Add parallel Print Page Options

Luật lệ về vệ sinh

CHÚA bảo Mô-se, “Hãy ra lệnh cho dân Ít-ra-en đuổi khỏi doanh trại những ai mắc bệnh ngoài da có hại [a]. Hãy đuổi những ai bị ra máu mủ hay bị ô dơ vì đụng vào xác chết. Đuổi đàn ông lẫn đàn bà ô dơ ra khỏi doanh trại, vì đó là nơi ta ở với các ngươi.”

Vậy dân Ít-ra-en vâng lời CHÚA, đuổi những người đó ra khỏi doanh trại. Họ làm theo như CHÚA dặn Mô-se.

Chuộc lỗi lầm

CHÚA bảo Mô-se, “Hãy bảo dân Ít-ra-en: Khi ai phạm lỗi cùng người khác, tức là phạm tội cùng CHÚA. Đó là người có tội. Người ấy phải xưng nhận lỗi lầm đã làm. Người đó phải đền bù đầy đủ lầm lỗi mình, cộng thêm một phần năm và trao vật đền bù đó cho bên bị thiệt hại. Nhưng nếu bên kia qua đời mà không có thân nhân gần để nhận vật bồi thường, thì người phạm lỗi xem như mắc nợ CHÚA và phải trả cho thầy tế lễ. Ngoài ra, thầy tế lễ phải dâng một con chiên đực, dùng để chuộc lỗi cho người ấy.

Khi một người Ít-ra-en mang lễ vật thánh đến cho thầy tế lễ, thì món ấy sẽ thuộc về thầy tế lễ. 10 Không ai buộc phải mang đến lễ vật thánh, nhưng nếu ai mang đến thì món ấy thuộc về thầy tế lễ.”

Khi chồng tình nghi vợ

11 Sau đó CHÚA bảo Mô-se, 12 “Hãy bảo dân Ít-ra-en: Khi một người vợ làm chuyện bất chính, 13 ngoại tình với người đàn ông khác, mà giấu kín được chuyện bậy bạ đó, và người chồng không hay biết, thì nàng có thể không bị bắt vì không ai thấy. 14 Nhưng nếu người chồng tỏ dấu ghen tương và nghi vợ mình ngoại tình, thì dù đúng hay sai đi nữa, 15 người chồng phải đưa nàng đến thầy tế lễ. Anh ta phải mang theo hai lít [b] bột lúa mạch để làm của lễ cho nàng. Không được đổ dầu hay trầm hương lên bột vì đó là của lễ chay vì ghen tương, một của lễ tưởng nhớ dùng để xem nàng có tội hay không.

16 Thầy tế lễ sẽ đưa nàng vào bắt đứng trước mặt CHÚA. 17 Thầy tế lễ sẽ lấy một ít nước thánh trong lu đất rồi lấy ít đất của nền Lều Thánh bỏ vào nước. 18 Thầy tế lễ sẽ bảo nàng đứng trước mặt CHÚA rồi xõa tóc nàng ra. Ông sẽ trao cho nàng của lễ tưởng nhớ tức của lễ chay vì ghen tương; ông sẽ cầm nước đắng mang nguyền rủa.

19 Thầy tế lễ sẽ bảo nàng thề và hỏi rằng, ‘Có người đàn ông nào ngoại tình với chị không? Chị có làm chuyện bất chính đối với chồng chị không? Nếu không thì nước đắng mang nguyền rủa nầy sẽ không làm hại chị. 20 Nhưng nếu chị đã làm chuyện bất chính đối với chồng, đã dan díu với một người đàn ông khác ngoài chồng mình, 21 thì sự nguyền rủa mà lời thề mang lại sẽ đặt trên thân thể chị. CHÚA sẽ khiến dân chúng nguyền rủa và từ bỏ chị.

Ngài sẽ làm cho bụng chị phình ra và Ngài sẽ khiến chị không sinh sản được. 22 Nước đắng mang nguyền rủa nầy sẽ vào bụng chị khiến thân thể chị không sinh sản được nữa.’ Người đàn bà phải nói, ‘Tôi đồng ý.’

