Add parallel Print Page Options

Những dân cư mới ở Giê-ru-sa-lem

11 Các nhà lãnh đạo của Ít-ra-en sống trong Giê-ru-sa-lem nhưng dân chúng bắt thăm để mỗi mười người thì một người được vào ở trong Giê-ru-sa-lem là thành phố thánh. Chín người kia ở trong thị trấn mình. Dân chúng chúc phước cho những người tình nguyện vào ở Giê-ru-sa-lem.

Sau đây là những nhà lãnh đạo khu vực vào ở Giê-ru-sa-lem. Một số đã cư ngụ trên đất mình trong các thành thuộc xứ Giu-đa. Trong số đó có các người Ít-ra-en, các thầy tế lễ, người Lê-vi, những đày tớ phục vụ đền thờ, và con cháu của các đầy tớ Sô-lô-môn. Những người khác thuộc các gia đình Giu-đa và Bên-gia-min đã sống ở Giê-ru-sa-lem.

Sau đây là các con cháu Giu-đa vào ở Giê-ru-sa-lem. Có A-thai-gia, con U-xia. U-xia là con Xa-cha-ri, con A-ma-ria. A-ma-ria là con Sê-pha-tia, con Ma-ha-la-lên. Ma-ha-la-lên là con cháu của Phê-rê. Cũng có Ma-sê-gia, con Ba-rúc. Ba-rúc là con Côn-Hô-xê, con Ha-xai-gia. Ha-xai-gia là con A-đai-gia, con Giô-gia-ríp. Giô-gia-ríp là con Xa-cha-ri, con cháu Sê-la. Tổng số con cháu Phê-rê sống ở Giê-ru-sa-lem là 468 người. Tất cả đều là chiến sĩ.

Sau đây là con cháu Bên-gia-min dọn vào ở Giê-ru-sa-lem. Có Xa-lu, con của Mê-su-lam. Mê-su-lam là con Giô-ếch, con của Bê-đai-gia. Bê-đai-gia là con của Cô-lai-gia, con của Ma-a-sê-gia. Ma-a-sê-gia là con của Y-thiên, con của Giê-sai-gia. Kế sau người có Gáp-bai và Xa-lai, tổng cộng 928 người. Giô-ên, con của Xích-ri được chỉ định cai quản họ, còn Giu-đa con Hát-sê-nua được chỉ định phụ tá coi sóc vùng mới trong thành.

10 Sau đây là những thầy tế lễ dọn vào cư ngụ trong Giê-ru-sa-lem. Giê-đai-gia, con Giô-a-ríp, Gia-kin, 11 và Xê-rai-gia, con Hinh-kia, người quản thủ đền thờ. Hinh-kia là con Mê-su-lam, con Xa-đốc. Xa-đốc là con Mê-rai-ốt, con A-hi-túp. 12 Cũng có những người khác với họ là những người làm việc trong đền thờ. Tổng cộng 822 người. Có A-đai-gia, con Giê-rô-ham. Giê-rô-ham là con Bê-la-lia, con Am-xi. Am-xi là con Xa-cha-ri, con Bát-sua. Bát-sua là con Manh-ki-gia. 13 Cũng có các chủ gia đinh cùng với ông. Tổng cộng 242 người. Ngoài ra còn có A-mát-sai, con A-xa-rên. A-xa-rên là con A-xai, con Mê-si-lê-mốt. Mê-si-lê-mốt là con Im-mê. 14 Cũng có những dũng sĩ cùng với A-ma-sai. Cộng tất cả 128 người. Xáp-đi-ên con của Ha-ghê-đô-lim được cử giám thị họ.

15 Sau đây là những người Lê-vi dọn vào Giê-ru-sa-lem. Có Sê-mai-gia con Hát-súp. Hát-súp là con A-ri-cam, con của Ha-sa-bia. Ha-sa-bia là con của Bu-ni. 16 Rồi có Sa-bê-thai và Giô-xa-bát, hai lãnh tụ người Lê-vi chịu trách nhiệm coi sóc bên ngoài đền thờ. 17 Có Mát-tha-nia, con của Mai-ca. Mai-ca là con Xáp-đi, con của A-sáp. Ma-tha-nia là người hướng dẫn việc tạ ơn và cầu nguyện. Có Bác-bu-kia, người đứng hàng nhì chịu trách nhiệm giám thị người Lê-vi. Sau đó có Áp-đa, con Sam-mua. Sam-mua là con Ga-lanh, con Giê-đu-thun. 18 Tổng cộng 284 người Lê-vi cư ngụ trong thành thánh Giê-ru-sa-lem.

19 Các người gác cửa dọn vào Giê-ru-sa-lem là Ác-cúp, Thanh-môn, và những người khác cùng với họ. Tổng cộng 172 người gác cổng thành.

20 Còn những người Ít-ra-en, các thầy tế lễ, và người Lê-vi khác cư ngụ trên đất của họ rải rác trong các thị trấn xứ Giu-đa.

21 Những đầy tớ phục vụ trong đền thờ cư ngụ trên đồi Ô-phên, có Xi-ha và Ghít-ba giám thị họ.

22 U-xi, con Ba-ni được cử làm giám thị các người Lê-vi ở Giê-ru-sa-lem. Ba-ni là con Ha-sa-bia, con Mát-tha-nia. Mát-tha-nia là con Mai-ca. U-xi là một trong các con cháu A-sáp là những ca sĩ lo cho các buổi lễ trong đền thờ. 23 Các ca sĩ được đặt dưới lệnh của vua, lệnh nầy định việc cho họ từng ngày.

24 Bê-tha-nia, con Mê-sê-xa-bên là phát ngôn viên của vua. Mê-sê-xa-bên là một trong những con cháu của Xê-ra, con Giu-đa.

25 Một số người trong xứ Giu-đa sống trong các làng có ruộng nương bao bọc. Họ sống trong Ki-ri-át Ạc-ba và vùng phụ cận, Đi-bôn và vùng phụ cận, Giê-cáp-xi-ên và vùng phụ cận, 26 ở Giê-sua, Mô-la-đa, Bết-Bê-lết, 27 Ha-xa Su-anh, Bê-e-sê-ba và vùng phụ cận, 28 ở Xiếc-lác và Mê-cô-na và vùng phụ cận, 29 ở Ên-Rim-môn, Xô-ra, Giạt-mút, 30 Xa-noa, A-đu-lam và các làng mạc, ở La-kích và các đồng ruộng quanh đó, ở A-xê-ka và vùng phụ cận. Như thế họ định cư từ Bê-e-sê-ba chạy đến Thung lũng Hin-nôm.

