Add parallel Print Page Options

Giê-ru-sa-lem trước đây đông đảo dân cư,
    nhưng nay trở thành hoang vắng.
Giê-ru-sa-lem xưa kia là một trong những thành phố lớn trên thế giới,
    nhưng nay nó chẳng khác nào đàn bà góa.
Xưa kia nó là công chúa của các thành phố,
    nhưng nay nó chỉ là tôi mọi.
Ban đêm nó khóc than,
    nước mắt chảy đầm đìa xuống má.
Chẳng ai an ủi nó;
    các người yêu nó không còn.
Bạn bè đều phản nó
    trở thành thù nghịch nó.
Giu-đa đã bị bắt làm tù binh,
    nơi nó đang chịu lao khổ.
Nó sống giữa các dân khác,
    nhưng không tìm được sự an nghỉ.
Những kẻ đuổi theo đã bắt được nó
    đang khi nó gặp khốn đốn [a].

Đường sá dẫn đến Giê-ru-sa-lem rất quạnh hiu,
    vì không còn ai đến để dự lễ của nó.
Chẳng thấy bóng ai qua lại các cổng nó.
    Các thầy tế lễ nó than vãn,
Các gái tơ của nó đã bị bắt đi [b],
    khiến Giê-ru-sa-lem vô cùng sầu não.

Kẻ thù nó nay là chủ nhân ông nó.
    Chúng hưởng thụ những của cải cướp được.
CHÚA đang trừng phạt nó vì tội nó.
    Con cái nó đã bị đày đi làm tù binh cho quân thù.

Vẻ đẹp của Giê-ru-sa-lem [c] đã tan biến rồi.
    Các quan cai trị nó như nai tìm không ra cỏ.
Chúng yếu ớt, không thể chạy thoát khỏi kẻ săn đuổi chúng.
Giê-ru-sa-lem chịu khốn khổ và không nhà cửa.
    Nó nhớ lại thời vàng son trước kia.
Nay dân cư nó đã bị kẻ thù đánh bại,
    không ai cứu giúp nó.
Khi kẻ thù nhìn thấy nó,
    liền nhạo cười vì nó điêu tàn rồi.

Giê-ru-sa-lem phạm tội quá lắm,
    nó không còn tinh sạch nữa.
Những kẻ trước kia tôn trọng nó nay trở lại ghét bỏ nó,
    vì họ đã nhìn thấy sự trần truồng của nó.
Nó than van và quay mặt đi.

Nó tự làm dơ bẩn vì tội lỗi mình
    và không biết số phận mình ra sao.
Sự sụp đổ của nó thật đáng ngạc nhiên,
    không ai an ủi nó.
Nó than, “CHÚA ôi, tôi đang đau khổ!
    Kẻ thù tôi đang thắng thế.”

10 Kẻ thù cướp lấy hết các của báu nó.
Thậm chí nó nhìn thấy người ngoại quốc
    bước vào đền thờ mình.
CHÚA đã cấm người ngoại quốc
    không bao giờ được bước chân vào nơi họp của dân Ngài.

11 Tất cả dân cư Giê-ru-sa-lem than van, tìm kiếm thức ăn.
Họ lấy những vật quí của mình
    đổi chác thức ăn để sống còn.
Thành phố ấy nói, “Lạy CHÚA, xin hãy nhìn.
    Người ta ghét tôi.”

12 Giê-ru-sa-lem nói, “Các ngươi là kẻ qua lại trên đường
    mà không thèm để ý.
    Hãy đến nhìn tôi đây:
Có ai chịu khốn khổ như tôi không?
    Có ai phải gánh chịu sự đau khổ mà Ngài đặt trên tôi không?
Trong ngày thịnh nộ lớn của CHÚA,
    Ngài đã trừng phạt tôi.

13 Ngài sai lửa từ trời xuống,
    thiêu đốt xương cốt tôi.
Ngài giăng lưới dưới chân tôi
    khiến tôi quay trở về.
CHÚA khiến tôi buồn thảm và cô đơn
    đến nỗi tôi kiệt lực suốt ngày.

