Add parallel Print Page Options

Lời kêu xin cứu giúp

Lời cầu nguyện của người đang khốn khổ khi người yếu đuối và bày tỏ lòng buồn bực cùng Chúa.

102 Lạy Chúa, xin nghe lời cầu nguyện tôi;
    nguyện lời kêu xin của tôi lên đến Ngài.
Xin đừng lánh mặt trong khi tôi gặp khốn khó.
    Xin hãy lưu ý đến tôi.
Khi tôi kêu cầu, xin Ngài nghe tiếng tôi.
Đời tôi tan đi như mây khói,
    xương cốt tôi cháy như than đỏ.
Lòng tôi như cỏ bị cắt và phơi khô.
    Tôi quên cả ăn.
Vì quá sầu khổ,
    tôi chỉ còn da bọc xương.
Tôi như chim cú trong sa mạc,
    như chim cú sống trong các nơi đổ nát.
Tôi nằm thao thức.
    Tôi giống như chim lẻ bạn đậu trên mái nhà.
Suốt ngày kẻ thù sỉ nhục tôi;
    những kẻ chế giễu tôi nguyền rủa tôi [a].
Thức ăn của tôi là điều buồn bã,
    nước mắt là thức uống.
10 Trong cơn giận,
    Chúa đã túm bắt và ném tôi
    thật xa.

11 Những ngày tháng của tôi sắp qua đi như bóng câu;
    Tôi héo như cỏ.
12 Nhưng Chúa ôi, Ngài cai trị muôn đời,
    uy danh Ngài còn đời nầy qua đời kia.
13 Ngài sẽ đến và thương xót Giê-ru-sa-lem,
    đã đến lúc Ngài tỏ lòng nhân từ cùng thành ấy;
    nay chính là thời điểm đó.
14 Các kẻ tôi tớ Chúa yêu thích
    các tảng đá của thành ấy,
    cả đến bụi bặm của nó nữa.
15 Các dân sẽ kính sợ danh Chúa,
    các vua trên đất sẽ tôn trọng Ngài.
16 Chúa sẽ xây lại Giê-ru-sa-lem;
    người ta sẽ nhìn thấy vinh hiển Ngài ở đó.
17 Ngài sẽ đáp lời cầu nguyện
    của kẻ khốn cùng,
    và không từ chối lời khẩn cầu
    của họ.
18 Hãy viết những điều nầy để thế hệ mai sau ca ngợi Chúa.
19 Từ nơi thánh Ngài trên cao Chúa trông xuống;
    từ thiên đàng Ngài nhìn xuống đất.
20 Ngài nghe tiếng than vãn của các tù nhân,
    Ngài giải thoát những kẻ bị kêu án tử hình.
21 Để người ta sẽ rao truyền danh Chúa tại Giê-ru-sa-lem;
    lời ca ngợi Ngài sẽ được nghe
    ở đó.
22 Các dân sẽ cùng họp nhau,
    các nước sẽ phục vụ Ngài.

23 Chúa khiến tôi chán sống;
    Ngài đã cắt ngắn đời tôi.
24 Cho nên tôi thưa, “Lạy Chúa tôi ôi,
    xin đừng cất mạng tôi nửa chừng.
Các năm Chúa còn mãi mãi.
25 Thuở xưa Chúa dựng nên trái đất,
    bàn tay Ngài làm ra các bầu trời.
26 Trời đất sẽ tiêu tan,
    nhưng Chúa sẽ tồn tại mãi.
Trời đất sẽ mòn cũ như áo quần,
    Ngài sẽ thay và ném bỏ chúng đi như quần áo.
27 Nhưng Chúa không bao giờ thay đổi,
    các năm tháng CHÚA không hề chấm dứt.
28 Con cái chúng tôi sẽ sống trong sự hiện diện của Ngài,
    và cháu chắt chúng tôi sẽ được bình an trước mặt Ngài.”

Ca ngợi Chúa của tình yêu

Bài ca của Đa-vít.

