Add parallel Print Page Options

Kiểm kê dân số

26 Sau trận dịch lớn đó CHÚA bảo Mô-se và Ê-lê-a-sa, con A-rôn là thầy tế lễ rằng, “Hãy kiểm kê dân số Ít-ra-en theo gia đình. Kiểm kê tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên có thể phục vụ trong quân ngũ Ít-ra-en.”

Mô-se và Ê-lê-a-sa, thầy tế lễ nói với dân chúng trong đồng bằng Mô-áp gần sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô rằng, “Hãy đếm tất cả đàn ông từ hai mươi tuổi trở lên, theo như CHÚA truyền dặn Mô-se.” Sau đây là những người Ít-ra-en đã ra khỏi Ai-cập:

Chi tộc Ru-bên, con trưởng nam của Ít-ra-en, được kiểm kê.

Ha-nóc sinh ra dòng họ Ha-nóc;

Ba-lu sinh ra dòng họ Ba-lu;

Hết-rôn sinh ra dòng họ Hết-rôn;

Cát-mi sinh ra dòng họ Cát-mi.

Đó là tất cả các dòng họ của Ru-bên, tổng cộng 43.730 đàn ông.

Con trai của Ba-lu là Ê-li-áp, các con trai của Ê-li-áp là Nê-mu-ên, Đa-than, và A-bi-ram. Đa-than và A-bi-ram cầm đầu những người nổi loạn chống Mô-se và A-rôn, đi theo Cô-ra phản nghịch lại CHÚA. 10 Đất hả miệng nuốt họ và Cô-ra; họ chết một lượt với 250 người bị lửa thiêu. Đó là dấu hiệu cảnh cáo, 11 nhưng các con Cô-ra không chết.

12 Sau đây là các dòng họ thuộc chi tộc Xi-mê-ôn:

Nê-mu-ên sinh ra dòng họ Nê-mu-ên;

Gia-min sinh ra dòng họ Gia-min;

Gia-kin sinh ra dòng họ Gia-kin;

13 Xê-ra sinh ra dòng họ Xê-ra;

Sa-un sinh ra dòng họ Sa-un.

14 Đó là tất cả các dòng họ Xi-mê-ôn; tổng cộng là 22.200 đàn ông.

15 Sau đây là các dòng họ thuộc chi tộc Gát:

Xê-phôn sinh ra dòng họ Xê-phôn;

Ha-ghi sinh ra dòng họ Ha-ghi;

Su-ni sinh ra dòng họ Su-ni;

16 Ốt-ni sinh ra dòng họ Ốt-ni;

Ê-ri sinh ra dòng họ Ê-ri;

17 từ A-rô-đi có dòng họ A-rô-đi;

từ A-rê-li có dòng họ A-rê-li.

18 Đó là tất cả những dòng họ đàn ông.

19 Hai con trai của Giu-đa là Ê-rơ và Ô-nan đã chết trong xứ Ca-na-an. 20 Sau đây là các dòng họ thuộc chi tộc Giu-đa:

Sê-la sinh ra dòng họ Sê-la;

Phê-rê sinh ra dòng họ Phê-rê;

Xê-ra sinh ra dòng họ Xê-ra.

21 Sau đây là những dòng họ Phê-rê:

Hết-rôn sinh ra dòng họ Hết-rôn;

Ha-mun sinh ra dòng họ Ha-mun.

22 Đó là tất cả các dòng họ thuộc Giu-đa, tổng cộng là 76.500 đàn ông.

23 Sau đây là các dòng họ thuộc chi tộc Y-xa-ca:

Thô-la sinh ra dòng họ Thô-la;

Bu-a sinh ra dòng họ Bu-a;

24 Gia-súp sinh ra dòng họ Gia-súp;

Sim-rôn sinh ra dòng họ Sim-rôn.

25 Đó là tất cả các dòng họ thuộc Y-xa-ca tổng cộng 64.300 đàn ông.

26 Sau đây là các dòng họ thuộc chi tộc Xê-bu-lôn:

Xê-rết sinh ra dòng họ Xê-rết;

Ê-lôn sinh ra dòng họ Ê-lôn;

Gia-lê-ên sinh ra dòng họ Gia-lê-ên.

27 Đó là tất cả các dòng họ thuộc Xê-bu-lôn, tổng cộng 60.500 đàn ông.

28 Sau đây là các dòng họ thuộc Giô-xép qua Ma-na-xe và Ép-ra-im. 29 Các dòng họ sau đây thuộc Ma-na-xe:

Ma-kia sinh ra dòng họ Ma-kia (Ma-kia là cha của Ghi-lê-át);

Ghi-lê-át sinh ra dòng họ Ghi-lê-át.

30 Sau đây là các dòng họ xuất thân từ Ghi-lê-át:

Y-ê-xe sinh ra dòng họ Y-ê-xe;

Hê-léc sinh ra dòng họ Hê-léc;

31 Át-ri-ên sinh ra dòng họ Át-ri-ên;

Sê-chem sinh ra dòng họ Sê-chem;

32 Sê-mi-đa có dòng họ Sê-mi-đa;

Hê-phe sinh dòng họ Hê-phe.

33 Xê-lô-phê-hát, con trai Hê-phe không có con trai; chỉ có con gái tên là Ma-la, Nô-ê, Hóc-la, Minh-ca và Thiệt-xa.

34 Đó là tất cả các dòng họ Ma-na-xe, tổng cộng 52.700 đàn ông.

35 Sau đây là các dòng họ thuộc chi tộc Ép-ra-im:

Su-thê-la sinh dòng họ Su-thê-la;

Bê-ke sinh dòng họ Bê-ke;

Ta-han sinh dòng họ Ta-han.

36 Sau đây là dòng họ Su-thê-la:

Ê-ran sinh dòng họ Ê-ran.

37 Đó là tất cả các dòng họ Ép-ra-im, tổng cộng 32.500 đàn ông. Đó là các dòng họ xuất xứ từ Giô-xép.

38 Sau đây là các dòng họ thuộc chi tộc Bên-gia-min:

Bê-la sinh dòng họ Bê-la;

Ách-bên sinh dòng họ Ách-Bên;

A-hi-ram sinh dòng họ A-hi-ram;

39 Su-pham sinh dòng họ Su-pham;

Hu-pham sinh dòng họ Hu-pham.

40 Sau đây là các dòng họ Bê-la: Át-đơ và Na-a-man.

Át-đơ sinh dòng họ Át-đơ;

Na-a-man sinh dòng họ Na-a-man.

41 Đó là tất cả các dòng họ thuộc Bên-gia-min, tổng cộng 45.600 đàn ông.

42 Sau đây là dòng họ thuộc chi tộc Đan:

Su-ham sinh dòng họ Su-ham.

Đó là gia đình của Đan, 43 và tổng số người đàn ông trong dòng họ Su-ham thuộc Đan là 64.400 người.

44 Sau đây là các dòng họ thuộc chi tộc A-se:

Im-na sinh dòng họ Im-na;

Ích-vi sinh dòng họ Ích-vi;

Bê-ri-a sinh dòng họ Bê-ri-a.

45 Sau đây là các dòng họ xuất xứ từ Bê-ri-a:

Hê-be sinh dòng họ Hê-be;

Manh-kiên sinh dòng họ Manh-kiên.

46 (A-se cũng có một người con gái tên Xê-ra.)

47 Đó là tất cả các dòng họ thuộc A-se, tổng cộng là 53.400 đàn ông.