14 Ngài biết các tội lỗi tôi;
    tay Ngài bó chúng lại;
chúng đeo quanh cổ tôi.
    Ngài biến sức lực tôi ra yếu ớt.
Ngài trao tôi vào tay kẻ mạnh hơn tôi.

15 CHÚA đã gạt bỏ những người mạnh dạn
    trong vách thành tôi.
Ngài đưa đạo quân đến chống nghịch tôi
    để tiêu diệt các trai tráng của tôi.
CHÚA đã đè bẹp thủ đô của Giu-đa [d],
    như bàn ép rượu.

16 Tôi than van về những điều ấy;
    mắt tôi đẫm lệ.
Nào ai gần gũi để an ủi tôi,
    chẳng ai phục hồi sức lực cho tôi.
Con cái tôi như đất bỏ hoang,
    vì kẻ thù đã thắng thế.”

17 Giê-ru-sa-lem giơ tay ra,
    nhưng không ai an ủi nó.
CHÚA đã truyền cho các kẻ thù của dân Gia-cốp vây hãm họ.
Giê-ru-sa-lem hiện cũng ô dơ
    như những kẻ quanh mình.

18 Giê-ru-sa-lem nói, “CHÚA hành động rất đúng,
    nhưng tôi không vâng lời Ngài.
Toàn dân, hãy nghe đây,
    hãy nhìn nỗi khốn khổ ta.
Các thanh niên thiếu nữ ta
    đã bị bắt làm tù binh.

19 Ta kêu cứu cùng bạn ta,
    nhưng họ đều nghịch lại ta.
Các thầy tế lễ và các bô lão ta
    đều đã chết trong thành
trong lúc tìm thức ăn để sống còn.

20 Lạy Chúa, xin hãy nhìn tôi.
    Tôi lo lắng và vô cùng bối rối.
Lòng tôi lo âu,
    vì tôi đã quá ngoan cố.
Ngoài đường phố thì gươm giết;
    bên trong nhà thì chết chóc hoành hành.

21 Xin hãy nghe tiếng tôi than vãn,
    không ai an ủi tôi.
Tất cả các kẻ thù tôi đều nghe biết sự khốn khổ tôi,
    chúng mừng rỡ vì Ngài đã làm điều ấy cho tôi.
Ngài bảo rằng sẽ có thời kỳ trừng phạt,
    Ngài nói rằng Ngài sẽ trừng phạt kẻ thù tôi.
Bây giờ xin hãy thực hiện lời CHÚA đã tuyên bố,
    rằng kẻ thù tôi sẽ gặp cảnh ngộ như tôi.

22 Xin hãy xem xét điều ác của chúng nó.
    Hãy làm cho chúng nó
    như Ngài đã làm cho tôi vì tội lỗi tôi.
Tôi than vãn đi than vãn lại,
    lòng tôi đâm ra sợ hãi.”

Chúa tiêu diệt Giê-ru-sa-lem

Hãy xem Chúa đã làm nhục Giê-ru-sa-lem [e]
    trong cơn thịnh nộ Ngài.
Ngài đã ném sự cao trọng của Ít-ra-en
    từ trời xuống đất;
Ngài không nhớ lại đền thờ là bệ chân [f] Ngài nữa,
    trong ngày CHÚA nổi thịnh nộ.

Chúa đã tiêu diệt các nhà cửa của Gia-cốp,
    không thương tiếc;
trong cơn giận, Ngài giật sập những nơi vững chắc của Giu-đa [g].
Ngài ném quốc gia và các quan cai trị nó xuống đất để làm nhục nó.

Trong cơn giận Ngài đã phá hủy nhà cửa của Ít-ra-en,
    không chút thương tiếc.
Trong cơn thịnh nộ Ngài ném nước Giu-đa và các lãnh tụ nó xuống đất.

Ngài nhắm cung tên như kẻ thù,
    tay Ngài nghịch lại chúng ta.
Giống như kẻ thù,
    Ngài giết tất cả những trai tráng khoẻ mạnh;
Ngài trút cơn giận ra như lửa đổ trên các lều trại của Giê-ru-sa-lem.