103 Linh hồn ta ơi, hãy ca ngợi Chúa;
    toàn thân ta ơi, hãy ca tụng danh thánh Ngài.
Linh hồn ta ơi, hãy ca ngợi Chúa,
    đừng quên sự nhân từ Ngài.
Ngài tha thứ mọi tội lỗi tôi,
    chữa lành mọi bệnh tật tôi.
Ngài cứu tôi khỏi mồ mả,
    Ngài lấy tình yêu và lòng thương xót làm mão triều đội cho tôi.
Ngài ban cho tôi mọi điều tốt lành,
    và làm tôi trẻ lại như chim phượng hoàng.
Chúa làm điều phải lẽ và công bằng cho những kẻ bị ức hiếp.
Ngài cho Mô-se biết đường lối Ngài
    và cho Ít-ra-en biết việc làm của Ngài.
Chúa đầy lòng thương xót
    và nhân từ.
    Ngài chậm giận, giàu tình yêu.
Không phải lúc nào Ngài cũng luôn luôn bắt tội chúng ta,
    Ngài không căm giận mãi.
10 Chúa không trừng phạt chúng tôi xứng với tội lỗi chúng tôi;
    không báo trả chúng tôi đáng với sự gian ác chúng tôi.
11 Hễ các từng trời cao hơn đất bao nhiêu,
    thì tình yêu Ngài dành cho kẻ kính sợ Ngài cũng lớn bấy nhiêu.
12 Phương đông xa phương tây bao nhiêu,
    thì Ngài cũng mang tội lỗi xa khỏi chúng tôi bấy nhiêu.
13 Chúa tỏ lòng nhân từ đối cùng những ai kính sợ Ngài,
    như cha tỏ lòng nhân từ
    cùng con cái mình.
14 Ngài biết chúng tôi được tạo nên như thế nào;
    Ngài nhớ rằng chúng tôi chỉ là bụi đất.
15 Đời người giống như cỏ;
    Nó trổ hoa trong đồng.
16 Gió thổi, hoa bay mất,
    không còn để lại dấu tích.
17 Nhưng tình yêu Chúa dành cho những kẻ kính sợ Ngài còn đời đời,
    và lòng nhân từ Ngài kéo dài đến con cháu họ
18 là những người giữ giao ước Ngài
    và vâng theo mệnh lệnh Ngài.
19 Chúa đặt ngôi Ngài trên trời,
    nước Ngài quản trị mọi loài.
20 Hỡi các thiên sứ Ngài, hãy ca ngợi Ngài.
Các ngươi là những chiến sĩ
    bạo dạn,
    làm theo lời phán và vâng theo mệnh lệnh Ngài.
21 Hỡi các đoàn quân của Chúa [b] là các tôi tớ Chúa
    làm theo ý muốn Chúa,
    hãy ca ngợi Ngài;
Các ngươi là tôi tớ Chúa,
    hãy làm theo ý muốn Ngài.
22 Mọi vật Chúa dựng nên hãy ca ngợi Ngài
    bất cứ chỗ nào Ngài cai trị.
Linh hồn ta ơi, hãy ca ngợi Chúa.

Ca ngợi Thượng Đế, Đấng Tạo Hóa

104 Linh hồn ta ơi, hãy ca ngợi Chúa.
    Lạy Chúa là Thượng Đế, Ngài rất cao cả.
Ngài mặc vinh hiển và oai nghi;
áo Ngài là ánh sáng.
    Ngài giăng bầu trời ra như cái lều.
Xây phòng Ngài trên các đám mây [c].
    Ngài dùng mây làm xe,
    và lượn trên cánh gió.
Ngài dùng gió làm sứ giả mình,
    ngọn lửa làm tôi tớ mình.
Chúa xây trái đất trên nền nó,
    nó sẽ không bị di động.
Ngài phủ trái đất như chiếc áo;
    nước dâng ngập các ngọn núi cao.
Nhưng khi Chúa ra lệnh,
    nó liền hạ xuống.
    Khi Ngài gầm thét, nó vội vàng trôi mất.
Nước chảy qua núi non; rồi xuống thung lũng,
    đến nơi Ngài định cho nó.
Ngài đặt ranh giới biển, không cho nó vượt qua,
    để nước không còn làm ngập lụt đất nữa.

10 Ngài khiến suối đổ vào các sông ngòi;
    chúng chảy giữa các núi non.
11 Suối cấp thức uống cho muông thú;
    các lừa hoang đến đó uống nước.
12 Chim muông làm tổ gần nước;
    hót thánh thót giữa các cành cây.
13 Từ trời Ngài tưới các núi non.
    Đất đầy dẫy những thành quả của công trình Ngài.
14 Ngài khiến cỏ mọc lên cho súc vật,
    và rau cỏ cho con người.
Ngài khiến đất sinh ra thực phẩm.
15 Ngài cho chúng tôi rượu ngon khiến chúng tôi vui vẻ,
    và dầu ô liu làm mặt chúng tôi sáng rỡ.
Ngài ban bánh mì để chúng tôi thêm sức.