31 Các con cháu của Bên-gia-min từ Ghê-ba sống ở Mích-mát, Ai-gia, Bê-tên và vùng phụ cận, 32 ở A-na-tốt, Nóp, A-na-nia, 33 Hát-xo, Ra-ma, Ghít-ta-im, 34 Ha-đích, Xê-bô-im, Nê-ba-lát, 35 Lót, Ô-nô, và trong Thung lũng của các Thợ thủ công.

36 Một vài nhóm người Lê-vi thuộc xứ Giu-đa định cư trong đất của chi tộc Bên-gia-min.

Các thầy tế lễ và người Lê-vi

12 Sau đây là các thầy tế lễ và người Lê-vi hồi hương chung với Xê-ru-ba-bên, con Sê-anh-tiên và với Giê-sua. Có Sê-rai-gia, Giê-rê-mi, E-xơ-ra, A-ma-ria, Ma-lúc, Hát-túc, Sê-ca-nia, Rê-hum, Mê-rê-mốt, Y-đô, Ghi-nê-hôn, A-bi-gia, Mi-gia-min, Mô-a-đia, Binh-ga, Sê-mai-gia, Giô-a-ríp, Giê-đai-gia, Sa-lu, A-mốc, Hinh-kia, và Giê-đai-gia. Đó là những lãnh tụ của các thầy tế lễ và thân nhân họ trong thời Giê-sua.

Các người Lê-vi gồm có Giê-sua, Bin-nui, Cát-miên, Sê-rê-bai-gia, Giu-đa, và Ma-tha-nia. Ma-tha-nia và các thân nhân ông chịu trách nhiệm ca nhạc tạ ơn. Bác-bu-kia và U-ni và thân nhân đứng đối diện nhau trong các buổi lễ.

10 Giê-sua sinh Giô-gia-kim. Giô-gia-kim sinh Ê-li-a-síp. Ê-li-a-síp sinh Giô-gia-đa. 11 Giô-gia-đa sinh Giô-na-than, Giô-na-than sinh Giát-đua.

12 Trong thời Giô-gia-kim các thầy tế lễ sau đây làm trưởng gia đình của các thầy tế lễ: Mê-rai-gia thuộc gia đình Sê-rai-gia; Ha-na-nia, thuộc gia đình Giê-rê-mi; 13 Mê-su-lam, thuộc gia đình E-xơ-ra; Giê-hô-ha-nan thuộc gia đình A-ma-ria; 14 Giô-na-than thuộc gia đình Ma-lúc; Giô-xép thuộc gia đình Sê-ca-nia. 15 Ách-na thuộc gia đình Ha-rim; Hên-cai thuộc gia đình Mê-rê-mốt; 16 Xa-cha-ri thuộc gia đình Y-đô; Mê-su-lam thuộc gia đình Ghin-nê-thôn; 17 Xích-ri thuộc gia đình A-bi-gia; Binh-tai thuộc gia đình Mi-nia-min và gia đình Mô-a-đia; 18 Sam-mua thuộc gia đình Binh-ga, Giê-hô-na-than thuộc gia đình Sê-mai-gia; 19 Mát-tê-nai thuộc gia đình Giô-ia-ríp; U-xi thuộc gia đình Giê-đai-gia; 20 Ca-lai thuộc gia đình Xa-lu; Ê-be thuộc gia đình A-mốc; 21 Ha-sa-bia thuộc gia đình Hinh-kia; và Nê-tha-nên thuộc gia đình Giê-đai-gia.

22 Các trưởng gia đình người Lê-vi và các thầy tế lễ được ghi chép trong thời Ê-li-a-síp, Giô-gia-đa, Giô-ha-nan, và Gia-đua, khi Đa-ri-út người Ba-tư làm vua. 23 Các trưởng gia đình giữa vòng người Lê-vi được ghi trong sách sử ký, nhưng chỉ ghi đến đời Giô-ha-nan, con của Ê-li-a-síp mà thôi. 24 Các lãnh tụ người Lê-vi là Ha-sa-bia, Sê-rê-bia, Giê-sua con Cát-miên và các thân nhân họ. Các thân nhân họ đứng đối diện họ và ca hát cảm tạ Thượng Đế. Hai nhóm đối đáp nhau theo như Đa-vít, người của Thượng Đế đã qui định.

25 Sau đây là những người gác cửa giữ kho vật liệu kế cận các cổng: Mát-ta-nia, Bác-bu-kia, Áp-đia, Mê-su-lam, Thanh-môn, và Ác-cúp. 26 Họ phục vụ trong thời Giô-gia-kim con Giê-sua, con Giô-xa-đác. Họ cũng phục vụ trong thời Nê-hê-mi làm quan tổng trấn và Ê-xơ-ra, thầy tế lễ và chuyên gia luật.

Lễ khánh thành vách thành Giê-ru-sa-lem

27 Khi vách thành Giê-ru-sa-lem được dâng lên cho Thượng Đế thì người ta yêu cầu người Lê-vi cư ngụ bất cứ đâu tề tựu về Giê-ru-sa-lem để hoan hỉ kỷ niệm lễ cung hiến vách thành. Họ kỷ niệm bằng các bài ca cảm tạ, dùng các nhạc cụ như chập chỏa, đờn cầm, và đờn sắt. 28 Người ta cũng mang các ca sĩ từ khắp nơi quanh Giê-ru-sa-lem về, từ các làng Nê-tô-pha-thít, 29 từ Bết Ghinh-ganh, và từ các vùng Ghê-ba và Ạc-ma-vết. Các ca sĩ đã xây dựng làng mạc riêng cho họ quanh Giê-ru-sa-lem. 30 Các thầy tế lễ và người Lê-vi tắm rửa sạch sẽ, họ cũng chuẩn bị cho dân chúng, cổng thành, và vách thành Giê-ru-sa-lem tinh sạch.

31 Tôi bảo các lãnh tụ của Giu-đa lên trên đỉnh vách, rồi tôi chỉ định hai ban hợp ca lớn hát tạ ơn. Một ban lên đứng trên đỉnh vách hướng về phía Cổng Rác. 32 Đi sau họ có Hô-sai-gia và phân nửa các lãnh tụ Giu-đa. 33 Cũng có A-xa-ria, E-xơ-ra, Mê-su-lam, 34 Giu-đa, Bên-gia-min, Sê-mai-gia, và Giê-rê-mi cùng đi. 35 Một số các thầy tế lễ thổi kèn cùng đi với Xa-cha-ri, con Giô-na-than. (Giô-na-than là con Sê-mai-gia, con Ma-tha-nia. Ma-tha-nia là con Mi-cai-gia, con Xa-cua. Xa-cua là con A-sáp.) 36 Các thân nhân Xa-cha-ri cũng đi chung. Những người đó là Sê-mai-gia, A-xa-rên, Mi-la-lai, Ghi-la-lai, Ma-ai, Nê-tha-nên, Giu-đa, và Ha-na-ni. Họ chơi các nhạc khí của Đa-vít, người của Thượng Đế, có giáo sư E-xơ-ra đi trước họ. 37 Họ đi từ Cổng Suối Nước thẳng các bực thềm lên điểm cao nhất của vách qua khu vực cũ của thành Đa-vít. Rồi họ đi phía trên nhà Đa-vít cho đến Cổng Nước về hướng đông.