Chúa giống như kẻ thù;
    Ngài nuốt sống Ít-ra-en.
Ngài tiêu diệt các cung điện nó
    và tiêu diệt các đồn lũy nó.
Ngài gây ra thêm tiếng kêu than trong đất Giu-đa.

Ngài chặt đền thờ [h] ra như mảnh vườn;
    Ngài dẹp phá nơi hội họp.
CHÚA đã làm cho Giê-ru-sa-lem
    quên những ngày lễ định sẵn và ngày Sa-bát.
Trong cơn thịnh nộ,
    Ngài gạt bỏ vua và thầy tế lễ.

Chúa cũng đã gạt bỏ bàn thờ
    và bỏ phế đền thờ Ngài.
Ngài đã giao vách của các cung điện trong Giê-ru-sa-lem cho kẻ thù.
Tiếng huyên náo trong đền thờ CHÚA
    nghe như tiếng liên hoan ăn mừng lễ lộc.

CHÚA dự định phá sập vách thành bao quanh Giê-ru-sa-lem.
Ngài đã đo vách
    và nhất quyết phá sập nó.
Ngài khiến các vách và hàng rào phòng thủ buồn thảm;
    tất cả đều ngã sập.

Các cổng thành Giê-ru-sa-lem sập xuống đất;
    Ngài đã tiêu diệt và bẻ gãy các thanh gài cổng nó.
Vua và các hoàng tử nó lưu vong giữa các dân.
    Lời giáo huấn của CHÚA đã ngưng,
và các tiên tri cũng không còn thấy dị tượng từ CHÚA nữa.

10 Các bô lão trong Giê-ru-sa-lem ngồi im lặng dưới đất.
    Họ phủ bụi trên đầu,
và mặc quần áo bằng vải sô
    để chứng tỏ lòng buồn thảm.
Các thiếu nữ Giê-ru-sa-lem
    đi cúi gầm mặt xuống đất rầu rĩ.

11 Mắt tôi không còn rơi lụy nữa,
    tôi đã ngấy lắm rồi.
Tôi cảm thấy lòng trống rỗng,
    vì dân tôi đã bị tiêu diệt.
Các trẻ thơ và hài nhi ngất xỉu trong đường phố.

12 Chúng hỏi mẹ chúng,
    “Cơm gạo và rượu đâu hả mẹ?”
Chúng ngất xỉu như những binh sĩ bị thương
    trong các đường phố,
rồi chết trong tay mẹ mình.

13 Hỡi Giê-ru-sa-lem, ta sẽ nói gì về ngươi?
    Ta sẽ so sánh ngươi với cái gì?
Ngươi giống ai?
    Hỡi Giê-ru-sa-lem, làm sao ta an ủi ngươi được?
Sự điêu tàn ngươi thật sâu hơn biển cả.
    Không ai chữa lành ngươi nổi.

14 Các nhà tiên tri ngươi đã thấy dị tượng,
    nhưng là dị tượng giả, không có giá trị gì.
Các dị tượng đó không phơi bày tội lỗi ngươi, để giúp ngươi khỏi bị bắt.
Mà chỉ là những điều giả dối
    hướng dẫn ngươi đi lầm lạc.

15 Ai đi qua lại trên đường
    đều vỗ tay trêu chọc ngươi;
Chúng chế giễu Giê-ru-sa-lem và lắc đầu.
Chúng hỏi nhau,
“Đây có phải là nơi mà người ta gọi là thành phố đẹp nhất,
    nơi phúc hạnh nhất trên đất không?”

16 Tất cả các kẻ thù ngươi mở miệng chống nghịch ngươi.
    Chúng chế giễu và nghiến răng giận dữ.
Chúng bảo, “Chúng ta đã nuốt sống ngươi.
    Đây là ngày chúng ta mong đợi!
Rốt cuộc chúng ta thấy nó đã đến.”

17 CHÚA đã làm điều Ngài dự định;
    Ngài đã giữ lời hứa Ngài đã phán từ xưa.
Ngài đã hủy phá không thương tiếc,
    Ngài đã để kẻ thù cười nhạo ngươi.
Ngài thêm sức mạnh cho kẻ thù.