16 Cây cối của Chúa được tưới đầy đủ;
    đó là các cây hương nam
    của Li-băng mà Ngài đã trồng.
17 Chim trời làm tổ trên đó;
    con cò xây tổ trong các nhành thông.
18 Núi cao là lãnh thổ của dê rừng.
    Các khe đá là nơi trú ẩn của con rái đồng [d].

19 Ngài dùng mặt trăng để định ngày tháng,
    mặt trời luôn biết giờ lặn.
20 Chúa khiến nó tối lại, thì hóa ra đêm.
    Bấy giờ các thú rừng đi ra.
21 Sư tử gầm thét khi kiếm mồi.
    Chúng trông đợi Thượng Đế ban thức ăn.
22 Khi mặt trời mọc lên,
    chúng trở về hang động để nghỉ ngơi.
23 Rồi con người đi ra làm việc, mãi đến chiều tà.

24 Lạy Chúa, Ngài đã làm thật nhiều điều;
    nhờ sự khôn ngoan Ngài dựng nên tất cả mọi thứ.
Đất đầy dẫy các vật mà Ngài
    tạo nên.
25 Hãy nhìn đại dương to rộng,
    cùng vô số sinh vật lớn nhỏ sống trong đó.
26 Tàu bè đi lại trên biển,
    cũng có Lê-vi-a-than [e] mà Ngài khiến nô đùa trong đó.

27 Tất cả đều trông đợi Ngài ban thức ăn theo giờ.
28 Khi Ngài ban thức ăn thì chúng nhận lấy.
    Khi Ngài xoè tay ra, chúng được no nê thức ăn ngon.
29 Khi Ngài quay đi, chúng đâm ra hoảng sợ.
Ngài lấy hơi thở [f] chúng,
    chúng dãy chết và trở về bụi đất.
30 Khi Ngài hà hơi sống trên chúng,
    chúng được dựng nên,
Ngài làm đất trở nên mới.
31 Nguyện vinh hiển của Chúa còn mãi mãi.
Nguyện Chúa vui hưởng điều Ngài sáng tạo.
32 Ngài nhìn đất, đất liền rung chuyển,
Ngài sờ vào núi, núi liền bốc khói.

33 Tôi sẽ hát xướng cho Chúa suốt đời tôi;
Tôi còn sống bao lâu,
    thì tôi sẽ ca ngợi Thượng Đế tôi bấy lâu.
34 Nguyện tư tưởng tôi đẹp lòng Ngài;
    Tôi vui mừng trong Chúa.
35 Nguyện tội nhân bị diệt khỏi đất,
    nguyện kẻ ác không còn tồn tại.
Linh hồn ta ơi, hãy ca ngợi Chúa.

Hãy ca ngợi Chúa.

Footnotes

  1. Thánh Thi 102:8 nguyền rủa tôi Hay “dùng tên tôi để nguyền rủa.”
  2. Thánh Thi 103:21 đoàn quân của Chúa Đây có thể nghĩa là “các đạo quân,” “các thiên sứ” hay “các tinh tú trên trời.” Từ ngữ nầy là một phần của danh từ “CHÚA Vạn quân” hay “Thượng Đế Toàn Năng,” nghĩa là Ngài kiểm soát tất cả các thế lực trong vũ trụ.
  3. Thánh Thi 104:3 đám mây Hay “trên bầu trời.”
  4. Thánh Thi 104:18 rái đồng Đây là một loại động vật ăn cỏ, lớn cỡ con thỏ nhà, sống trong các kẽ đá.
  5. Thánh Thi 104:26 Lê-vi-a-than Quái vật ở biển, có thể là con cá sấu hay cá voi. Nói chung là “quái vật ở biển.” Thỉnh thoảng còn gọi là “con Rồng” hay “Ra-háp.” Con vật nầy tiêu biểu cho quyền lực ở biển, nhưng Thượng Đế kiểm soát nó.
  6. Thánh Thi 104:29 hơi thở Hay “thần linh.”

Lời Cầu Xin Giữa Cơn Hoạn Nạn

Lời cầu nguyện của người gặp khốn khó.