23 Thầy tế lễ sẽ viết những lời nguyền rủa nầy trên một cuộn giấy, rửa các lời đó trong nước đắng, 24 rồi bảo người đàn bà uống nước đắng mang nguyền rủa đó để khiến nàng mắc bệnh.

25 Rồi thầy tế lễ sẽ lấy của lễ chay vì ghen tương khỏi tay nàng. Ông sẽ dâng của lễ đó trước mặt CHÚA và mang nó đến bàn thờ. 26 Sau đó ông sẽ lấy một nắm lúa tức là của lễ tưởng nhớ, thiêu trên bàn thờ. Sau đó ông sẽ bảo người đàn bà uống nước đắng 27 để xem thử nàng có vô tội hay đã phạm tội với chồng mình. Sau khi nước đắng vào thân thể nàng, nếu bụng nàng phình lên và không thể sinh sản được thì dân chúng sẽ từ bỏ nàng [c]. 28 Nhưng nếu nàng không phạm tội, nàng sẽ trong sạch. Nàng không có lỗi gì và sẽ có thể sinh con được.

29 Trên đây là những huấn lệnh về sự ghen tương. Phải làm cách đó để xem người đàn bà có làm bậy và bất chính trong khi còn kết hôn với chồng mình không. 30 Hãy dùng cách đó khi người đàn ông ghen tương và ngờ vực vợ mình. Thầy tế lễ sẽ bảo nàng đứng trước mặt CHÚA và làm tất cả mọi điều theo như huấn lệnh. 31 Làm như thế để xem người chồng đúng hay sai và để cho người vợ lãnh hậu quả nếu nàng thực có làm bậy.”

Luật về người Na-xi-rê

CHÚA bảo Mô-se, “Hãy bảo dân Ít-ra-en: Nếu ai muốn hứa nguyện thuộc về CHÚA theo một cách riêng, thì những người đó được gọi là người Na-xi-rê. Trong thời gian đó, họ không được uống rượu hay đồ uống say [d], hoặc giấm làm từ rượu hay đồ uống làm cho say. Họ cũng không được uống nước nho, không được ăn nho tươi hay khô nữa. Trong khi làm người Na-xi-rê, họ không được ăn món gì làm từ nho, dù là hột hay vỏ.

Trong thời gian họ hứa nguyện thuộc về CHÚA, họ không được cắt tóc. Họ phải giữ mình cho thánh cho đến khi thời gian đặc biệt đã qua. Họ phải để tóc mọc dài.

Trong thời gian đặc biệt thuộc về CHÚA, người Na-xi-rê không được đến gần xác chết. Dù cho cha mẹ, anh chị em ruột chết đi nữa, họ cũng không được đụng đến những người đó nếu không họ sẽ trở thành ô dơ. Vì họ là người Na-xi-rê cho Chúa. Trong khi làm người Na-xi-rê, họ thuộc về Thượng Đế theo một cách đặc biệt. Nếu họ ở ngay cạnh một người chết bất thình lình thì tóc họ, vốn thuộc về một phần của lời hứa nguyện, đã bị ô dơ. Cho nên bảy ngày sau họ phải cạo đầu để được tinh sạch. 10 Đến ngày thứ tám, họ phải mang hai con cu đất hoặc hai con bồ câu con đến cho thầy tế lễ nơi cửa Lều Họp. 11 Thầy tế lễ sẽ dâng một con làm của lễ chuộc tội, con kia làm của lễ thiêu để chuộc tội cho họ. Họ đã phạm lỗi vì ở gần một xác chết. Cùng ngày đó họ sẽ lại hứa nguyện để tóc ra dài 12 và hiến mình cho CHÚA một thời gian đặc biệt nữa. Họ phải mang một con chiên con đực một tuổi làm của lễ chuộc lỗi. Những ngày đặc biệt đã qua không tính, vì họ đã trở nên ô dơ trong thời gian đặc biệt đầu tiên.

13 Đó là huấn thị về người Na-xi-rê. Khi thời gian hứa nguyện đã mãn, thì họ phải đến Lều Họp 14 dâng của lễ cho CHÚA. Họ phải dâng một chiên con đực một tuổi không tật nguyền làm của lễ thiêu, một con chiên con cái một tuổi không tật nguyền làm của lễ chuộc tội, và một con chiên đực không tật nguyền làm của lễ thân hữu.

