cùng tham dự ở đền thờ. Đó là cách người ta san sẻ niềm vui khi Thượng Đế ban phúc cho họ. Xem Lê-vi 3:1-5 và Phục 14:22-29.
  5. Thánh Thi 22:26 vui mừng Nguyên văn, “sống.”