48 Sau đây là các dòng họ thuộc chi tộc Nép-ta-li:

Gia-xên sinh dòng họ Gia-xên;

Gu-ni sinh dòng họ Gu-ni;

49 Giê-xe sinh dòng họ Giê-xe;

Si-lem sinh dòng họ Si-lem.

50 Đó là tất cả các dòng họ thuộc chi tộc Nép-ta-li tổng cộng 45.400 đàn ông.

51 Như thế tổng số đàn ông trong Ít-ra-en là 601.730 người.

52 CHÚA bảo Mô-se, 53 “Hãy chia đất cho các người ấy theo số tên. 54 Chi tộc lớn sẽ nhận được nhiều đất hơn chi tộc nhỏ; diện tích đất mỗi chi tộc nhận được tùy vào số người của chi tộc đó. 55 Hãy chia bằng cách bắt thăm, và đất mà chi tộc nào nhận được sẽ mang tên chi tộc đó. 56 Chia đất giữa nhóm lớn và nhóm nhỏ bằng cách bắt thăm.”

57 Chi tộc Lê-vi cũng được kiểm kê. Sau đây là các dòng họ thuộc chi tộc Lê-vi:

Ghẹt-sôn sinh dòng họ Ghẹt-sôn;

Cô-hát sinh dòng họ Cô-hát;

Mê-ra-rin sinh dòng họ Mê-ra-ri.

58 Sau đây cũng là dòng họ thuộc chi tộc Lê-vi:

dòng họ Líp-ni,

dòng họ Hếp-rôn,

dòng họ Ma-li,

dòng họ Mu-si,

và dòng họ Cô-ra.

(Cô-hát là ông tổ của Am-ram, 59 vợ Am-ram là Giô-kê-bết. Nàng thuộc chi tộc Lê-vi và sinh trưởng ở Ai-cập. Nàng và Am-ram có hai con trai: A-rôn, Mô-se, và một con gái là Mi-ri-am.

60 A-rôn là cha của Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa, và Y-tha-ma. 61 Nhưng Na-đáp và A-bi-hu đã chết vì dâng loại lửa trái phép trước mặt CHÚA.)

62 Tổng số người nam thuộc chi tộc Lê-vi tuổi từ một tháng trở lên là 23.000 người nhưng họ không được tính chung vào các người Ít-ra-en khác vì họ không được cấp đất nào giữa vòng các người Ít-ra-en khác cả.

63 Mô-se và thầy tế lễ Ê-lê-a-sa kiểm kê tất cả những người đó. Họ kiểm kê dân Ít-ra-en trong đồng bằng Mô-áp đối diện sông Giô-đanh nhìn qua Giê-ri-cô. 64 Mô-se và thầy tế lễ A-rôn đã kiểm kê dân Ít-ra-en trong sa mạc Si-nai nhưng không có ai được kiểm kê lần nầy trong đồng bằng Mô-áp nằm trong kỳ kiểm kê trước. 65 CHÚA đã bảo dân Ít-ra-en là tất cả đều sẽ chết trong sa mạc, chỉ có hai người còn sống sót là Ca-lép, con trai của Giê-phu-nê và Giô-suê con trai của Nun mà thôi.

Các con gái của Xê-lô-phê-hát

27 Lúc đó các con gái của Xê-lô-phê-hát đến. Xê-lô-phê-hát là con trai của Hê-phe, cháu Ghi-lê-át, chắt Ma-kia, chít Ma-na-xe. Các con gái Xê-lô-phê-hát thuộc họ Ma-na-xe, con trai Giô-xép. Tên các cô gái đó là Ma-la, Nô-ê, Hóc-la, Minh-ca và Thiệt-xa. Các cô đến cửa Lều Họp đứng trước Mô-se, thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, các lãnh tụ, và toàn thể dân chúng.

Các cô thưa, “Cha chúng tôi đã chết trong sa mạc. Ông ấy không phải là một trong những kẻ theo phe Cô-ra phản nghịch lại CHÚA, nhưng ông chết vì tội mình, và không có con trai. Vì không có con trai cho nên tên của cha chúng tôi sẽ tiêu mất. Xin cấp cho chúng tôi tài sản giữa vòng thân nhân của cha chúng tôi.”

Mô-se trình trường hợp các cô lên CHÚA, CHÚA bảo ông rằng, “Các con gái Xê-lô-phê-hát có lý; chúng phải nhận được phần tài sản của cha chúng. Hãy cấp cho chúng tài sản giữa vòng thân nhân của cha chúng.

Hãy bảo người Ít-ra-en: Nếu người nào chết không có con trai thì tất cả tài sản [a] người sẽ về con gái người ấy. Nếu người không có con gái thì tất cả tài sản người sẽ về anh em người. 10 Nếu người không có anh em thì tất cả tài sản người sẽ về chú bác người. 11 Và nếu cha người không có anh em thì tất cả tài sản người sẽ về thân nhân gần nhất trong dòng họ. Đây là qui tắc cho dân Ít-ra-en, theo như mệnh lệnh CHÚA truyền dặn Mô-se.”

Giô-suê được cử làm lãnh tụ

12 Sau đó CHÚA bảo Mô-se, “Hãy leo lên núi A-ba-rim nầy và nhìn khắp xứ mà ta đã cho dân Ít-ra-en. 13 Sau khi nhìn thấy xứ đó, con sẽ qua đời về với tổ tiên như A-rôn anh con, 14 vì hai con hành động nghịch lại mệnh lệnh ta trong sa mạc Xin. Con không tôn ta là thánh trước mặt dân chúng nơi các suối Mê-ri-ba [b].” (Tức là các suối Mê-ri-ba ở Ca-đe trong sa mạc Xin.)

15 Mô-se thưa cùng CHÚA, 16 “CHÚA là Thượng Đế của tất cả thần linh trong mọi người. Xin Ngài chọn một lãnh tụ để hướng dẫn dân nầy, 17 Người sẽ đi vào ra trước mặt họ. Người sẽ dẫn họ ra như đàn chiên và mang họ vào; dân chúng của CHÚA chẳng nên như chiên không có người chăn.”

18 Vì vậy CHÚA bảo Mô-se, “Hãy chọn Giô-suê, con trai của Nun, vì Thần linh ta ở trong người. Hãy đặt tay con trên người, 19 bảo người đứng trước mặt thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và cả dân chúng. Rồi ra lệnh cho người trước sự chứng kiến của họ.

20 Hãy san sẻ quyền lực của con cho người, để dân Ít-ra-en vâng lời người. 21 Người phải đứng trước mặt thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, rồi Ê-lê-a-sa sẽ dùng U-rim tìm biết ý CHÚA. Dân Ít-ra-en sẽ đi ra theo lệnh người, và sẽ đi vào cũng theo lệnh người.”

22 Mô-se làm theo mọi điều CHÚA bảo mình. Ông mang Giô-suê ra đứng trước mặt thầy tế lễ Ê-lê-a-sa và cả dân chúng, 23 rồi đặt tay trên người và truyền lệnh, như CHÚA đã dặn ông.