15 Họ cũng phải mang của lễ chay và của lễ uống theo. Họ phải mang theo một giỏ bánh mì không men làm bằng bột mịn trộn dầu, các bánh kẹp không men tẩm dầu.

16 Thầy tế lễ sẽ dâng các của lễ nầy lên cho CHÚA để làm của lễ chuộc tội và của lễ thiêu. 17 Rồi ông sẽ giết con chiên đực làm của lễ thân hữu cho CHÚA; và đồng thời dâng giỏ bánh mì không men, của lễ chay, và của lễ uống.

18 Người Na-xi-rê phải đi đến cửa Lều Họp và cạo hết tóc mà họ đã để mọc trong thời gian hứa nguyện. Tóc đó sẽ được đốt trong lửa cùng với của lễ thân hữu.

19 Sau khi người Na-xi-rê cạo đầu, thầy tế lễ sẽ cho họ một cái vai chiên đực đã luộc. Ông cũng sẽ lấy từ giỏ bánh một ổ bánh và một bánh kẹp, cả hai đều không có men. 20 Rồi thầy tế lễ sẽ dâng các thứ đó lên cho CHÚA. Những món thánh đó sẽ thuộc về thầy tế lễ. Ngoài ra ông cũng sẽ dâng cái ức và cái đùi chiên đực. Sau đó người Na-xi-rê có thể uống rượu.

21 Trên đây là huấn thị về việc người Na-xi-rê hứa nguyện. Ai muốn dâng lời hứa nguyện làm người Na-xi-rê phải dâng các của lễ như trên cho CHÚA. Nếu họ muốn hứa thêm thì họ phải giữ lời hứa nguyện theo huấn thị dành cho người Na-xi-rê.”

Cách thầy tế lễ chúc phước

22 CHÚA bảo Mô-se, 23 “Hãy bảo A-rôn và các con trai người, Sau đây là cách các ngươi chúc phước dân Ít-ra-en. Hãy nói cùng họ:

24 Cầu xin CHÚA ban phước và gìn giữ ngươi.
25 Cầu xin CHÚA tỏ lòng nhân từ và bác ái đối với ngươi [e].
26 Cầu xin CHÚA chăm nom và ban bình an cho ngươi [f].

27 A-rôn và các con trai người sẽ nhân danh ta chúc phước như thế cho dân Ít-ra-en, rồi ta sẽ ban phúc lành cho họ.”

Footnotes

  1. Dân Số 5:2 bệnh ngoài da có hại Đây có thể là bệnh cùi hay một bệnh ngoài da hay lây khác.
  2. Dân Số 5:15 hai lít Nguyên văn, “một phần mười ê-pha.”
  3. Dân Số 5:27 dân chúng … nàng Nguyên văn, “nàng sẽ là một cớ nguyền rủa trong dân chúng.”
  4. Dân Số 6:3 đồ uống say Hay “bia.”
  5. Dân Số 6:25 Cầu xin … với ngươi Nguyên văn, “Cầu xin Chúa chiếu sáng mặt Ngài trên ngươi.”
  6. Dân Số 6:26 Cầu xin … cho ngươi Nguyên văn, “Cầu xin Ngài chấp nhận ngươi vào sự hiện diện của Ngài và ban cho ngươi điều ngươi ao ước.”

Những Người Bị Ô Uế

Chúa phán với Môi-se rằng, “Hãy truyền cho dân I-sơ-ra-ên buộc những người bị bịnh phung,[a] những người bị nhiễm trùng ra mủ, và những người bị ô uế do đụng chạm vào xác chết phải ra ở bên ngoài doanh trại. Ngươi phải bắt những người ấy, bất kể nam hay nữ, phải ra bên ngoài doanh trại mà ở. Họ không được làm cho doanh trại, tức nơi Ta ngự, trở nên ô uế.” Dân I-sơ-ra-ên làm y như vậy; họ bắt những người ấy ra ở bên ngoài doanh trại. Chúa đã truyền cho Môi-se thể nào, họ làm y như thế ấy.