Trong lúc ngã lòng người ấy dốc đổ lòng mình kêu van trước mặt CHÚA

Chúa ôi, xin lắng nghe lời cầu nguyện của con;
Nguyện tiếng kêu cứu của con thấu đến tai Ngài.
Xin đừng ẩn mặt Ngài khỏi con trong ngày con gặp hoạn nạn;
Xin nghiêng tai nghe tiếng con đang khẩn thiết kêu cầu;
Trong ngày con cầu khẩn xin Ngài mau nhậm lời con;
Vì những ngày của đời con đang tan đi như mây khói,
Các xương cốt con như đang bị nung đốt giữa lò lửa hừng.
Lòng con như cỏ xanh bị giập nát và đang héo hon tàn tạ;
Thân thể con chẳng còn màng đến việc ăn uống chút nào.
Vì tiếng rên rỉ của con,
Thân thể con giờ đây chỉ còn da bọc xương.
Con như con bồ nông trong đồng không mông quạnh;
Con như con cú mèo đơn độc giữa đồng hoang.
Con nằm đây thao thức suốt đêm thâu;
Con như con chim sẻ đơn độc trên mái nhà.
Những kẻ thù ghét con cứ sỉ nhục con suốt ngày;
Những kẻ nhạo báng con đã lấy tên con ra nguyền rủa.
Thật vậy con như kẻ ăn tro thay cho cơm bánh,
Nước uống của con hòa lẫn với nước mắt của con,
10 Bởi vì con đã bị Ngài giận và giáng cơn thịnh nộ,
Bởi vì Ngài đã nhấc con lên và quăng con ra ngoài.
11 Những ngày của đời con như chiếc bóng ngã dài;
Con đang bị héo khô như cỏ dại.
12 Còn Ngài, Chúa ôi, Ngài sẽ ngự trị mãi mãi;
Danh Ngài sẽ được truyền tụng từ đời nọ đến đời kia.

13 Cầu xin Ngài trỗi dậy và tỏ lòng thương xót đối với Si-ôn,
Vì thời điểm ban ơn cho nó đã đến,
Phải, thời điểm của nó đến rồi.
14 Các tôi tớ Ngài quý mến từng viên đá của nó;
Thậm chí đến bụi đất của nó cũng làm cho họ xúc động.

15 Các nước sẽ kính sợ danh Chúa;
Tất cả các vua chúa thế gian sẽ kính trọng vinh hiển Ngài;
16 Chúa sẽ xây dựng lại Si-ôn,
Và Ngài sẽ hiện ra trong vinh quang Ngài.
17 Ngài sẽ nghe lời cầu nguyện của những người cùng khốn;
Và không khinh dể lời cầu khẩn của họ bao giờ.

18 Ước gì điều ấy sẽ được ghi lại cho thế hệ đến sau,
Ðể những người chưa sinh ra sẽ ca ngợi Chúa,
19 Vì từ nơi thánh trên cao Ngài nhìn xuống;
Từ trời cao Chúa nhìn xuống thế gian,
20 Ðể lắng nghe tiếng rên xiết của những kẻ bị tù đày,
Ðể giải thoát những người bị mang án chết.
21 Bấy giờ người ta sẽ công bố danh Chúa ở Si-ôn,
Và ca ngợi Ngài tại Giê-ru-sa-lem,
22 Mỗi khi các dân cùng nhau nhóm lại,
Tức khi các quốc gia họp nhau để thờ phượng Chúa.

23 Ngài đã làm cho sức lực của tôi ra yếu đuối;
Ngài đã rút ngắn tuổi thọ của đời tôi.
24 Vì thế tôi thưa rằng, “Ðức Chúa Trời của con ôi,
Xin đừng cất mạng sống con giữa số ngày của đời con;
Những năm của Ngài trải qua mọi thế hệ.”

25 Thuở xưa Ngài đã lập nền trái đất;
Các tầng trời là công việc của tay Ngài.
26 Trời đất sẽ tiêu tan nhưng Ngài sẽ còn mãi mãi;
Phải, tất cả chúng sẽ cũ đi như chiếc áo;
Ngài sẽ thay đổi chúng như người ta thay đổi y phục,
Và chúng sẽ bị đổi thay;
27 Nhưng Ngài vẫn y nguyên;
Các năm của Ngài sẽ không bao giờ cùng.
28 Con cháu của các tôi tớ Ngài sẽ tiếp tục lưu truyền nòi giống;
Rồi dòng dõi chúng sẽ được vững lập trước mặt Ngài.