Của lễ hằng ngày

28 CHÚA bảo Mô-se, “Hãy truyền lệnh nầy cho dân Ít-ra-en. Bảo họ: Hãy mang đến cho ta của lễ bằng thức ăn nướng trong lửa để có mùi thơm làm vừa lòng ta, và phải đem đúng giờ đã định. Hãy bảo họ: Sau đây là những của lễ mà các ngươi phải đem đến cho CHÚA: Hai con chiên con một tuổi làm của lễ thiêu mỗi ngày. Các con chiên đó không được có tật nguyền. Buổi sáng dâng một con, chạng vạng dâng một con. Ngoài ra cũng phải mang của lễ chay gồm hai lít bột mịn trộn với ba phần tư lít dầu ô-liu ép. Đó là của lễ thiêu dâng hằng ngày, bắt đầu tại núi Si-nai; mùi thơm từ của lễ thiêu sẽ làm vừa lòng CHÚA. Hãy dâng ba phần tư lít rượu cùng với mỗi con chiên để làm của lễ uống; đổ rượu đó ra cho CHÚA tại Nơi Thánh. Hãy dâng con chiên thứ nhì vào lúc chạng vạng. Cũng phải làm giống như buổi sáng, tức là dâng của lễ chay và của lễ uống. Của lễ đó phải dâng bằng lửa, có mùi thơm làm vừa lòng CHÚA.

Của lễ ngày Sa-bát

Vào ngày Sa-bát, các ngươi phải dâng hai con chiên con một tuổi không tật nguyền. Ngoài ra cũng phải dâng của lễ uống và của lễ chay; của lễ chay gồm bốn lít rưỡi bột mịn trộn với dầu ô-liu. 10 Đó là của lễ thiêu cho mỗi ngày Sa-bát, ngoài của lễ thiêu và của lễ uống hằng ngày.

Của lễ hằng tháng

11 Vào ngày đầu mỗi tháng hãy mang của lễ thiêu đến cho CHÚA. Của lễ đó gồm hai con bò đực tơ, một con chiên đực, bảy con chiên con một tuổi, tất cả không được có tật nguyền. 12 Dâng của lễ chay với mỗi con bò đực tơ chung với sáu lít rưỡi bột mịn trộn dầu ô-liu. Ngoài ra cũng phải dâng của lễ chay chung với con chiên đực. Của lễ đó gồm bốn lít rưỡi bột mịn trộn dầu ô-liu. 13 Cũng phải dâng của lễ chay với mỗi con chiên con, của lễ gồm có hai lít bột mịn trộn dầu ô-liu. Đó là của lễ thiêu, có mùi thơm làm vừa lòng CHÚA. 14 Của lễ uống dâng với mỗi con bò tơ đực gồm hai lít rưỡi rượu, còn với mỗi con chiên đực thì một lít, và với mỗi con chiên con thì ba phần tư lít rượu. Đó là các của lễ phải dâng hằng tháng trong năm. 15 Ngoài của lễ thiêu và của lễ uống dâng hằng ngày, hãy mang một con dê làm của lễ chuộc tội đến cho CHÚA.

Lễ Vượt qua

16 Lễ Vượt Qua của CHÚA sẽ là ngày mười bốn tháng thứ nhất. 17 Lễ Bánh Không Men bắt đầu ngày mười lăm tháng đó. Trong bảy ngày các ngươi chỉ được phép ăn bánh mì không men. 18 Vào ngày đầu tiên của kỳ lễ phải có một buổi họp thánh. Đừng làm việc gì trong ngày ấy. 19 Hãy mang đến cho CHÚA một của lễ dâng bằng lửa, một của lễ thiêu gồm hai con bò tơ đực, một con chiên đực, và bảy con chiên con đực. Tất cả không được có tật nguyền. 20 Cùng với mỗi con bò tơ đực phải mang một của lễ chay gồm sáu lít rưỡi bột mịn trộn dầu ô-liu. Còn mỗi con chiên đực thì mang bốn lít rưỡi bột mịn trộn dầu. 21 Còn mỗi con chiên con phải mang hai lít bột mịn trộn dầu. 22 Hãy mang một con dê làm của lễ chuộc tội để làm sạch nơi thánh cho các ngươi. 23 Hãy mang các của lễ nầy ngoài các của lễ thiêu các ngươi dâng mỗi sáng.

24 Vậy mỗi ngày trong tuần phải mang thực phẩm để làm của lễ bằng lửa có mùi thơm làm vừa lòng CHÚA. Đó là ngoài của lễ thiêu và của lễ uống hằng ngày. 25 Ngày thứ bảy các ngươi phải có một buổi họp thánh. Hãy nghỉ ngơi, đừng làm việc gì trong ngày ấy.

Lễ Các Tuần hay Lễ Mùa Gặt

26 Vào ngày sản vật đầu tiên khi các ngươi mang ngũ cốc mới đến cho CHÚA trong kỳ Lễ Các Tuần thì phải có một buổi họp thánh. Đừng làm việc gì trong ngày ấy. 27 Hãy mang của lễ thiêu sau đây đến cho CHÚA: hai con bò tơ đực, một con chiên đực, bảy con chiên con một tuổi. Mùi thơm của lễ sẽ làm vừa lòng CHÚA. 28 Ngoài ra cùng với mỗi con bò đực mang một của lễ chay gồm sáu lít rưỡi bột mịn trộn dầu. Cùng với mỗi con chiên đực mang bốn lít rưỡi bột mịn, 29 còn mỗi con chiên con thì mang hai lít bột mịn. 30 Dâng một con dê đực để làm sạch nơi thánh cho các ngươi. 31 Hãy mang các của lễ nầy và các của lễ uống ngoài của lễ thiêu và của lễ chay hằng ngày. Các thú vật đem dâng không được có tật nguyền.”

Footnotes

  1. Dân Số 27:8 tài sản Của hương hoả, đất đai …
  2. Dân Số 27:14 các suối Mê-ri-ba Hay “suối phản loạn.”

Lập Thống Kê Thế Hệ Mới

26 Sau tai họa đó Chúa phán với Môi-se và Ê-lê-a-xa con trai Tư Tế A-rôn, “Hãy lập một cuộc thống kê toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên, những người từ hai mươi tuổi trở lên, theo từng gia tộc, mọi người I-sơ-ra-ên trong tuổi quân dịch.” Môi-se và Tư Tế Ê-lê-a-xa nói với họ trong Ðồng Bằng Mô-áp, bên bờ Sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô rằng, “Hãy thực hiện cuộc thống kê dân số, lập danh sách những người từ hai mươi tuổi trở lên, như Chúa đã truyền cho Môi-se.”

Dân I-sơ-ra-ên đã ra khỏi đất Ai-cập gồm:

Ru-bên, con đầu lòng của I-sơ-ra-ên. Con cháu của Ru-bên gồm: Ha-nóc, sinh ra dòng họ Ha-nóc; Pa-lu, sinh ra dòng họ Pa-lu; Hê-xơ-rôn, sinh ra dòng họ Hê-xơ-rôn; Cạt-mi, sinh ra dòng họ Cạt-mi. Ðó là những dòng họ các con cháu của Ru-bên. Số người đã ghi tên vào danh sách là bốn mươi ba ngàn bảy trăm ba mươi người. Trong các con của Pa-lu có Ê-li-áp. Các con của Ê-li-áp gồm: Nê-mu-ên, Ða-than, và A-bi-ram. Chính Ða-than và A-bi-ram nầy là những người được chọn để lãnh đạo hội chúng và đã toa rập với Cô-ra để chống lại Môi-se và A-rôn, khi họ nổi loạn chống nghịch Chúa. 10 Ðất đã mở miệng nuốt chửng họ cùng với Cô-ra, khiến cả bọn phải chết, và lửa cũng đã thiêu sống hai trăm năm mươi người theo họ để cảnh cáo. 11 Tuy nhiên các con của Cô-ra không chết hết.