Nhận Tội và Bồi Thường

Chúa phán với Môi-se rằng, “Hãy nói với dân I-sơ-ra-ên: Khi một người nào, bất luận nam hay nữ, phạm một tội gì người ta có thể phạm khiến mang tội với Chúa, và người ấy đã mắc tội. Người ấy phải xưng nhận tội mình đã phạm, rồi phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra, và phải trả thêm một phần năm cho người bị thiệt hại. Nếu người bị thiệt hại không còn sống và cũng không có bà con gần nào để có thể lãnh tiền bồi thường, tiền bồi thường ấy sẽ thuộc về Chúa, và tư tế sẽ được hưởng, không kể con chiên đực làm của lễ chuộc tội mà người mắc tội phải đem dâng để làm lễ chuộc tội cho mình.

Trong tất cả lễ vật thánh của dân I-sơ-ra-ên, món gì họ đem biếu cho tư tế sẽ thuộc về tư tế. 10 Tất cả lễ vật thánh đều thuộc về người đem dâng, nhưng món gì người ấy đem biếu cho tư tế sẽ thuộc về tư tế.”

Luật về Ghen Tương

11 Chúa phán với Môi-se rằng, 12 “Hãy nói với dân I-sơ-ra-ên và bảo họ: Nếu vợ người nào ngoại tình và không chung thủy với chồng, 13 nếu có người đàn ông nào ăn nằm với người đàn bà ấy mà chồng bà không biết, tức người đàn bà ấy đã thất tiết do lén lút ngoại tình, và không có chứng cớ vì không ai bắt quả tang, 14 nếu người chồng nổi ghen vì nghi ngờ vợ mình đã lén lút ngoại tình và nàng đã thất tiết, hoặc nếu người chồng nổi ghen vì nghi ngờ vợ mình đã lén lút ngoại tình mặc dù nàng không hề thất tiết, 15 thì người chồng phải đem vợ mình đến tư tế. Vì cớ nàng, người chồng phải đem theo hai lít[b] bột lúa mạch để làm của lễ. Ông ta không được đổ dầu vào hay rắc nhũ hương lên trên, vì đó là của lễ chay dâng vì ghen, một của lễ tượng trưng, dâng để xin xác định tội lỗi.

16 Tư tế sẽ đem người đàn bà đến gần và để nàng đứng trước mặt Chúa. 17 Tư tế sẽ lấy nước thánh từ trong bình sành và lấy một ít bụi trên nền Ðền Tạm bỏ vào trong nước ấy. 18 Tư tế sẽ để người nữ ấy đứng trước mặt Chúa, bảo nàng xõa tóc xuống, đặt trong tay nàng một của lễ chay tượng trưng, tức của lễ chay dâng vì ghen. Trong tay tư tế có nước đắng mang lại sự nguyền rủa. 19 Tư tế sẽ bắt nàng thề và nói với nàng như thế nầy, ‘Nếu không có người đàn ông nào đã ăn nằm với bà, nếu bà không hề lỗi đạo với chồng mà thất thân với ai, thì nước đắng mang lại sự nguyền rủa nầy sẽ không làm hại bà. 20 Nhưng nếu bà đã ngoại tình và đã lỗi đạo với chồng, nếu bà đã thất tiết vì ăn nằm với một người đàn ông khác mà không phải chồng bà’ 21 – Bấy giờ tư tế sẽ bắt nàng thề độc và nói với nàng– ‘Nguyện Chúa làm cho bà trở thành cớ cho người ta nguyền rủa và thề độc giữa vòng dân tộc bà. Nguyện Chúa làm cho tử cung bà teo lại và bụng bà sình ra. 22 Nguyện nước đắng nầy thấm vào ruột gan bà làm cho bụng bà sình ra, còn tử cung bà sẽ teo lại.’ Người đàn bà ấy sẽ đáp, ‘A-men. A-men.’[c]