Ca Ngợi Lòng Tốt của CHÚA

Thơ của Ða-vít

Hỡi linh hồn ta, hãy ca ngợi Chúa;
Hỡi tất cả những gì ở trong ta, hãy ca tụng danh thánh của Ngài.
Hỡi linh hồn ta, hãy ca ngợi Chúa,
Chớ quên mọi phước hạnh của Ngài,
Ðấng tha thứ mọi tội lỗi ngươi;
Ðấng chữa lành mọi bịnh tật ngươi;
Ðấng cứu chuộc mạng sống ngươi thoát khỏi mộ phần;
Ðấng đội trên đầu ngươi tình thương và lòng thương xót;
Ðấng cho ngươi no thỏa với thức ăn ngon,
Nhờ đó sức lực ngươi trẻ lại như sức của phượng hoàng.

Chúa thi hành sự công chính
Và công lý cho mọi người bị áp bức.
Ngài bày tỏ cho Môi-se các đường lối Ngài,
Cho dân I-sơ-ra-ên các công việc Ngài.
Chúa hay thương xót và khoan dung độ lượng,
Chậm nóng giận và đầy dẫy tình thương.
Ngài không bắt tội luôn luôn;
Ngài cũng chẳng giữ lòng giận đến đời đời.
10 Ngài không đối xử với chúng ta theo các tội của chúng ta;
Ngài cũng không báo trả chúng ta theo các lỗi của chúng ta.
11 Vì các tầng trời cao hơn đất bao nhiêu,
Tình thương của Ngài đối với những người kính sợ Ngài cũng cao lớn bấy nhiêu.
12 Phương đông xa cách phương tây bao nhiêu,
Ngài đem những vi phạm của chúng ta xa khỏi chúng ta cũng bấy nhiêu.
13 Như người cha thương xót các con mình thể nào,
Chúa thương xót những người kính sợ Ngài cũng thể ấy.
14 Vì Ngài biết rõ chúng ta được dựng nên bằng những gì;
Ngài nhớ lại rằng chúng ta là bụi đất.

15 Về loài người, đời người như ngọn cỏ;
Nó thắm tươi như hoa dại ngoài đồng.
16 Một cơn gió thổi qua, kìa, nó chẳng còn;
Chỗ nó mọc lên cũng không còn biết nó nữa.
17 Nhưng tình thương của Chúa thì còn mãi mãi cho những người kính sợ Ngài,
Và đức công chính Ngài dành cho con cháu chắt chít họ,
18 Tức cho những người giữ giao ước Ngài,
Và cho những người nhớ đến các điều răn Ngài mà làm theo.

19 Chúa thiết lập ngai Ngài trên các tầng trời;
Vương quyền Ngài bao trùm cả vũ trụ.

20 Hãy ca ngợi Chúa, hỡi các thiên sứ của Ngài,
Tức những đấng dũng mãnh siêu phàm,
Những đấng thi hành mệnh lệnh Ngài,
Những đấng vâng theo lời Ngài!
21 Hãy ca ngợi Chúa, hỡi tất cả các đạo quân của Ngài,
Tức các đấng phục vụ Ngài và làm theo thánh ý Ngài.
22 Hãy ca ngợi Chúa, hỡi tất cả các tạo vật của Ngài,
Ở mọi nơi dưới quyền trị vì của Ngài!
Hãy ca ngợi Chúa, hỡi linh hồn ta!
Hãy ca ngợi Chúa, hỡi linh hồn ta!
Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của con, Ngài thật vĩ đại thay!
Ngài mặc bằng sự huy hoàng và sự uy nghi.
Ngài bao phủ mình bằng ánh sáng như chiếc áo choàng;
Ngài giăng các tầng trời ra như căng một cái trại.
Ngài đặt các đà ngang cho các thiên cung của Ngài trên nước;
Ngài dùng mây làm xa giá;
Ngài bước đi trên cánh gió;
Ngài dùng gió làm các sứ giả Ngài,
Lửa hừng làm bầy tôi hầu hạ Ngài.

Ngài đặt trái đất trên nền của nó,
Ðể đến đời đời nó chẳng chuyển lay.
Ngài bao phủ đất bằng biển sâu như phủ một chiếc áo;
Các nguồn nước lại đứng trên các ngọn núi cao.
Khi Ngài quở trách, chúng thất kinh chạy trốn;
Nghe tiếng sấm sét của Ngài, chúng vụt chạy cho xa.
Núi đồi trồi lên, thung lũng sụp xuống,
Ðúng vào nơi Ngài định cho chúng.
Ngài định giới hạn để nước không thể vượt qua,
Hầu không được phủ ngập mặt đất nữa.