12 Con cháu của Si-mê-ôn theo dòng họ của họ gồm: Nê-mu-ên, sinh ra dòng họ Nê-mu-ên; Gia-min, sinh ra dòng họ Gia-min; Gia-kin, sinh ra dòng họ Gia-kin; 13 Xê-ra, sinh ra dòng họ Xê-ra; Sa-un, sinh ra dòng họ Sa-un. 14 Ðó là những dòng họ các con cháu của Si-mê-ôn. Số người đã ghi tên vào danh sách là hai mươi hai ngàn hai trăm người.

15 Con cháu của Gát theo dòng họ của họ gồm: Xê-phôn, sinh ra dòng họ Xê-phôn; Hắc-ghi, sinh ra dòng họ Hắc-ghi; Su-ni, sinh ra dòng họ Su-ni; 16 Ô-ni, sinh ra dòng họ Ô-ni; Ê-ri, sinh ra dòng họ Ê-ri; 17 A-rốt, sinh ra dòng họ A-rốt; A-rê-li, sinh ra dòng họ A-rê-li. 18 Ðó là những dòng họ các con cháu của Gát. Số người đã ghi tên vào danh sách là bốn mươi ngàn năm trăm người.

19 Các con của Giu-đa là Ê-rơ và Ô-nan. Ê-rơ và Ô-nan đều đã chết trong xứ Ca-na-an. 20 Các con cháu của Giu-đa theo dòng họ của họ gồm: Sê-la, sinh ra dòng họ Sê-la; Pê-rê, sinh ra dòng họ Pê-rê; Xê-ra, sinh ra dòng họ Xê-ra. 21 Các con cháu của Pê-rê gồm: Hê-xơ-rôn, sinh ra dòng họ Hê-xơ-rôn; Ha-mun, sinh ra dòng họ Ha-mun. 22 Ðó là những dòng họ các con cháu của Giu-đa. Số người đã ghi tên vào danh sách là bảy mươi sáu ngàn năm trăm người.

23 Các con cháu của I-sa-ca theo dòng họ của họ gồm: Tô-la, sinh ra dòng họ Tô-la; Pu-va, sinh ra dòng họ Pu-va; 24 Gia-súp, sinh ra dòng họ Gia-súp; Sim-rôn, sinh ra dòng họ Sim-rôn. 25 Ðó là những dòng họ các con cháu của I-sa-ca. Số người đã ghi tên vào danh sách là sáu mươi bốn ngàn ba trăm người.

26 Các con cháu của Xê-bu-lun theo dòng họ của họ gồm: Sê-rết, sinh ra dòng họ Sê-rết; Ê-lôn, sinh ra dòng họ Ê-lôn; Gia-lê-ên, sinh ra dòng họ Gia-lê-ên. 27 Ðó là những dòng họ các con cháu của Xê-bu-lun. Số người đã ghi tên vào danh sách là sáu mươi ngàn năm trăm người.

28 Các con cháu của Giô-sép theo dòng họ của họ gồm: Ma-na-se và Ép-ra-im.

29 Dòng dõi của Ma-na-se gồm: Ma-khia, sinh ra dòng họ Ma-khia; Ma-khia là cha của Ghi-lê-át. Ghi-lê-át, sinh ra dòng họ Ghi-lê-át. 30 Ðây là con cháu của Ghi-lê-át: I-ê-xê, sinh ra dòng họ I-ê-xê; Hê-léc, sinh ra dòng họ Hê-léc; 31 Át-ri-ên, sinh ra dòng họ Át-ri-ên; Sê-khem, sinh ra dòng họ Sê-khem; 32 Sê-mi-đa, sinh ra dòng họ Sê-mi-đa; và Hê-phe, sinh ra dòng họ Hê-phe. 33 Vả, Xê-lô-phê-hát con trai của Hê-phe không có con trai nhưng chỉ có các con gái. Tên các con gái của Xê-lô-phê-hát là Mác-la, Nô-a, Hốc-la, Minh-ca, và Tiệc-xa. 34 Ðó là những dòng họ các con cháu của Ma-na-se. Số người đã ghi tên vào danh sách là năm mươi hai ngàn bảy trăm người.

35 Ðây là các con cháu của Ép-ra-im, theo dòng họ của họ gồm: Su-thê-la, sinh ra dòng họ Su-thê-la; Bê-che, sinh ra dòng họ Bê-che; Ta-han, sinh ra dòng họ Ta-han. 36 Ðây là các con cháu của Su-thê-la: Ê-ran, sinh ra dòng họ Ê-ran. 37 Ðó là những dòng họ các con cháu của Ép-ra-im. Số người đã ghi tên vào danh sách là ba mươi hai ngàn năm trăm người.

Ðó là những con cháu của Giô-sép, theo dòng họ của họ.

38 Các con cháu của Bên-gia-min theo dòng họ của họ gồm: Bê-la, sinh ra dòng họ Bê-la; Ách-bên, sinh ra dòng họ Ách-bên; A-hi-ram, sinh ra dòng họ A-hi-ram; 39 Sê-phu-pham, sinh ra dòng họ Sê-phu-pham; Hu-pham, sinh ra dòng họ Hu-pham. 40 Các con của Bê-la là Ạc-đơ và Na-a-man; Ạc-đơ sinh ra dòng họ Ạc-đơ; Na-a-man sinh ra dòng họ Na-a-man. 41 Ðó là những dòng họ các con cháu của Bên-gia-min. Số người đã ghi tên vào danh sách là bốn mươi lăm ngàn sáu trăm người.

42 Ðây là các con cháu của Ðan, theo dòng họ của họ gồm: Su-ham, sinh ra dòng họ Su-ham. Ðó là dòng họ con cháu của Ðan. 43 Tất cả những dòng họ của Su-ham đã ghi tên vào danh sách là sáu mươi bốn ngàn bốn trăm người.

44 Các con cháu của A-se theo dòng họ của họ gồm: Im-na, sinh ra dòng họ Im-na; Ích-vi, sinh ra dòng họ Ích-vi; Bê-ri-a, sinh ra dòng họ Bê-ri-a. 45 Các con cháu của Bê-ri-a gồm: Hê-be, sinh ra dòng họ Hê-be; Manh-khi-ên, sinh ra dòng họ Manh-khi-ên. 46 Tên của con gái A-se là Sê-ra. 47 Ðó là những dòng họ các con cháu của A-se. Số người đã ghi tên vào danh sách là năm mươi ba ngàn bốn trăm người.

48 Các con cháu của Náp-ta-li theo dòng họ của họ gồm: Gia-xê-ên, sinh ra dòng họ Gia-xê-ên; Gu-ni, sinh ra dòng họ Gu-ni; 49 Giê-xe, sinh ra dòng họ Giê-xe; Sin-lam, sinh ra dòng họ Sin-lem. 50 Ðó là những dòng họ các con cháu của Náp-ta-li. Số người đã ghi tên vào danh sách là bốn mươi lăm ngàn bốn trăm người.

51 Ðây là tổng số những người I-sơ-ra-ên đã ghi tên vào danh sách: sáu trăm lẻ một ngàn bảy trăm ba mươi người.