23 Bấy giờ tư tế sẽ viết những lời nguyền rủa ấy trên một bảng nhỏ,[d] rồi đem rửa những chữ ấy cho chảy vào nước đắng. 24 Tư tế sẽ bắt nàng uống nước đắng mang lại sự nguyền rủa ấy. Nước đắng mang lại sự nguyền rủa sẽ vào trong ruột gan nàng và làm cho nàng đau bụng vì nước đắng ấy. 25 Tư tế sẽ lấy của lễ chay dâng vì ghen khỏi tay nàng, rồi nâng cao lên để dâng, sau đó tư tế mang của lễ ấy đến bàn thờ. 26 Tư tế sẽ hốt một nắm bột tượng trưng của lễ chay, đem bỏ nắm bột ấy vào lửa trên bàn thờ để thiêu cho thành khói, sau đó tư tế bảo nàng uống thứ nước đó. 27 Sau khi tư tế đã bắt nàng uống thứ nước đó, nếu quả thật nàng đã lỗi đạo với chồng và đã thất thân với người khác, thì nước đắng mang lại sự nguyền rủa đó sẽ vào ruột gan nàng, khiến nàng bị đau đớn vì đắng, bụng nàng sẽ sình ra, tử cung nàng sẽ teo lại, và nàng sẽ thành cớ cho người ta nguyền rủa giữa dân tộc nàng. 28 Nhưng nếu nàng không hề ngoại tình và luôn luôn trong trắng, nàng sẽ không bị hại gì, về sau nàng sẽ có thai và sinh con.

29 Ðó là luật về ghen tương, áp dụng cho người phụ nữ có chồng mà lén lút ngoại tình và thất tiết với chồng, 30 hoặc khi người chồng nổi ghen vì nghi ngờ lòng chung thủy của vợ, người chồng phải dẫn vợ đến trước mặt Chúa, rồi tư tế sẽ áp dụng đầy đủ những chi tiết của luật nầy cho nàng. 31 Người chồng sẽ vô tội, nhưng người vợ sẽ mang lấy tội lỗi của nàng.”

Luật về Người Na-xi-rê

Chúa phán với Môi-se rằng, “Hãy nói với dân I-sơ-ra-ên và bảo họ: Khi một người nam hay nữ lập lời khấn nguyện na-xi-rê để biệt riêng mình ra thánh cho Chúa, người ấy phải kiêng cữ rượu và các thức uống say. Người ấy không được uống rượu giấm hoặc thức chi say do men rượu chế ra; người ấy không được uống bất cứ thứ nước nho nào, và cũng không được ăn trái nho, bất kể là nho tươi hay nho khô. Trong suốt thời gian giữ lời khấn nguyện na-xi-rê người ấy không được ăn những sản phẩm của cây nho, và không được ăn ngay cả những sản phẩm làm từ hột nho hay vỏ nho.

Suốt thời gian người ấy giữ lời khấn nguyện na-xi-rê, dao cạo sẽ không được đụng đến đầu người ấy. Cho đến ngày người ấy làm xong sự khấn nguyện của mình và được giải thệ, người ấy là một người được biệt riêng ra thánh cho Chúa, nên người ấy phải để tóc trên đầu mình mọc ra tự nhiên.

Suốt thời gian biệt riêng mình ra thánh cho Chúa, người ấy không được lại gần xác chết. Ngay cả cha, mẹ, anh, chị, hay em mình qua đời, người ấy cũng không được để cho mình bị ô uế, bởi vì trên đầu người ấy vẫn còn mang dấu hiệu khấn nguyện làm người na-xi-rê cho Ðức Chúa Trời. Suốt thời gian làm người na-xi-rê người ấy là người thánh cho Chúa.

Nếu có ai đột nhiên ngã chết bên cạnh, khiến cho đầu đã biệt riêng ra thánh của người ấy trở nên ô uế, người ấy phải cạo đầu mình trong ngày tẩy uế, tức cạo đầu mình trong ngày thứ bảy. 10 Ðến ngày thứ tám, người ấy sẽ mang hai con chim đất hoặc một cặp bồ câu con đến tư tế ở cửa Lều Hội Kiến. 11 Tư tế sẽ dâng một con làm của lễ chuộc tội, còn con kia làm của lễ thiêu, để chuộc tội cho người ấy, vì người ấy đã vướng phải tội do ở gần xác chết. Trong ngày đó người ấy phải làm cho đầu mình ra thánh. 12 Sau đó người ấy có thể tái khấn nguyện biệt riêng mình ra thánh một thời gian để làm người na-xi-rê cho Chúa, và dâng một con chiên đực một tuổi làm của lễ tạ lỗi. Thời gian lúc trước không còn được kể nữa, vì sự giữ lời khấn nguyện na-xi-rê đã bị phạm uế.