10 Trong các thung lũng Ngài ban các dòng nước ngọt;
Chúng lượn quanh tuôn chảy giữa núi đồi;
11 Chúng cung cấp thức uống cho mọi sinh vật trong đồng;
Nhờ chúng những lừa rừng được thỏa mãn cơn khát.
12 Bên cạnh chúng chim trời làm tổ,
Cất tiếng hót ca giữa các cành cây.
13 Từ thiên cung Ngài đổ nước xuống tưới các núi rừng;
Trái đất được no nê nhờ bông trái của công việc Ngài.

14 Ngài khiến cỏ xanh mọc lên cho súc vật,
Và rau trái sinh ra để phục vụ loài người;
Từ ruộng đất người ta có thể đem về cho mình thực phẩm,
15 Rồi chế thành rượu để uống cho lòng vui vẻ,
Chế thành dầu để xức cho mặt mày tươi sáng,
Và làm cơm bánh để ăn cho vững mạnh lòng người.
16 Những cây cối của Chúa đều được nước uống no nê,
Kể cả những cây bá hương Ngài đã trồng ở Li-băng,
17 Cùng những cây cối khác, nơi các chim trời làm tổ,
Luôn cả những cây bách, nơi chim hạc chọn làm nhà.

18 Ngài dựng nên những núi cao cho các dê rừng làm chỗ ở;
Các gành đá cheo leo cho các chuột núi nương thân.
19 Ngài dựng nên mặt trăng để ấn định các mùa;
Còn mặt trời tự biết khi nào lặn xuống.
20 Ngài dựng nên bóng tối, và nó trở thành ban đêm;
Ấy là khi các thú rừng đi ra săn mồi.
21 Các sư tử tơ gầm rống tìm mồi,
Và tìm kiếm thức ăn từ Ðức Chúa Trời.
22 Ðến khi mặt trời mọc lên chúng lại rút về,
Và nằm xuống trong hang.
23 Người ta đi ra làm việc,
Và làm lụng cho đến hoàng hôn.

24 Chúa ôi, công việc của Ngài thật nhiều thay!
Ngài đã dựng nên tất cả bằng sự khôn ngoan của Ngài;
Trái đất đầy dẫy muôn vật do Ngài dựng nên.
25 Kìa là đại dương sâu rộng mênh mông,
Trong đó chứa nhung nhúc biết bao sinh vật;
Thật là vô sốsinh vật lớn và nhỏ.
26 Rồi cũng có các ghe thuyền tàu bè qua lại,
Và con quái vật[a] Ngài đã dựng nên đùa chơi trong đó.

27 Tất cả đều trông chờ nơi Ngài,
Ðể Ngài ban cho chúng vật thực phải thì.
28 Khi Ngài cho ăn, chúng liền tụ lại;
Khi Ngài sè tay ra, chúng được ăn uống no nê.
29 Khi Ngài ẩn mặt, chúng hoảng kinh bối rối;
Khi Ngài lấy hơi thở chúng đi, chúng liền chết và trở về cát bụi.
30 Khi Ngài ban Thần Khí Ngài ra, chúng được dựng nên,
Và Ngài làm cho mặt đất mới lại.

31 Nguyện vinh hiển của Chúa còn đến đời đời.
Nguyện Chúa vui thích về các công việc Ngài.
32 Ngài nhìn vào trái đất, nó run lên lẩy bẩy;
Ngài đụng đến núi non, chúng bốc khói mịt mù.

33 Hễ tôi còn sống bao lâu, tôi sẽ ca tụng Chúa bấy lâu;
Hễ tôi còn sống chừng nào, tôi sẽ ca ngợi Ðức Chúa Trời tôi chừng nấy.
34 Nguyện những suy nghĩ của tôi được đẹp lòng Ngài;
Về phần tôi, tôi sẽ cứ vui mừng trong Chúa.
35 Nguyện những kẻ tội lỗi bị diệt trừ khỏi mặt đất;
Nguyện những kẻ ác không còn nữa.

Hãy chúc tụng Chúa, hỡi linh hồn ta,
Hãy ca ngợi Chúa!

Footnotes

  1. Thánh Thi 104:26 nt: leviathan; ctd: con rồng