52 Chúa phán với Môi-se, 53 “Ðối với những người đã ghi danh thì đất đai sẽ được chia căn cứ vào số người đã ghi danh. 54 Chi tộc nào đông dân hơn sẽ được chia cho phần đất lớn hơn, còn chi tộc nào ít dân sẽ được chia cho phần đất nhỏ hơn. Như vậy mỗi chi tộc sẽ được chia phần đất tương xứng với số dân đã ghi danh. 55 Tuy nhiên đất đai sẽ được phân chia bằng cách bốc thăm; cứ theo thăm trúng tên của tổ chi tộc mà họ sẽ lãnh phần đất của mình. 56 Căn cứ theo kết quả của sự bốc thăm mà chia đất cho các chi tộc đông người hoặc ít người.”

57 Ðây là thống kê của người Lê-vi theo dòng họ của họ: Ghẹt-sôn, sinh ra dòng họ Ghẹt-sôn; Kê-hát, sinh ra dòng họ Kê-hát; Mê-ra-ri, sinh ra dòng họ Mê-ra-ri. 58 Ðây là các dòng họ của Lê-vi: dòng họ Líp-ni, dòng họ Hếp-rôn, dòng họ Mác-li, dòng họ Mu-si, dòng họ Cô-ra. Cô-ra là cha của Am-ram. 59 Vợ của Am-ram tên là Giô-kê-bết cháu gái trong dòng dõi của Lê-vi. Bà được sinh ra trong dòng họ Lê-vi khi còn ở Ai-cập. Bà sinh cho Am-ram: A-rôn, Môi-se, và chị của họ là Mi-ri-am. 60 A-rôn sinh được Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-xa, và I-tha-ma. 61 Nhưng Na-đáp và A-bi-hu đã chết khi họ dâng một thứ lửa uế dị trước mặt Chúa. 62 Số người đã ghi tên vào danh sách là hai mươi ba ngàn. Ðó là số những người nam tuổi từ một tháng trở lên. Họ không ghi danh chung với dân I-sơ-ra-ên, bởi vì họ không được chia phần sản nghiệp ở giữa dân I-sơ-ra-ên.

63 Ðó là những người đã ghi danh với Môi-se và Tư Tế Ê-lê-a-xa khi họ thực hiện cuộc thống kê dân số I-sơ-ra-ên trong Ðồng Bằng Mô-áp, bên bờ Sông Giô-đanh, đối ngang Giê-ri-cô. 64 Trong số những người được thống kê lần nầy không có người nào đã ghi danh trong cuộc thống kê dân số I-sơ-ra-ên do Môi-se và Tư Tế A-rôn thực hiện trước kia trong Ðồng Hoang Si-nai, 65 Chúa đã bảo, “Họ phải qua đời trong đồng hoang.” Quả là không còn ai sống sót, ngoại trừ Ca-lép con của Giê-phu-nê và Giô-suê con của Nun.

Các Con Gái của Xê-lô-phê-hát

(Dân 36:1-12)

27 Bấy giờ các con gái của Xê-lô-phê-hát đến gần. Xê-lô-phê-hát là con của Hê-phe, cháu của Ghi-lê-át, chắt của Ma-khia, chít của Ma-na-se, thuộc về chi tộc Ma-na-se con trai Giô-sép. Tên các con gái của ông là Mác-la, Nô-a, Hốc-la, Minh-ca, và Tiệc-xa. Họ đứng trước mặt Môi-se, Tư Tế Ê-lê-a-xa, các vị lãnh đạo, và toàn thể hội chúng, ở trước cửa Lều Hội Kiến và nói, “Cha chúng tôi đã qua đời trong đồng hoang. Cha chúng tôi không phải là người trong số những người đã toa rập với nhau chống lại Chúa trong nhóm của Cô-ra, nhưng ông đã qua đời vì tội riêng của mình, và ông không có con trai. Tại sao tên của cha chúng tôi bị loại bỏ khỏi danh sách của dòng họ mình chỉ vì ông không có con trai? Xin hãy cho chúng tôi một phần sản nghiệp giữa các anh em của cha chúng tôi.”

Môi-se trình duyên cớ họ lên trước mặt Chúa. Chúa phán với Môi-se, “Các con gái của Xê-lô-phê-hát nói rất đúng. Ngươi phải cho họ hưởng một phần sản nghiệp giữa các anh em của cha họ, và hãy trao phần sản nghiệp của cha họ cho họ. Ngươi cũng hãy nói với dân I-sơ-ra-ên rằng: nếu người nào qua đời mà không có con trai, người ấy phải trao phần sản nghiệp của mình cho con gái mình. Nếu người ấy không có con gái, hãy trao phần sản nghiệp đó cho các anh em của người ấy. 10 Nếu người ấy không có anh em, hãy trao phần sản nghiệp đó cho các anh em của cha người ấy. 11 Nếu cha người ấy không có anh em, hãy trao phần sản nghiệp đó cho người bà con nào gần nhất trong dòng họ của người ấy, và người đó sẽ được hưởng phần sản nghiệp đó. Ðiều ấy sẽ thành một quy luật để phân xử trong dân I-sơ-ra-ên, như Chúa đã truyền cho Môi-se.”

Giô-suê Ðược Chọn Kế Vị Môi-se

12 Sau đó Chúa phán với Môi-se, “Ngươi hãy đi lên núi nầy, đến Rặng A-ba-rim, và ngắm xem xứ mà Ta sẽ ban cho dân I-sơ-ra-ên. 13 Khi ngươi đã thấy nó rồi, ngươi sẽ quy về với tổ tông ngươi như A-rôn anh ngươi, 14 vì ngươi đã cãi lời Ta trong Ðồng Hoang Xin, khi hội chúng gây sự với Ta. Ngươi đã không tôn thánh Ta trước mắt chúng trong việc cung cấp nước.” Ðó là vụ nước ở Mê-ri-ba trong vùng Ca-đe ở Ðồng Hoang Xin.

15 Môi-se thưa với Chúa, 16 “Cầu xin Chúa, Ðức Chúa Trời của linh khí[a] mọi loài xác thịt, chỉ định một người để lãnh đạo hội chúng, 17 một người sẽ đi ra đi vào trước mặt họ, một người sẽ dẫn họ ra đi và đem họ về, để hội chúng của Chúa sẽ không như chiên không có người chăn.”

18 Chúa phán với Môi-se, “Hãy chọn lấy Giô-suê con trai của Nun, một người có Thần[b] ngự bên trong. Ngươi hãy đặt tay trên ông ấy. 19 Hãy dẫn ông ấy ra mắt Tư Tế Ê-lê-a-xa và toàn thể hội chúng, rồi trao quyền cho ông ấy trước mắt họ. 20 Ngươi hãy trao cho ông ấy quyền hành của ngươi, để toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên vâng lệnh ông ấy. 21 Ông ấy sẽ đứng trước mặt Tư Tế Ê-lê-a-xa, người sẽ dùng U-rim để cầu hỏi thánh ý cho ông ấy trước mặt Chúa. Rồi cứ theo lệnh ông ấy mà họ sẽ đi ra, và theo lệnh ông ấy mà họ sẽ đi vào, ông ấy và mọi người I-sơ-ra-ên ở với ông ấy, tức toàn thể hội chúng.”

22 Môi-se làm y như Chúa đã truyền cho ông. Ông dẫn Giô-suê đến trước mặt Ê-lê-a-xa và toàn thể hội chúng. 23 Ông đặt tay trên ông ấy và trao quyền cho ông ấy, như Chúa đã phán qua Môi-se.