38 Ban hát thứ nhì đi về phía trái trong khi tôi đi theo họ lên đỉnh vách thành với phân nửa số dân chúng. Chúng tôi đi từ Tháp Lò cho đến Vách Rộng, 39 qua Cổng Ép-ra-im cho đến Cổng Xưa và Cổng Cá, về phía Tháp Ha-na-nên và Tháp Một Trăm. Chúng tôi đi đến Cổng Chiên và dừng lại tại Cổng Gác.

40 Rồi hai ban hát bước vào chỗ trong đền thờ. Phân nửa các lãnh tụ và tôi cũng vậy. 41 Những thầy tế lễ sau đây cầm kèn: Ê-li-a-kim, Ma-a-sê-gia, Mi-ni-a-min, Mi-cai-gia, Ê-li-ô-ê-nai, Xa-cha-ri, và Ha-na-nia. 42 Những người sau đây cũng có mặt tại đó: Ma-a-sê-gia, Sê-mai-gia, Ê-lê-a-sa, U-xi, Giê-hô-ha-nan, Manh-ki-gia, Ê-lam, và Ê-xe.

Ban hợp ca hát lên dưới sự hướng dẫn của Giê-ra-hia. 43 Dân chúng dâng rất nhiều của lễ hôm đó. Mọi người đều hân hoan vì Thượng Đế ban cho họ niềm vui lớn. Đàn bà trẻ con cũng hớn hở. Tiếng reo vui ở Giê-ru-sa-lem vang ra rất xa.

44 Lúc đó các lãnh tụ đề cử người lo cho kho chứa. Các kho nầy dùng chứa các lễ vật, cây trái đầu mùa, và mười phần trăm phẩm vật dân chúng mang đến. Sách Giáo Huấn dạy rằng họ phải mang phần của các thầy tế lễ và người Lê-vi từ đồng ruộng quanh các thị trấn. Dân Giu-đa rất vui làm việc đó cho các thầy tế lễ và người Lê-vi là những người phục vụ. 45 Họ thi hành nhiệm vụ Thượng Đế giao cho để biến mọi vật thánh sạch. Các ca sĩ và người gác cổng cũng làm phận sự họ theo như Đa-vít đã truyền dặn con mình là Sô-lô-môn. 46 Trước đó trong thời Đa-vít và A-sáp, có trưởng ban nhạc chịu trách nhiệm các ca sĩ và các bài hát chúc tụng và tạ ơn Thượng Đế. 47 Trong thời Xê-ru-ba-bên và Nê-hê-mi cũng vậy. Toàn thể dân Ít-ra-en biếu các ca sĩ và các người gác cổng những tặng vật đồng thời dành phần riêng cho người Lê-vi. Rồi người Lê-vi dành phần riêng cho con cháu A-rôn.

Các người ngoại quốc bị trục xuất

13 Trong ngày đó họ đọc Sách Mô-se cho dân chúng nghe. Người ta thấy trong đó có ghi rằng đời đời không một người Am-môn hay Mô-áp nào được phép gia nhập vào cộng đồng của Thượng Đế. Vì người Am-môn và Mô-áp không đem thức ăn và nước uống chào đón dân Ít-ra-en. Ngược lại, họ thuê Ba-la-am nguyền rủa dân Ít-ra-en. (Nhưng Thượng Đế chúng tôi đã biến lời nguyền rủa ra phúc lành.) Khi dân chúng nghe điều dạy bảo nầy thì họ phân rẽ những người ngoại quốc ra khỏi Ít-ra-en.

Nê-hê-mi trở lại Giê-ru-sa-lem

Trước đó, thầy tế lễ Ê-li-a-síp, người quản lý kho chứa rất thân thiện với Tô-bia. Ê-li-a-síp cho phép Tô-bia sử dụng một trong các kho lớn. Trước kia kho đó dùng chứa của lễ chay, trầm hương, dụng cụ, một phần mười của lễ chay, rượu mới, và dầu ô liu của người Lê-vi, các ca sĩ, và những người gác cổng. Kho đó cũng được dùng để chứa các tặng phẩm của các thầy tế lễ.

Trong khi chuyện đó xảy ra thì tôi không có mặt tại Giê-ru-sa-lem. Tôi trở về gặp vua Ba-by-lôn vào năm thứ ba mươi hai [a] triều vua ấy. Sau cùng tôi xin phép vua cho tôi ra đi. Khi trở lại Giê-ru-sa-lem, tôi hay biết chuyện quấy Ê-li-a-síp làm tức là cho phép Tô-bia sử dụng một phòng trong sân đền thờ. Tôi rất bực mình về chuyện đó nên quăng đồ đạc của Tô-bia ra khỏi phòng. Tôi ra lệnh dọn sạch phòng đó rồi mang các dụng cụ dành cho đền thờ Thượng Đế, của lễ chay, và trầm hương vào.

10 Rồi tôi cũng khám phá rằng dân chúng không cấp cho người Lê-vi phần của họ. Cho nên một số người Lê-vi và các ca sĩ phục vụ trong đền thờ bỏ về với ruộng nương mình. 11 Tôi khiển trách các viên chức. Tôi hỏi, “Tại sao các anh không lo cho đền thờ?” Tôi liền triệu tập người Lê-vi và các ca sĩ lại, đặt họ vào các vai trò cũ.

12 Sau đó tất cả dân chúng trong Giu-đa mang vào kho một phần mười các mùa màng, rượu mới, và dầu ô liu của họ.

13 Tôi đặt những người sau đây lo cho kho chứa: Sê-lê-mai-gia, thầy tế lễ, Xa-đốc, chuyên gia luật, và Bê-đai-gia, người Lê-vi. Tôi chỉ định Ha-nan, con Xa-cua, con Ma-ta-nia, phụ giúp họ. Ai cũng biết những người nầy rất thanh liêm. Họ phân phát phần dành cho các thân nhân họ.

14 Thượng Đế ơi, xin nhớ đến tôi về điều nầy. Đừng quên lòng yêu mến của tôi cho đền thờ Ngài và các dịch vụ cho đền thờ.