13 Ðây là luật cho người na-xi-rê khi thời gian biệt riêng ra thánh của người ấy đã mãn: Người ấy sẽ được đưa đến cửa Lều Hội Kiến 14 để dâng của lễ lên Chúa. Lễ vật sẽ gồm một con chiên đực một tuổi không tì vết để làm của lễ thiêu, một con chiên cái một tuổi không tì vết để làm của lễ chuộc tội, một con chiên đực không tì vết để làm của lễ cầu an, 15 một rổ bánh không men, một ít bánh ngọt làm bằng bột thượng hạng trộn dầu, một ít bánh tráng không men phết dầu, cùng với của lễ chay và của lễ quán. 16 Tư tế sẽ đem các của lễ ấy đến trước mặt Chúa, và cử hành nghi thức dâng của lễ chuộc tội và của lễ thiêu, 17 rồi dâng con chiên đực lên Chúa để làm con vật hiến tế cho của lễ cầu an, chung với rổ bánh không men. Tư tế cũng sẽ dâng kèm theo đó của lễ chay và của lễ quán. 18 Bấy giờ người na-xi-rê sẽ cạo đầu đã biệt riêng ra thánh của mình trước cửa Lều Hội Kiến, rồi lấy tóc đã cạo từ đầu đã biệt riêng ra thánh của mình thiêu trong lửa đang cháy dưới xác con vật hiến tế làm của lễ cầu an. 19 Sau khi thịt con vật hiến tế đã luộc chín, tư tế sẽ lấy cái đùi trước[e] của con chiên đực, một cái bánh không men trong rổ, một cái bánh tráng không men, và đặt vào hai tay của người na-xi-rê, tức sau khi người ấy đã cạo đầu mình. 20 Kế đến tư tế sẽ lấy và nâng cao chúng lên[f] để dâng lên trước mặt Chúa. Ðó là phần đã ra thánh thuộc về tư tế, gồm cái ức đã được nâng cao lên dâng và cái đùi đã được dâng. Sau đó người na-xi-rê được phép uống rượu.

21 Ðó là luật cho người khấn nguyện làm người na-xi-rê. Của lễ người ấy dâng lên Chúa phải phù hợp với lời khấn nguyện làm người na-xi-rê của mình, ngoài những gì người ấy có thể dâng thêm. Người ấy khấn nguyện khi biệt riêng mình ra thánh thế nào thì phải làm theo thể ấy, y như luật dành cho người na-xi-rê.”

Cách Tư Tế Chúc Phước

22 Chúa phán với Môi-se rằng, 23 “Hãy nói với A-rôn và các con trai ông ấy, ‘Ðây là cách các ngươi sẽ chúc phước dân I-sơ-ra-ên. Các ngươi sẽ nói với họ,

24 “Nguyện xin Chúa ban phước cho anh chị em[g] và gìn giữ anh chị em.
25 Nguyện xin Chúa tỏa rạng hào quang của thánh nhan Ngài trên anh chị em và bày tỏ lòng nhân từ đối với anh chị em.
26 Nguyện xin Chúa đoái xem[h] anh chị em và ban bình an thịnh vượng[i] cho anh chị em.”’