Của Lễ Dâng Hằng Ngày

28 Chúa phán với Môi-se, “Hãy truyền cho dân I-sơ-ra-ên và bảo họ: Về của lễ dâng lên Ta, tức thực phẩm dùng lửa dâng lên có mùi thơm cho Ta, các ngươi khá dâng lên đúng thời điểm đã ấn định. Ngươi hãy bảo họ: Ðây là của lễ các ngươi sẽ dùng lửa dâng lên Chúa: Ngày nào các ngươi cũng phải dâng hai con chiên đực một tuổi không tì vết để làm của lễ hằng ngày. Một con sẽ dâng vào buổi sáng, và một con vào chiều tối, cùng với của lễ chay gồm hai lít[c] bột thượng hạng trộn với một lít[d] dầu nguyên chất đã được ép ra. Ðó là của lễ thiêu dâng lên thường xuyên đã được thiết lập tại Núi Si-nai, một của lễ dùng lửa để thiêu dâng hầu có mùi thơm dâng lên Chúa. Của lễ quán cặp theo sẽ là một lít[e] rượu cho mỗi con chiên; rượu mạnh làm của lễ quán ấy sẽ được đổ ra trong nơi thánh để dâng lên Chúa. Còn con chiên kia sẽ được dâng vào lúc chiều tối, cùng với của lễ chay và của lễ quán, giống như cách đã dâng con chiên vào buổi sáng; của lễ ấy sẽ được dùng lửa để thiêu dâng hầu có mùi thơm dâng lên Chúa.

Của Lễ Dâng Ngày Sa-bát

Mỗi ngày Sa-bát các ngươi sẽ dâng hai con chiên đực một tuổi, không tì vết, cùng với của lễ chay gồm bốn lít[f] bột thượng hạng trộn dầu, và của lễ quán. 10 Ðó là của lễ thiêu dâng đặc biệt trong ngày Sa-bát, ngoài của lễ thiêu dâng hằng ngày và của lễ quán cặp theo với nó.

Của Lễ Dâng Ngày Mồng Một

11 Vào mỗi ngày đầu tháng các ngươi sẽ dâng một của lễ thiêu lên Chúa, gồm hai con bò đực, một con chiên đực đã lớn, và bảy con chiên đực một tuổi, thảy đều không tì vết. 12 Của lễ chay dâng kèm theo khi dâng mỗi con bò đực là sáu lít rưỡi[g] bột thượng hạng trộn dầu; còn của lễ chay khi dâng con chiên đực đã lớn là bốn lít[h] bột thượng hạng trộn dầu; 13 và của lễ chay khi dâng mỗi con chiên đực con là hai lít[i] bột thượng hạng trộn dầu. Ðó là của lễ thiêu dùng lửa để thiêu dâng hầu có mùi thơm dâng lên Chúa. 14 Còn lễ quán cặp theo là hai lít[j] rượu cho mỗi con bò đực, một lít rưỡi[k] rượu cho con chiên đực đã lớn, và một lít[l] rượu cho mỗi con chiên đực con. Ðó là của lễ thiêu dâng lên vào mỗi đầu tháng cho tất cả tháng trong năm. 15 Các ngươi cũng phải dâng lên Chúa một con dê đực để làm của lễ chuộc tội, ngoài của lễ thiêu dâng hằng ngày và của lễ quán cặp theo với nó.

Của Lễ Dâng Trong Lễ Vượt Qua

(Xuất 12:14-20; Lê 23:4-8; Phục 16:1-8)

16 Cứ đến ngày mười bốn tháng giêng các ngươi phải giữ Lễ Vượt Qua để tôn kính Chúa. 17 Ngày mười lăm tháng đó sẽ là ngày lễ; các ngươi sẽ ăn bánh không men trong bảy ngày. 18 Ngày thứ nhất các ngươi phải có một cuộc nhóm họp thánh; hôm đó các ngươi sẽ nghỉ làm các công việc thường nhật của mình. 19 Các ngươi sẽ dùng lửa dâng một của lễ thiêu lên Chúa, gồm hai con bò đực, một con chiên đực đã lớn, và bảy con chiên đực một tuổi; các ngươi phải xem kỹ là chúng không có tì vết gì. 20 Của lễ chay dâng kèm theo với chúng là bột thượng hạng trộn dầu; các ngươi sẽ dâng sáu lít rưỡi[m] cho một con bò đực, bốn lít[n] cho con chiên đực đã lớn, 21 và hai lít[o] cho mỗi con của bảy con chiên đực con. 22 Các ngươi cũng phải dâng một con dê đực để làm của lễ chuộc tội cho mình. 23 Các ngươi hãy dâng những của lễ nầy ngoài những của lễ thiêu dâng vào buổi sáng, tức là của lễ thiêu dâng hằng ngày. 24 Trong suốt bảy ngày, ngày nào các ngươi cũng phải dâng những của lễ như thế; đó là những thực phẩm được dùng lửa để thiêu dâng hầu có mùi thơm dâng lên Chúa. Các ngươi sẽ dâng những của lễ ấy ngoài của lễ thiêu dâng hằng ngày và của lễ quán cặp theo với nó. 25 Ngày thứ bảy các ngươi phải có một cuộc nhóm họp thánh; hôm đó các ngươi hãy nghỉ làm những công việc thường nhật của mình.

Của Lễ Dâng Trong Lễ Các Tuần

(Lê 23:15-22; Phục 16:9-12)

26 Vào ngày lễ dâng hoa quả đầu mùa, khi các ngươi dâng lên Chúa những hoa lợi mới để làm của lễ chay trong Lễ Các Tuần, các ngươi phải có một cuộc nhóm họp thánh; hôm đó các ngươi hãy nghỉ làm công việc thường nhật của mình. 27 Các ngươi hãy dâng một của lễ thiêu, một của lễ có mùi thơm dâng lên Chúa, gồm hai con bò đực, một con chiên đực đã lớn, và bảy con chiên đực một tuổi. 28 Của lễ chay cặp theo với chúng sẽ là bột thượng hạng trộn dầu, gồm sáu lít rưỡi[p] cho một con bò đực, bốn lít[q] cho con chiên đực đã lớn, 29 và hai lít[r] cho mỗi con của bảy con chiên đực con. 30 Các ngươi cũng phải dâng một con dê đực để làm của lễ chuộc tội cho mình. 31 Ðó là những của lễ các ngươi sẽ dâng, ngoài của lễ thiêu dâng hằng ngày, cùng với của lễ chay và của lễ quán cặp theo với chúng. Tất cả con vật hiến tế đó đều không tì vết.