15 Trong lúc đó tôi thấy mấy người Giu-đa làm việc nơi bàn ép rượu trong ngày Sa-bát. Họ mang lúa thóc và chất lên lưng lừa. Họ cũng mang rượu, nho, trái vả vào thành Giê-ru-sa-lem trong ngày Sa-bát. Tôi liền cảnh cáo họ về việc buôn bán thực phẩm trong ngày đó. 16 Dân cư từ thành Tia đang cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem cũng mang cá và những hàng hóa khác buôn bán với người Giu-đa trong ngày Sa-bát. 17 Tôi khiển trách những người có uy tín trong Giu-đa. Tôi hỏi, “Chuyện ác mấy anh đang làm đây nghĩa là gì? Mấy anh xem ngày Sa-bát cũng như các ngày khác. 18 Đó chính là điều tổ tiên các anh đã làm cho nên Thượng Đế trừng phạt chúng ta và thành phố nầy. Bây giờ mấy anh lại khiến Ngài nổi giận với dân Ít-ra-en thêm bằng cách làm nhơ nhớp ngày Sa-bát.”

19 Tôi liền ra lệnh đóng các cửa thành từ buổi chiều trước ngày Sa-bát và chỉ mở sau ngày Sa-bát mà thôi. Tôi đặt các đầy tớ tôi canh các cổng để không ai mang hàng hóa vào thành trong ngày Sa-bát. 20 Một vài lần các con buôn hàng hóa phải ngủ đêm ngoài thành Giê-ru-sa-lem. 21 Tôi liền cảnh cáo chúng, “Sao mấy anh ngủ đêm bên vách thành? Nếu mấy anh còn làm nữa tôi sẽ tống cổ mấy anh đi đó.” Từ đó về sau chúng không còn trở lại trong ngày Sa-bát nữa. 22 Rồi tôi ra lệnh cho người Lê-vi dọn mình cho sạch và canh gác cổng thành để giữ cho ngày Sa-bát được thánh.

Lạy Thượng Đế, xin nhớ đến tôi về điều nầy. Xin hãy tỏ lòng nhân ái đối với tôi vì tình yêu lớn lao của Ngài.

23 Trong thời gian đó tôi thấy mấy người Giu-đa lấy các phụ nữ Ách-đốt, Am-môn, và Mô-áp làm vợ. 24 Phân nửa con cái họ nói tiếng Ách-đốt hay vùng nào đó, chúng không biết nói tiếng Giu-đa. 25 Tôi trách móc, sỉ vả họ, đánh đập mấy người, giật tóc họ. Tôi bắt họ phải hứa với Thượng Đế rằng, “Không được gả con gái cho người ngoại quốc, cũng không cưới con gái người ngoại quốc cho con trai mình. 26 Chính các phụ nữ ngoại quốc đã khiến vua Sô-lô-môn của Ít-ra-en phạm tội. Trong các dân không có vua nào như người. Thượng Đế yêu mến Sô-lô-môn và đặt người làm vua trên cả Ít-ra-en nhưng các phụ nữ ngoại quốc xúi người phạm tội. 27 Mà bây giờ các anh bất tuân bằng cách làm điều ác nầy. Cưới vợ ngoại quốc là bất trung với Thượng Đế.”

28 Giô-gia-đa con Ê-li-a-síp là thầy tế lễ cả. Một trong các con trai Giô-gia-đa lấy con gái San-ba-lát, người Hô-rôn, làm vợ cho nên tôi đuổi nó đi khỏi mặt tôi.

29 Thượng Đế ơi, xin nhớ đến chúng nó là kẻ làm dơ bẩn chức tế lễ cùng khiến cho giao ước của thầy tế lễ và người Lê-vi ô dơ. 30 Cho nên tôi dọn sạch khỏi họ những gì có tính cách ngoại quốc. Tôi chỉ định nhiệm vụ cho thầy tế lễ và người Lê-vi, giao việc cho từng người. 31 Tôi cũng sắp xếp để người ta mang củi vào bàn thờ đều đặn và hoa quả đầu mùa cũng được mang vào đúng hạn.

Thượng Đế ơi, xin nhớ đến tôi; tỏ lòng nhân từ Ngài cùng tôi.

Footnotes

  1. Nê-hê-mi-a 13:6 năm thứ ba mươi hai Tức khoảng năm 432 trước Công nguyên.

Dân Số trong Thành Giê-ru-sa-lem Gia Tăng

11 Bấy giờ những người lãnh đạo của dân ở tại Giê-ru-sa-lem và dân còn lại đã bắt thăm với nhau, để cứ mười người thì một người sẽ sống tại thành thánh Giê-ru-sa-lem, còn chín người kia vẫn cứ sống trong các thành khác. Dân chúc phước cho những người tình nguyện dọn đến sống ở Giê-ru-sa-lem. Sau đây là danh sách các quan chức hàng tỉnh sống tại Giê-ru-sa-lem, nhưng dân I-sơ-ra-ên, các tư tế, những người Lê-vi, những người phục vụ Ðền Thờ, và dòng dõi của các tôi tớ Sa-lô-môn đều sống trong các thành của Giu-đa, ai nấy sống trong đất của mình và trong thành của mình.

Tại Giê-ru-sa-lem có một số con cháu của Giu-đa và một số con cháu của Bên-gia-min đến định cư.

Trong chi tộc Giu-đa có A-tha-gia con của U-xi-a, con của Xa-cha-ri-a, con của A-ma-ri-a, con của Sê-pha-ti-a, con của Ma-ha-la-lên, con cháu của Pê-rê, và Ma-a-sê-gia con của Ba-rúc, con của Côn Hô-xê, con của Ha-xa-gia, con của A-đa-gia, con của Giô-gia-ríp, con của Xa-cha-ri-a, con cháu của Si-lô-ni. Tổng số con cháu của Pê-rê sống tại Giê-ru-sa-lem được bốn trăm sáu mươi tám người dũng mãnh.

Trong chi tộc Bên-gia-min có Sanh-lu con của Mê-su-lam, con của Giô-ết, con của Pê-đa-gia, con của Cô-la-gia, con của Ma-a-sê-gia, con của I-thi-ên, con của Giê-sa-gia. Cùng đi theo ông có Ga-bai và Sanh-lai. Tất cả gồm chín trăm hai mươi tám chiến sĩ. Người chỉ huy đội quân này là Giô-ên con của Xích-ri; Giu-đa con của Ha-sê-nu-a làm phó thị trưởng.