27 Khi họ nhân danh Ta chúc phước cho dân I-sơ-ra-ên,[j] Ta sẽ ban phước cho dân ấy.”

Footnotes

  1. Dân Số 5:2 Từ nầy trong tiếng Hebrew dùng để chỉ chung các bịnh ngoài da, chứ không nhất thiết là bịnh cùi như chúng ta biết ngày nay.
  2. Dân Số 5:15 nt: 1/10 ê-pha
  3. Dân Số 5:22 ctd: ‘Tôi đồng ý. Tôi đồng ý.’
  4. Dân Số 5:23 nt: cepher, một dụng cụ để làm sách thời xưa
  5. Dân Số 6:19 ctd: cái vai
  6. Dân Số 6:20 ctd: đưa qua đưa lại
  7. Dân Số 6:24 nt: bạn
  8. Dân Số 6:26 nt: Nguyện Chúa ngước mặt Ngài trên bạn
  9. Dân Số 6:26 nt: shalom: bình an, hạnh phúc, mạnh khỏe, thinh vượng, an toàn
  10. Dân Số 6:27 nt: Họ đặt danh Ta trên con cái I-sơ-ra-ên

Ngụ ngôn gieo giống(A)

Chúa Giê-xu lại bắt đầu giảng dạy bên bờ hồ. Vì quần chúng tụ tập quanh Ngài quá đông nên Ngài lên ngồi trên một chiếc thuyền đậu gần bờ. Còn tất cả dân chúng thì ngồi trên bờ gần nước. Chúa Giê-xu dùng ngụ ngôn dạy dỗ họ nhiều điều. Ngài kể, “Nghe đây! Có một nông gia đi ra gieo giống. Trong khi gieo, một số hột rơi trên đường đi, chim đáp xuống ăn hết. Một số hột rơi nhằm chỗ đất đá, có ít đất thịt. Những hột giống ấy mọc nhanh vì có đất cạn. Nhưng khi mặt trời mọc lên liền bị chết héo, vì rễ không sâu. Một số hột khác rơi nhằm chỗ cỏ gai, gai mọc mạnh chèn cây non tốt, nên cây ấy không sinh quả được. Một số hột khác rơi vào chỗ đất tốt, liền mọc lên. Cây càng ngày càng lớn, kết quả càng nhiều. Có cây sinh ra ba chục hột, có cây sáu chục, có cây một trăm.”

Rồi Chúa Giê-xu bảo, “Người nào nghe ta được, hãy lắng tai nghe!”

CHÚA giải thích tại sao dùng ngụ ngôn(B)

10 Sau đó lúc có một mình Chúa Giê-xu, mười hai sứ đồ cùng một số người khác xúm quanh hỏi Ngài về các ngụ ngôn Ngài dùng.

11 Chúa Giê-xu bảo, “Các con được có trí hiểu những bí mật về Nước Trời, nhưng đối với người khác ta phải dùng chuyện ngụ ngôn 12 vì:

‘Họ thấy thì thấy mà không học được.
    Họ nghe thì nghe mà không hiểu được.
Vì nếu họ học và hiểu được,
    họ sẽ trở lại với ta và được tha thứ chăng.’” (C)

Chúa Giê-xu giải thích ngụ ngôn gieo giống(D)

13 Sau đó Chúa Giê-xu hỏi các môn đệ, “Các con không hiểu ngụ ngôn nầy sao? Nếu truyện nầy mà không hiểu thì làm sao hiểu các truyện khác được? 14 Nông gia trong truyện cũng ví như người gieo lời của Thượng Đế vào lòng người ta. 15 Có khi lời giảng dạy rơi trên đường đi, giống như người nghe lời dạy dỗ của Thượng Đế nhưng vừa nghe xong thì Sa-tăng liền đến cướp lấy lời đã được gieo trong lòng họ. 16 Một số người khác như hột giống rơi trên đất đá. Họ nghe lời dạy liền hớn hở tiếp nhận. 17 Nhưng họ không để lời ấy thấm sâu vào đời sống, họ chỉ giữ lời dạy đó một thời gian ngắn thôi. Khi gặp khốn khổ hoặc gian nan vì lời dạy mà họ đã tiếp nhận, thì họ vội vàng rút lui. 18 Có những người giống như hột giống rơi vào cỏ gai; họ nghe lời dạy 19 nhưng lại để những lo âu đời nầy, bả vinh hoa phú quí và những ham muốn xấu xa khác khiến cho lời dạy bị nghẹt ngòi, không kết quả [a] trong cuộc sống họ được. 20 Một số người khác giống như hột giống trồng nơi đất tốt. Họ nghe lời dạy và vui vẻ tiếp nhận rồi lớn lên và kết quả—có hột sinh ra ba chục, hột thì sáu chục, hột thì một trăm.”