Footnotes

  1. Dân Số 27:16 nt: (ruakh) linh, khí, gió; ctd: tinh thần, tâm linh, linh hồn, sinh khí, thần linh, thần khí, Thần, Ðức Thánh Linh, Thần của Ðức Chúa Trời
  2. Dân Số 27:18 nt: (tương tự như câu 16)
  3. Dân Số 28:5 nt: 1/10 ê-pha
  4. Dân Số 28:5 nt: 1/4 hin
  5. Dân Số 28:7 nt: 1/4 hin
  6. Dân Số 28:9 nt: 2/10 ê-pha (gần 4 lít rưỡi)
  7. Dân Số 28:12 nt: 3/10 ê-pha
  8. Dân Số 28:12 nt: 2/10 ê-pha (gần 4 lít rưỡi)
  9. Dân Số 28:13 nt: 1/10 ê-pha
  10. Dân Số 28:14 nt: 1/2 hin
  11. Dân Số 28:14 nt: 1/3 hin
  12. Dân Số 28:14 nt: 1/4 hin
  13. Dân Số 28:20 nt: 3/10 ê-pha
  14. Dân Số 28:20 nt: 2/10 ê-pha (gần 4 lít rưỡi)
  15. Dân Số 28:21 nt: 1/10 ê-pha
  16. Dân Số 28:28 nt: 3/10 ê-pha
  17. Dân Số 28:28 nt: 2/10 ê-pha (gần 4 lít rưỡi)
  18. Dân Số 28:29 nt: 1/10 ê-pha

Hơn bốn ngàn người được thết đãi(A)

Lần khác có một đám đông đi theo Chúa Giê-xu mà không có gì ăn nên Ngài gọi các môn đệ lại bảo, “Ta tội nghiệp đoàn dân nầy, vì họ đã ở với ta hơn ba ngày nay mà không có gì ăn. Nếu ta cho họ về trong khi bụng đói thế nầy chắc có người sẽ bị xỉu dọc đường, vì một số đã đến từ những nơi khá xa.”

Các môn đệ Ngài thưa, “Làm sao chúng ta có đủ bánh cho chừng nầy người ăn? Nơi đây cũng không gần thị trấn nào.”

Chúa Giê-xu hỏi, “Các con có bao nhiêu ổ bánh?”

Họ thưa, “Dạ có bảy ổ.”

Chúa Giê-xu bảo dân chúng ngồi xuống đất. Rồi Ngài cầm bảy ổ bánh, cảm tạ Thượng Đế và bẻ bánh ra. Ngài trao bánh cho các môn đệ để phân phát cho dân chúng. Các môn đệ cũng có vài con cá nhỏ. Sau khi cảm tạ Thượng Đế về mấy con cá, Ngài bảo các môn đệ phát cho dân chúng luôn. Mọi người ăn uống no nê. Các môn đệ gom được bảy giỏ đầy những miếng thừa. Có khoảng bốn ngàn người đàn ông ăn lần đó. Sau khi ăn xong, Ngài cho họ về. 10 Rồi Ngài cùng các môn đệ xuống thuyền đi qua miền Đan-ma-nu-tha.

Các nhà cầm quyền muốn xem một phép lạ(B)

11 Các người Pha-ri-xi đến gặp Chúa Giê-xu và bắt đầu gạn hỏi Ngài. Vì chủ tâm gài bẫy Ngài, nên họ yêu cầu Chúa Giê-xu làm một phép lạ từ trời cho họ xem. 12 Chúa Giê-xu thở dài bảo họ, “Sao các ông muốn xem phép lạ? Ta bảo thật, các ông sẽ không nhận được dấu lạ nào cả.” 13 Rồi Ngài bỏ họ, xuống thuyền sang bờ hồ bên kia.

Thận trọng về những lời giáo huấn sai lạc(C)

14 Các môn đệ chỉ đem theo có một ổ bánh trong thuyền; đáng lẽ họ phải mang theo nhiều hơn. 15 Chúa Giê-xu bảo họ, “Các con phải thận trọng về men của người Pha-ri-xi và men của Hê-rốt.”

16 Các môn đệ thảo luận với nhau về ý nghĩa của lời Ngài nói. Họ bảo, “Thầy nói vậy là vì chúng ta quên mang bánh theo.”

17 Biết họ bàn như thế nên Chúa Giê-xu hỏi, “Sao các con nói tại vì không mang bánh theo? Các con cũng còn chưa thấy và chưa hiểu sao? Trí óc các con vẫn còn tối tăm sao? 18 Các con có mắt mà vẫn không thấy, có tai mà không nghe. Các con còn nhớ những lần 19 ta chia năm ổ bánh cho năm ngàn người sao? Các con thu lại được bao nhiêu giỏ bánh thừa?”

Họ thưa, “Dạ, mười hai giỏ.”

20 “Còn khi ta phát bảy ổ bánh cho bốn ngàn người, các con gom được bao nhiêu giỏ bánh thừa?”

Họ thưa, “Dạ, bảy giỏ.”

21 Chúa Giê-xu bảo họ rằng, “Đến bây giờ các con cũng chưa hiểu sao?”

Chúa Giê-xu chữa lành người mù

22 Chúa Giê-xu cùng các môn đệ đến thành Bết-sai-đa. Người ta mang tới cho Ngài một người mù và xin Ngài đặt tay trên anh. 23 Chúa Giê-xu cầm tay người mù, dắt ra khỏi làng. Sau khi nhổ nước miếng lên mắt và đặt tay trên anh, Ngài hỏi, “Bây giờ anh thấy được chưa?”

24 Anh ngước lên thưa, “Dạ, tôi thấy người ta nhưng họ đi giống như cây cối.”

25 Chúa Giê-xu lại đặt tay lên mắt anh. Anh mở mắt ra thì mắt được sáng, thấy rõ ràng tất cả. 26 Chúa Giê-xu bảo anh đi về nhà và dặn, “Đừng trở vào thành.”

Phia-rơ tuyên xưng Chúa Giê-xu là Đấng Cứu Thế(D)

27 Chúa Giê-xu cùng môn đệ đi đến các thành quanh vùng Xê-xa-rê Phi-líp. Đang đi đường, Ngài hỏi các môn đệ, “Dân chúng nói ta là ai?”

28 Các môn đệ thưa, “Có người nói thầy là Giăng Báp-tít. Người khác nói thầy là Ê-li, còn người khác nữa thì cho thầy là một trong các nhà tiên tri.”

29 Nhưng Chúa Giê-xu hỏi, “Còn các con nói ta là ai?”

Phia-rơ đáp, “Thầy là Đấng Cứu Thế.”

30 Chúa Giê-xu nghiêm cấm các môn đệ không được nói cho người nào biết Ngài là ai.

Chúa Giê-xu nói trước về cái chết của Ngài(E)

31 Rồi Chúa Giê-xu bắt đầu dạy họ rằng, “Con Người phải chịu khổ nhiều, còn bị các bô lão Do-thái, các giới trưởng tế cùng các giáo sư luật loại ra.” Ngài cũng cho biết thêm là Con Người sẽ bị giết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại từ trong kẻ chết. 32 Chúa Giê-xu nói rõ ràng cho các môn đệ biết những sự việc sẽ xảy ra. Phia-rơ liền mang Ngài riêng ra và trách Ngài. 33 Nhưng Chúa Giê-xu quay lại nhìn các môn đệ rồi quở Phia-rơ. Ngài bảo, “Nầy Sa-tăng [a], hãy đi khỏi mặt ta! Con không nghĩ đến việc Thượng Đế mà chỉ nghĩ đến những việc loài người thôi.”

34 Sau đó Chúa Giê-xu gọi quần chúng và các môn đệ lại, bảo rằng, “Ai muốn theo ta phải từ bỏ chính mình và vác thập tự giá mình mà theo ta. 35 Ai tìm cách giữ mạng sống mình, sẽ bị mất nó, nhưng ai chịu mất mạng mình vì ta và vì Tin Mừng thì sẽ giữ được mạng sống. 36 Nếu ai được cả thế giới mà mất linh hồn mình thì ích lợi gì? 37 Lấy gì mà đánh đổi linh hồn mình? 38 Ai xấu hổ về ta và lời dạy dỗ của ta giữa thế hệ dâm ô và tội lỗi nầy thì Con Người cũng sẽ xấu hổ về người ấy khi Ngài hiện đến trong vinh quang của Cha Ngài cùng với các thiên sứ thánh.”