10 Trong vòng các tư tế có Giê-đa-gia con của Giô-gia-ríp, Gia-kin, 11 Sê-ra-gia con của Hinh-ki-a, con của Mê-su-lam, con của Xa-đốc, con của Mê-ra-giốt, con của A-hi-túp, người quản lý nhà Ðức Chúa Trời, 12 cùng với những người bà con dòng họ của họ làm việc trong Ðền Thờ, tổng cộng được tám trăm hai mươi hai người. Ngoài ra có A-đa-gia con của Giê-rô-ham, con của Pê-la-li-a, con của Am-xi, con của Xa-cha-ri-a, con của Pát-khua, con của Manh-ki-gia, 13 cùng với những người bà con dòng họ của ông ấy, những tộc trưởng trong gia tộc của họ, tổng cộng được hai trăm bốn mươi hai người. Cũng có A-ma-sai con của A-xa-rên, con của A-xai, con của Mê-sin-lê-mốt, con của Im-me, 14 cùng với những người bà con dòng họ của ông ấy, những chiến sĩ dũng mãnh, tổng cộng được một trăm hai mươi tám người. Người lãnh đạo của họ là Xáp-đi-ên con của Ha-ghê-đô-lim.

15 Trong vòng những người Lê-vi có Sê-ma-gia con của Hạc-súp, con của A-xơ-ri-cam, con của Ha-sa-bi-a, con của Bun-ni. 16 Sa-bê-thai và Giô-xa-bát là hai người lãnh đạo của người Lê-vi làm những việc bên ngoài nhà Ðức Chúa Trời. 17 Mát-ta-ni-a con của Mi-ca, con của Xáp-đi, con của A-sáp, là trưởng ban hướng dẫn hội chúng dâng lời cầu nguyện cảm tạ; Bạc-bu-ki-gia làm phó ban trong vòng những người bà con dòng họ của ông ấy. Ngoài ra còn có Áp-đa con của Sam-mua, con của Ga-lanh, con của Giê-đu-thun. 18 Tổng số những người Lê-vi phục vụ trong thành thánh được hai trăm tám mươi bốn người.

19 Trong vòng những người giữ cửa có Ạc-cúp, Tanh-môn, và những người bà con dòng họ của họ lo việc canh gác ở các cửa, tổng cộng được một trăm bảy mươi hai người.

20 Những người còn lại của dân I-sơ-ra-ên, cùng với các tư tế và những người Lê-vi, tất cả đều sống trong các thành của Giu-đa, ai nấy đều sống trong sản nghiệp của mình. 21 Nhưng những người phục vụ Ðền Thờ đều sống ở Ô-phên. Xi-ha và Ghích-pa là hai người chỉ huy của họ.

22 Người lãnh đạo tất cả những người Lê-vi ở Giê-ru-sa-lem là U-xi con của Ba-ni, con của Ha-sa-bi-a, con của Mát-ta-ni-a, con của Mi-ca, tức con cháu của A-sáp, dòng dõi của những người phụ trách việc ca hát thờ phượng Ðức Chúa Trời tại Ðền Thờ. 23 Về những người ca hát thờ phượng, vua truyền lịnh phải cung cấp một phần cố định hằng ngày cho họ.

24 Ngoài ra Pê-tha-hi-a con của Mê-sê-xa-bên, dòng dõi của Xê-ra, con cháu của Giu-đa, đã được vua lập làm người giải quyết mọi việc cho dân.

Các Vùng Ðịnh Cư Bên Ngoài Giê-ru-sa-lem

25 Về các làng mạc và các cánh đồng trực thuộc, một số con cháu của Giu-đa định cư tại Ki-ri-át Ạc-ba và các thị trấn trực thuộc, Ði-bôn và các thị trấn trực thuộc, Giê-cáp-xê-ên và các làng trực thuộc, 26 Giê-sua, Mô-la-đa, Bết Pê-lết, 27 Ha-xa Su-anh, Bê-e Sê-ba và các thị trấn trực thuộc, 28 Xích-lắc, Mê-cô-na và các thị trấn trực thuộc, 29 Ên Rim-môn, Xô-ra, Giạc-mút, 30 Xa-nô-a, A-đu-lam và các làng trực thuộc, La-kích và những cánh đồng trực thuộc, A-xê-ca và các làng trực thuộc. Như vậy con cháu của Giu-đa định cư từ Bê-e Sê-ba cho đến Thung Lũng của Hin-nôm.

31 Con cháu của Bên-gia-min định cư từ Ghê-ba trở đi, tại Mích-mát, Ai-gia, Bê-tên và các làng trực thuộc, 32 A-na-thốt, Nốp, A-na-ni-a, 33 Ha-xơ, Ra-ma, Ghi-ta-im, 34 Ha-đi, Xê-bô-im, Nê-ba-lát, 35 Lốt, Ô-nô, và Thung Lũng của Các Nghệ Nhân.

36 Một số gia tộc người Lê-vi được cắt cử từ Giu-đa đến sống giữa người Bên-gia-min.

Danh Sách Các Tư Tế và Những Người Lê-vi

12 Sau đây là các tư tế và những người Lê-vi đã hồi hương với Xê-ru-ba-bên con của Sê-anh-ti-ên và với Giê-sua:

Sê-ra-gia, Giê-rê-mi, Ê-xơ-ra, A-ma-ri-a, Manh-lúc, Hát-túc, Sê-ca-ni-a, Rê-hum, Mê-rê-mốt, I-đô, Ghin-nê-thôi, A-bi-gia, Mi-gia-min, Ma-a-đi-a, Bin-ga, Sê-ma-gia, Giô-gia-ríp, Giê-đa-gia, Sanh-lu, A-mốc, Hinh-ki-a, Giê-đa-gia. Ðó là những người lãnh đạo các tư tế và những người cộng sự của họ trong thời của Giê-sua.

Về những người Lê-vi có Giê-sua, Bin-nui, Cát-mi-ên, Sê-rê-bi-a, Giu-đa, và Mát-ta-ni-a. Mát-ta-ni-a là người lãnh đạo những người cộng tác với ông trong việc ca ngợi thờ phượng. Bác-bu-ki-a và Un-nô cùng những người bà con dòng họ của họ đứng đối diện nhau trong khi hành lễ.

10 Giê-sua sinh Giô-gia-kim. Giô-gia-kim sinh Ê-li-a-síp. Ê-li-a-síp sinh Giô-gia-đa. 11 Giô-gia-đa sinh Giô-na-than. Giô-na-than sinh Gia-đua.