Read full chapter

Footnotes

  1. Mác 4:19 kết quả Đời sống sinh ra những việc lành Thượng Đế muốn.

Ngụ Ngôn về Người Gieo Giống

(Mat 13:1-9; Lu 8:4-8)

Ngài lại bắt đầu giảng dạy bên bờ biển. Một đám đông rất lớn tụ họp quanh Ngài đến nỗi Ngài phải lên ngồi trên một chiếc thuyền đậu ven bờ, còn đoàn dân đông đứng trên bờ. Ngài dùng những ngụ ngôn dạy họ nhiều điều. Trong khi giảng dạy Ngài phán, “Hãy nghe, này, một người kia đi ra gieo giống. Trong khi gieo, một số hạt giống rơi bên vệ đường, chim đến ăn hết. Một số khác rơi nhằm nơi sỏi đá, nơi chẳng có nhiều đất thịt. Chúng liền mọc lên, nhưng vì đất không nhiều, nên khi mặt trời mọc lên, chúng bị nắng gắt thiêu đốt, và vì không có rễ ăn sâu, chúng bị héo khô. Một số hạt khác rơi vào những bụi gai; gai góc mọc lên, làm chúng bị nghẹt, nên không kết quả. Còn những hạt khác rơi vào đất tốt và kết quả. Chúng mọc lên, tăng trưởng, và nảy nở thêm nhiều; hạt thành ba mươi, hạt ra sáu chục, và hạt được một trăm.” Ðoạn Ngài phán, “Ai có tai để nghe, hãy lắng nghe.”

Lý Do Chúa Dùng Ngụ Ngôn

(Mat 13:10-15; Lu 8:9-10)

10 Khi Ngài ở một mình, những người quanh Ngài và mười hai sứ đồ đến hỏi Ngài về ý nghĩa của các ngụ ngôn. 11 Ngài nói với họ, “Ðối với các ngươi, huyền nhiệm về vương quốc Ðức Chúa Trời được giãi bày cho, nhưng đối với người ngoài thì mọi sự vẫn phải dùng ngụ ngôn, 12 để

‘Họ nhìn mà không thấy,
Họ nghe mà không hiểu,
Kẻo họ trở lại mà được tha thứ.’”Ê-sai 6:9

Chúa Giải Nghĩa Ngụ Ngôn Người Gieo Giống

(Mat 13:18-23; Lu 8:11-15)

13 Sau đó Ngài nói với họ, “Các ngươi không hiểu ý nghĩa của ngụ ngôn ấy sao? Vậy làm sao các ngươi có thể hiểu tất cả những ngụ ngôn khác? 14 Người gieo giống gieo đạo.[a] 15 Những hạt ở bên vệ đường chỉ về những người chịu nghe đạo đã gieo, nhưng khi họ vừa nghe xong, Sa-tan liền đến giựt lấy đạo đã gieo vào lòng họ. 16 Tương tự, những hạt gieo nhằm đất sỏi đá chỉ về những người khi nghe đạo thì vui mừng tin nhận, 17 nhưng chẳng để cho đạo đâm rễ trong lòng, mà chỉ tin hời hợt nhất thời; đến khi khó khăn hoạn nạn hoặc cơn bách hại vì đạo xảy ra, họ liền bỏ đạo. 18 Những hạt khác là những hạt rơi vào các bụi gai; đây chỉ về những người đã nghe đạo, 19 nhưng lại để cho những lo lắng về đời này, sự lừa dối của giàu sang, và những ham muốn các thứ khác làm cho nghẹt ngòi đạo và trở nên không kết quả. 20 Còn những hạt giống gieo vào đất tốt chỉ về những người nghe đạo, tiếp nhận, và kết quả; người được ba chục, người được sáu chục, và người được một trăm.”

Read full chapter

Footnotes

  1. Mác 4:14 nt: lời, sứ điệp (Lógos)