Footnotes

  1. Mác 8:33 Sa-tăng Tên của ma quỉ, có nghĩa là “kẻ thù.” Chúa Giê-xu ngụ ý là Phia-rơ nói chuyện kiểu Sa-tăng.

Chúa Hóa Bánh cho Bốn Ngàn Người Ăn

(Mat 15:32-39)

Trong những ngày ấy lại có một đám đông rất lớn, và họ không có gì ăn. Ngài gọi các môn đồ Ngài đến và bảo, “Ta thương xót đoàn dân này, vì ba ngày nay họ đã theo Ta, bây giờ không có gì để ăn. Nếu Ta cho họ về nhà trong lúc bụng đói, họ có thể bị xỉu dọc đường. Hơn nữa, có những người từ xa đến đây.”

Các môn đồ Ngài thưa với Ngài, “Ai có thể tìm ở đâu ra bánh trong nơi hoang vắng này để cho những người này ăn?”

Ngài hỏi họ, “Các ngươi có bao nhiêu bánh?”

Họ đáp, “Thưa có bảy cái.”

Ngài truyền cho đám đông ngồi xuống đất. Ðoạn Ngài lấy bảy cái bánh, tạ ơn, bẻ ra, và đưa cho các môn đồ để họ phân phát; các môn đồ phát bánh cho đám đông. Họ cũng có mấy con cá nhỏ. Sau khi ban phước trên chúng, Ngài truyền phát những cá ấy ra nữa. Ðoàn dân ăn no nê. Họ gom lại những mảnh bánh thừa và được bảy giỏ đầy. Có khoảng bốn ngàn người hôm đó. Ðoạn Ngài tiễn họ ra về. 10 Ngay sau đó Ngài và các môn đồ Ngài xuống thuyền đến miền Ðan-ma-nu-tha.

Người Pha-ri-si Xin Dấu Lạ

(Mat 16:1-4)

11 Những người Pha-ri-si kéo đến và bắt đầu tranh luận với Ngài. Họ thử Ngài bằng cách yêu cầu Ngài cho một dấu lạ từ trời. 12 Ngài thở dài ngao ngán[a] và nói, “Tại sao thế hệ này đòi xem một dấu lạ? Quả thật, Ta nói với các ngươi, thế hệ này sẽ chẳng được ban cho dấu lạ nào cả.” 13 Ngài rời khỏi họ, xuống thuyền trở lại, và qua bờ bên kia.

Men của Người Pha-ri-si

(Mat 16:5-12)

14 Khi ấy các môn đồ quên mang bánh theo; trên thuyền chỉ có mỗi một ổ bánh. 15 Ngài nghiêm dặn họ rằng, “Hãy coi chừng! Hãy đề phòng men của những người Pha-ri-si và men của những người của Hê-rốt.”

16 Các môn đồ bàn với nhau, “Thầy nói thế vì chúng ta không có bánh.”

17 Biết vậy Ngài nói với họ, “Tại sao các ngươi bàn với nhau về việc không có bánh? Các ngươi không thấy hoặc không hiểu sao? Lòng các ngươi vẫn cứng cỏi sao? 18 Mắt các ngươi không thấy và tai các ngươi không nghe sao? Các ngươi chẳng nhớ sao? 19 Khi Ta bẻ năm cái bánh cho năm ngàn người ăn, những mảnh còn lại các ngươi đã gom được bao nhiêu giỏ đầy?”

Họ đáp, “Thưa mười hai giỏ.”

20 “Còn khi bảy cái bánh cho bốn ngàn người ăn, những mảnh còn lại các ngươi đã gom được bao nhiêu giỏ đầy?”

Họ đáp, “Thưa bảy giỏ.”

21 Ngài nói với họ, “Các ngươi vẫn còn chưa hiểu sao?”

Chúa Chữa Lành Người Mù

22 Họ đến Bết-sai-đa. Bấy giờ người ta đem đến Ngài một người mù và nài xin Ngài chạm đến người ấy. 23 Ngài nắm tay người mù và dắt ông ra ngoài làng. Ðoạn Ngài phun nước miếng vào mắt ông và đặt tay trên ông, Ngài hỏi ông, “Ngươi thấy gì không?” 24 Người mù ngước lên nhìn và đáp, “Tôi thấy người ta như cây cối đang đi.” 25 Ngài lại đặt hai tay trên hai mắt ông. Ông ngước lên nhìn chăm chú; thị giác ông hoàn toàn bình phục, và ông thấy mọi vật rõ ràng. 26 Ngài bảo ông đi về nhà và dặn, “Ngươi đừng vào trong làng.”

Phi-rơ Tuyên Xưng Chúa

(Mat 16:13-20; Lu 9:18-21)

27 Ðức Chúa Jesus và các môn đồ Ngài đến các làng trong miền Sê-sa-rê Phi-líp. Dọc đường Ngài hỏi các môn đồ, “Người ta nói Ta là ai?”

28 Họ đáp, “Có người nói Thầy là Giăng Báp-tít, người khác nói Thầy là Ê-li, người khác nữa lại nói Thầy là một trong các đấng tiên tri.”

29 Ngài hỏi họ, “Còn các ngươi nói Ta là ai?”

Phi-rơ đáp, “Thầy là Ðấng Christ.” 30 Ngài nghiêm dặn họ không được nói cho ai biết Ngài là ai.

Chúa Nói Trước về Sự Chết và Sự Sống Lại của Ngài

(lần thứ nhất)

(Mat 16:21-23; Lu 9:22)

31 Bấy giờ Ngài bắt đầu dạy họ rằng Con Người phải chịu nhiều đau khổ, sẽ bị các trưởng lão, các trưởng tế, và các thầy dạy giáo luật loại trừ, và sẽ bị giết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại.

32 Ngài nói những điều ấy cách công khai, nhưng Phi-rơ đem Ngài riêng ra và bắt đầu trách Ngài. 33 Ngài quay lại, nhìn các môn đồ, và quở Phi-rơ, “Hỡi Sa-tan, hãy lui ra sau Ta! Vì ngươi không để tâm trí đến việc của Ðức Chúa Trời mà chỉ nghĩ đến việc của loài người.”

Ðiều Kiện Ðể Theo Chúa

(Mat 16:24-27; Lu 9:23-27)

34 Ngài gọi đám đông và các môn đồ Ngài lại gần và nói với họ, “Nếu ai muốn theo Ta, người ấy phải từ bỏ chính mình, vác thập tự giá mình, mà theo Ta. 35 Vì ai muốn cứu mạng sống mình sẽ mất nó, nhưng ai mất mạng sống mình vì cớ Ta và vì Tin Mừng sẽ cứu được nó. 36 Vì nếu người nào được cả thế giới mà mất linh hồn mình thì có ích gì? 37 Người ấy sẽ lấy chi để đổi linh hồn[b] mình lại? 38 Vậy nếu ai hổ thẹn về Ta và lời Ta giữa thế hệ ngoại tình và tội lỗi này, Con Người cũng sẽ hổ thẹn về người ấy khi ngự đến trong vinh hiển của Cha mình với các thiên sứ thánh.”

Footnotes

  1. Mác 8:12 nt: trong tâm linh
  2. Mác 8:37 Ba câu 35, 36, và 37 đều dùng một chữ “psuche” có nghĩa là mạng sống hay linh hồn