12 Trong thời của Giô-gia-kim, các tư tế sau đây là trưởng tộc trong gia tộc của họ: gia tộc Sê-ra-gia, Mê-ra-gia; gia tộc Giê-rê-ni-a, Ha-na-ni-a; 13 gia tộc Ê-xơ-ra, Mê-su-lam; gia tộc A-ma-ri-a, Giê-hô-ha-nan; 14 gia tộc Manh-lu-ki, Giô-na-than; gia tộc Sê-ba-ni-a, Giô-sép; 15 gia tộc Ha-rim, Át-na; gia tộc Mê-ra-giốt, Hên-cai; 16 gia tộc I-đô, Xa-cha-ri; gia tộc Ghin-nê-thôn, Mê-su-lam; 17 gia tộc A-bi-gia, Xích-ri; gia tộc Mi-ni-a-min và gia tộc Mô-a-đi-a, Pin-tai; 18 gia tộc Bin-ga, Sam-mua; gia tộc Sê-ma-gia, Giê-hô-na-than; 19 gia tộc Giô-gia-ríp, Mát-tê-nai; gia tộc Giê-đa-gia, U-xi; 20 gia tộc Sanh-lai, Canh-lai; gia tộc A-mốc, Ê-be; 21 gia tộc Hinh-ki-a, Ha-sa-bi-a; gia tộc Giê-đa-gia, Nê-tha-nên.

22 Về những người Lê-vi, trong thời của Ê-li-a-síp, Giô-gia-đa, Giô-ha-nan, và Gia-đua, người ta ghi vào sổ bộ những người trưởng tộc của gia tộc họ. Các tư tế cũng được ghi tên vào sổ bộ cho đến triều đại của Ða-ri-út người Ba-tư.

23 Về con cháu của Lê-vi, các trưởng tộc của gia tộc của họ được ghi tên vào Sách Sử Ký cho đến thời của Giô-ha-nan con của Ê-li-a-síp. 24 Những người lãnh đạo của người Lê-vi gồm có: Ha-sa-bi-a, Sê-rê-bi-a, và Giê-sua con của Cát-mi-ên, cùng với những người bà con dòng họ của họ đứng đối diện với họ để ca ngợi và dâng lời tạ ơn theo như lịnh của Ða-vít, người của Ðức Chúa Trời. Họ chia ra thành bè đứng ca hát đối đáp với nhau.

25 Mát-ta-ni-a, Bạc-bu-ki-a, Ô-ba-đi-a, Mê-su-lam, Tanh-môn, và Ạc-cúp là những người giữ cửa; họ đứng gác ở các nhà kho gần các cổng. 26 Những người ấy phục vụ trong thời của Giô-gia-kim con của Giê-sua, con của Giô-xa-đác, và trong thời của Nê-hê-mi làm tổng trấn và Tư Tế Ê-xơ-ra làm giáo sư kinh luật.

Lễ Khánh Thành Tường Thành Giê-ru-sa-lem

27 Khi ấy có lễ khánh thành bức tường bao quanh Thành Giê-ru-sa-lem. Người ta tìm những người Lê-vi khắp nơi họ ở, đưa họ về Giê-ru-sa-lem để tổ chức lễ khánh thành, hầu mừng tường thành đã được xây lại xong. Người ta tổ chức những chương trình tạ ơn có ca hát, phối hợp với các khánh chiêng, các hạc cầm, và các đàn lia. 28 Con cháu của những người ca hát từ các miền phụ cận Giê-ru-sa-lem và từ các làng của người Nê-tô-pha tập họp về. 29 Họ cũng từ Bết Ghinh-ganh, từ những cánh đồng ở Ghê-ba và A-ma-vét kéo đến, vì những người ca hát đã thành lập các làng của họ quanh Giê-ru-sa-lem. 30 Khi ấy các tư tế và những người Lê-vi đã thanh tẩy chính họ, sau đó họ thanh tẩy dân chúng, các cổng thành, và tường thành.

31 Tôi đưa những người lãnh đạo của Giu-đa lên tường thành và tổ chức hai đại ca đoàn để rước lễ tạ ơn. Một đại ca đoàn đi trên tường thành tiến về hướng nam, tức về phía Cổng Phân. 32 Ði theo đại ca đoàn đó có Hô-sai-a và phân nửa những người lãnh đạo Giu-đa, 33 cùng với A-xa-ri-a, Ê-xơ-ra, Mê-su-lam, 34 Giu-đa, Bên-gia-min, Sê-ma-gia, và Giê-rê-mi. 35 Tháp tùng có ban kèn của các tư tế, cũng có Xa-cha-ri-a con của Giô-na-than, con của Sê-ma-gia, con của Mát-ta-ni-a, con của Mi-cai-a, con của Xác-cua, con của A-sáp, 36 cùng với những người bà con dòng họ của ông ấy là Sê-ma-gia, A-xa-rên, Mi-la-lai, Ghi-la-lai, Ma-ai, Nê-tha-nên, Giu-đa, và Ha-na-ni sử dụng các nhạc khí của Ða-vít, người của Ðức Chúa Trời. Họ có Ê-xơ-ra giáo sư kinh luật dẫn đầu. 37 Khi đến Cổng Suối Nước, họ tiến thẳng về phía trước, đi lên các bậc thềm của Thành Ða-vít, và tiến lên đầu tường. Họ tiếp tục đi trên tường thành phía sau cung Vua Ða-vít và tiến về Cổng Nước ở hướng đông.

38 Còn đại ca đoàn kia thì đi ngược hướng với họ. Tôi dẫn phân nửa những người còn lại đi theo sau họ trên tường thành, tiến qua Tháp Các Lò, đến chỗ Tường Rộng, 39 qua Cổng Ép-ra-im, qua Cổng Cũ, qua Cổng Cá, qua Tháp Ha-na-nên, qua Tháp Một Trăm, đến Cổng Chiên, và họ dừng lại ở Cổng Lính Canh.

40 Kế đến hai đoàn trỗi tiếng cảm tạ và cùng tiến vào khu Ðền Thờ Ðức Chúa Trời. Tôi và phân nửa những người lãnh đạo đi với tôi cũng làm như vậy; 41 chúng tôi đi với các vị tư tế: Ê-li-a-kim, Ma-a-sê-a, Mi-ni-a-min, Mi-cai-a, Ê-li-ô-ê-nai, Xa-cha-ri-a, và Ha-na-ni-a, những người sử dụng kèn, 42 và quý ông Ma-a-sê-gia, Sê-ma-gia, Ê-lê-a-xa, U-xi, Giê-hô-ha-nan, Manh-ki-gia, Ê-lam, và Ê-xe. Trong khi đó Giê-ra-hi-a hướng dẫn ca đoàn lớn tiếng ca hát vang lừng. 43 Ngày hôm đó họ dâng nhiều của lễ và rất đỗi vui mừng vì Ðức Chúa Trời đã ban cho họ một niềm vui lớn. Cả phụ nữ lẫn trẻ em đều cũng vui mừng hoan hỉ. Niềm vui của Giê-ru-sa-lem đã vang rộng khắp nơi.

Những Người Phục VụChúaÐược Phụ Cấp

44 Ngày hôm đó một số người được lập làm những người quản lý các phòng dùng làm nhà kho để chứa các của dâng, các hoa lợi đầu mùa, và các của dâng một phần mười. Họ thâu nhận vào các phòng đó những phần được luật pháp quy định dành cho các tư tế và những người Lê-vi, tức những sản phẩm của các ruộng rẫy trực thuộc các thành, vì mọi người ở Giu-đa đều vui thỏa về sự phục vụ của các tư tế và những người Lê-vi. 45 Họ đã thi hành chức vụ Ðức Chúa Trời giao phó cho họ, và họ đã thi hành nghi thức thanh tẩy một cách tốt đẹp. Những người ca hát và những người giữ cửa cũng thi hành chức vụ rất hoàn hảo theo như lịnh của Ða-vít và của Sa-lô-môn con vua ấy. 46 Số là trong thời của Ða-vít và A-sáp rất lâu về trước, có người đã được lập làm người chỉ huy những người ca hát, và có những bài thánh ca đã được dùng để ca ngợi và tạ ơn Ðức Chúa Trời. 47 Trong thời của Xê-ru-ba-bên và trong thời của Nê-hê-mi, toàn dân I-sơ-ra-ên đã dành riêng những phần phụ cấp để chu cấp hằng ngày cho những người ca hát và những người giữ cửa. Họ biệt riêng phần của những người Lê-vi ra. Những người Lê-vi lại trích ra từ phần của họ để chia sẻ cho các con cháu của A-rôn.

Tách Rời Những Người Dị Chủng Không Thờ CHÚA

13 Ngày hôm đó họ đọc trong sách của Môi-se cho dân nghe. Họ khám phá trong sách đó viết rằng không một người Am-môn hay một người Mô-áp nào được vào hội của Ðức Chúa Trời, vì chúng đã không dùng bánh và nước tiếp đãi dân I-sơ-ra-ên, ngược lại, chúng đã mướn Ba-la-am đến nguyền rủa họ. Dầu vậy Ðức Chúa Trời của chúng tôi đã biến sự nguyền rủa đó ra một phước hạnh. Khi dân I-sơ-ra-ên nghe luật pháp nói như thế, họ tự động tách rời khỏi mọi người ngoại quốc sống giữa họ.

Cải Cách Khác của Nê-hê-mi

Trước lúc đó Tư Tế Ê-li-a-síp, người được lập lên để coi sóc các phòng kho cho nhà Ðức Chúa Trời của chúng tôi, và ông lại là một đồng minh của Tô-bi-a. Ông đã tự ý dành riêng cho Tô-bi-a một phòng lớn, đó là phòng trước kia được dùng để chứa các của lễ chay, nhũ hương, các vật dụng của Ðền Thờ, các của dâng một phần mười về lúa gạo, rượu, và dầu, mà theo điều răn thì phải dành cho những người Lê-vi, những người ca hát, và những người giữ cửa, và để chứa các lễ vật được chia cho các tư tế. Việc ấy đã xảy ra khi tôi không có mặt tại Giê-ru-sa-lem, vì năm thứ ba mươi hai của Ạc-ta-xẹc-xe vua Ba-by-lôn tôi phải trở về chầu vua. Sau một thời gian tôi xin phép vua được ra đi nữa. Tôi về lại Giê-ru-sa-lem và biết được việc tồi tệ mà Ê-li-a-síp đã làm khi ưu đãi Tô-bi-a, tức dành riêng cho hắn một phòng trong sân của Ðền Thờ Ðức Chúa Trời. Tôi rất giận về việc ấy, nên tôi quăng tất cả đồ đạc của Tô-bi-a ra khỏi phòng. Kế đó tôi truyền lịnh thanh tẩy các phòng ấy và đem vào lại các phòng ấy những vật dụng của nhà Ðức Chúa Trời, cùng với các của lễ chay và nhũ hương. 10 Tôi cũng được biết những người Lê-vi đã không nhận được phần của dâng dành cho họ, nên tất cả người Lê-vi và những người ca hát đã trở về làm ruộng. 11 Vì thế tôi quở trách những người lãnh đạo của dân và hỏi họ, “Tại sao nhà Ðức Chúa Trời lại bị bỏ bê?” Sau đó tôi mời những người Lê-vi và những người ca hát đến và tái lập họ vào chức vụ của họ khi trước. 12 Thấy vậy toàn dân Giu-đa đem một phần mười lúa gạo, rượu, và dầu đến dâng vào các kho của Ðền Thờ. 13 Tôi lập Tư Tế Sê-lê-mi-a, Giáo Sư Kinh Luật Xa-đốc, và một người Lê-vi tên Pê-đa-gia làm các thủ kho của các kho Ðền Thờ. Ngoài ra có Ha-nan con của Xác-cua, con của Mát-ta-ni-a, làm phụ tá cho họ, vì những người ấy được xem là đáng tin cậy. Nhiệm vụ của họ là phân chia các của dâng cho các anh em cùng phục vụ với họ.

14 “Lạy Ðức Chúa Trời của con, xin nhớ đến con trong việc này, và xin đừng xóa bỏ những hành vi tốt đẹp này của con, mà con đã làm cho nhà Ðức Chúa Trời của con và cho sự phục vụ Ngài tại đó.”

Áp Dụng Triệt Ðể Luật Ngày Sa-bát

15 Trong những ngày ấy tôi thấy có mấy người Giu-đa đạp nho nơi bồn ép nho trong ngày Sa-bát; có người đã chất những bó lúa trên lưng lừa; có những người khác lại bắt lừa chở các vò rượu, các thùng nho, các thùng trái vả, và những bao sản phẩm nặng nề đem vào Giê-ru-sa-lem trong ngày Sa-bát. Vì thế tôi cảnh cáo họ trong ngày họ đem lương thực đến bán. 16 Một số người quê ở Ty-rơ đang cư ngụ trong miền đó cũng đem cá và các thứ hàng hóa đến bán cho dân Giu-đa ở Giê-ru-sa-lem trong ngày Sa-bát. 17 Thấy vậy tôi quở trách các nhà quyền quý của Giu-đa và nói với họ, “Việc tồi tệ này mà các ông đã làm cho ngày Sa-bát phải ra phàm tục là gì vậy? 18 Há chẳng phải vì tổ tiên của các ông đã làm như thế mà Ðức Chúa Trời chúng ta đã đem tất cả các tai họa này giáng xuống trên chúng ta và trên thành này hay sao? Ðã vậy bây giờ các ông còn muốn gia thêm cơn thịnh nộ cho dân I-sơ-ra-ên bằng cách làm cho ngày Sa-bát trở nên phàm tục hay sao?”

19 Kể từ đó tại các cổng thành Giê-ru-sa-lem, mỗi khi trời bắt đầu tối trước ngày Sa-bát, tôi ra lịnh đóng tất cả các cổng thành lại và chỉ mở ra khi ngày Sa-bát đã qua rồi. Tôi cũng đặt các tôi tớ của tôi ở các cổng thành, để không cho ai mang vật gì nặng vào thành trong ngày Sa-bát. 20 Vì thế các thương gia và những người bán đồ tạp hóa đã đôi phen phải qua đêm bên ngoài cổng thành. 21 Thấy vậy tôi cảnh cáo họ và nói, “Tại sao các người đã qua đêm ở bên ngoài cổng thành? Nếu các người còn tiếp tục làm thế, tôi sẽ thẳng tay đấy.” Từ đó trở đi họ không đến trong ngày Sa-bát nữa. 22 Sau đó tôi truyền cho những người Lê-vi hãy thanh tẩy chính họ, rồi đến canh gác ở các cổng thành, để giữ ngày Sa-bát ra thánh.

“Lạy Ðức Chúa Trời của con, xin nhớ đến con trong việc này nữa, và xin ban phước cho con theo tình thương vô lượng của Ngài.”

Phản Ðối Những Cuộc Hôn Nhân Dị Chủng và Dị Giáo

23 Trong những ngày ấy tôi thấy các đàn ông Do-thái cưới các phụ nữ Ách-đốt, Am-môn, và Mô-áp làm vợ. 24 Phân nửa con cái của họ chỉ nói được tiếng Ách-đốt và không nói được tiếng Giu-đa. Chúng chỉ nói được tiếng của mẹ chúng, những người thuộc các giống dân khác không tin thờ Chúa. 25 Vì thế tôi đã tranh luận với họ, nguyền rủa họ, đánh đập một vài người trong bọn họ, và bứt tóc họ. Tôi bắt họ lấy danh Ðức Chúa Trời mà thề sẽ không làm như thế nữa. Tôi nói với họ, “Các ông không được gả con gái của các ông cho con trai của chúng, hay cưới con gái của chúng cho con trai của các ông hoặc cho chính các ông. 26 Há chẳng phải Sa-lô-môn vua I-sơ-ra-ên đã phạm tội vì những phụ nữ như thế sao? Giữa nhiều quốc gia, không một vua nào được như ông ấy. Ông ấy đã được Ðức Chúa Trời của mình yêu thương, và Ðức Chúa Trời đã lập ông ấy làm vua trên cả I-sơ-ra-ên. Nhưng các phụ nữ ngoại quốc không tin thờ Chúa đã làm cho ông ấy phạm tội. 27 Thế thì chúng ta há sẽ hành động bội nghịch chống lại Ðức Chúa Trời chúng ta, mà cưới những người phụ nữ ngoại quốc không tin thờ Ngài hay sao?”

28 Một trong các con trai của Giê-hô-gia-đa, con của Thượng Tế Ê-li-a-síp, đã làm con rể của San-ba-lát người Hô-rô-ni. Vì thế tôi đã đuổi hắn đi khỏi tôi.

29 “Lạy Ðức Chúa Trời của con, xin nhớ đến họ, vì họ đã làm bất khiết chức vụ tư tế; họ đã vi phạm quy luật đặc biệt dành cho các tư tế và những người Lê-vi.”

30 Như vậy tôi đã loại sạch tất cả những ai ngã theo ngoại giáo do mối liên hệ hôn nhân với các dân ngoại không tin thờ Chúa. Tôi thiết lập rõ ràng nhiệm vụ của các tư tế và những người Lê-vi, đúng theo phần việc của mỗi người. 31 Tôi tổ chức việc cung cấp củi theo định kỳ cho việc dâng của lễ, và tái lập việc dâng hiến các trái cây đầu mùa.

“Lạy Ðức Chúa Trời của con, xin nhớ đến con và ban phước cho con.”

Lời cầu xin Chúa mang dân Ngài trở về

Bài ca khi đang đi lên đền thờ.

126 Lúc Chúa mang các tù nhân trở về Giê-ru-sa-lem [a],
    thì chúng tôi tưởng như đang nằm mơ.
Chúng tôi vui cười sung sướng,
    hát lên bài ca hân hoan.
Các nước khác thấy thế liền nói,
    “Chúa đã làm các việc lớn cho họ.”
Chúa đã làm những việc lớn lao cho chúng ta,
    chúng ta lấy làm mừng rỡ.

Chúa ôi, xin mang các tù nhân chúng tôi về,
    như Ngài đã mang suối nước vào sa mạc.
Kẻ nào vừa trồng vừa khóc,
    sẽ hát mừng vào mùa gặt.
Kẻ vừa gieo giống [b] vừa rơi nước mắt,
    sẽ trở về vui hát, mang bó lúa mình.

Footnotes

  1. Thánh Thi 126:1 trở về Giê-ru-sa-lem Hay “khi CHÚA phục hồi lại Xi-ôn.” Xem chữ “Xi-ôn” trong Bảng Giải Thích Từ Ngữ.
  2. Thánh Thi 126:6 gieo giống Hay “mang theo của cải.”

Cảm Tạ Chúa Vì Những Người Bị Lưu Ðày Ðược Hồi Hương

Bài ca đi lên đền thánh

Khi Chúa đem những người của Si-ôn bị lưu đày trở về,
Chúng tôi như người nằm mơ.
Miệng chúng tôi vui cười không ngớt;
Lưỡi chúng tôi lớn tiếng reo mừng.
Bấy giờ người ta bàn tán với nhau giữa các dân rằng,
Chúa đã làm những việc lớn lao cho họ.”
Chúa đã làm những việc lớn lao cho chúng tôi;
Chúng tôi rất đỗi vui mừng!

Lạy Chúa, xin tiếp tục cho những người bị lưu đày trở về,
Như nước mưa đổ vào những dòng suối cạn ở Miền Nam.[a]

Những người gieo giống trong nước mắt,
Ắt sẽ gặt hái trong tiếng reo mừng.
Người nào vừa đi vừa khóc đem giống ra rải,
Chắc chắn sẽ trở về với tiếng reo mừng,
Mang đầy những bó lúa chín vàng.

Footnotes

  1. Thánh Thi 126:4 nt: Negev, chỉ về miền nam xứ Do Thái. Thời xưa miền đó có tiếng là vùng khô khan cằn cỗi