18 Dân chúng kêu la [i] cùng CHÚA.
    Hỡi vách thành Giê-ru-sa-lem,
Hãy để nước mắt ngươi chảy đầm đìa như sông cả ngày lẫn đêm.
Đừng ngưng chảy cũng đừng cho mắt ngươi nghỉ ngơi.

19 Hãy đứng dậy, kêu la giữa đêm,
    ngay cả lúc màn đêm buông xuống.
Hãy đổ lòng ra như nước mà khẩn cầu cùng CHÚA.
Hãy giơ tay lên van xin Ngài
    cứu mạng sống con cái ngươi.
Chúng đang ngất xỉu nơi mỗi góc phố vì đói.

20 Giê-ru-sa-lem nói, “Xin CHÚA hãy đoái nhìn,
    xem thử Ngài đã làm điều nầy cho ai.
Mẹ ăn thịt con cái mình,
    tức những đứa bé mà chính mình chăm sóc.
Các thầy tế lễ và nhà tiên tri bị giết
    trong đền thờ CHÚA.

21 Người trẻ và già đều nằm la liệt ngoài đường.
Các thanh niên thiếu nữ của tôi
    đã bị gươm giết.
Ngài giết chúng nó trong ngày CHÚA nổi giận;
    Ngài giết sạch không nương tay.

22 Ngài mang sự kinh hoàng
    vây tôi khắp bốn bên,
    giống như mời chúng đến dự tiệc.
Không ai thoát khỏi hay sống sót
    trong ngày CHÚA nổi thịnh nộ.
Kẻ thù tôi đã giết
    những kẻ tôi chăm sóc và nuôi nấng.”

Ý nghĩa của sự đau khổ

Tôi là người đã nhìn thấy sự khốn khổ
    do cây roi thịnh nộ của CHÚA mang lại.
Ngài dẫn tôi vào bóng tối,
    không phải ánh sáng.
Ngài trở tay nghịch tôi,
    hết lần nầy đến lần khác,
    suốt ngày như vậy.
Ngài làm cho da thịt tôi mòn mỏi
    và bẻ gãy các xương cốt tôi.
Ngài lấy sự buồn thảm vây phủ tôi
    và lấy sầu não tấn công tôi.
Ngài khiến tôi ngồi trong bóng tối,
    giống như kẻ đã qua đời từ lâu.

Ngài nhốt tôi lại,
    không cho tôi thoát ra;
    lấy xiềng trói tôi lại.
Tôi kêu cứu,
    nhưng Ngài không đếm xỉa đến lời khẩn cầu tôi.
Ngài lấy vách đá chận đường tôi,
    khiến tôi đi lạc lối.

10 Ngài giống như con gấu
    sẵn sàng tấn công tôi, giống như sư tử rình rập.
11 Ngài dẫn tôi đi lạc rồi bỏ mặc tôi.
12 Ngài giương cung và chực bắn,
    dùng tôi làm đích cho các mũi tên Ngài.

13 Ngài bắn vào trái cật tôi
    bằng mũi tên trong bao Ngài.
14 Tôi trở thành trò cười cho dân tộc tôi,
    chúng ca hát chế giễu tôi suốt ngày.
15 CHÚA bắt tôi chịu khốn khổ trăm bề;
    Ngài cho tôi say sưa với đau khổ.

16 Ngài lấy sỏi bẻ gãy răng tôi
    và chà đạp tôi trong bụi đất.
17 Tôi không còn được an nghỉ nữa.
    Tôi không còn biết hạnh phúc là gì.
18 Tôi nói, “Sức mạnh tôi tiêu tan rồi,
    tôi không còn hi vọng gì nơi CHÚA nữa.”
19 Lạy CHÚA, xin hãy nhớ sự khốn khổ và cực nhọc của tôi,
    cùng sự buồn thảm và hoạn nạn tôi.
20 Xin hãy nhớ lại tôi
    và suy nghĩ đến tôi.
21 Nhưng tôi nuôi hi vọng
    khi tôi suy nghĩ về điều nầy:

22 Tình yêu CHÚA không bao giờ dứt;
    lòng nhân ái Ngài không hề ngưng.
23 Mỗi sáng chúng đều mới nguyên;
    Lạy CHÚA, sự thành tín Ngài rất lớn.
24 Tôi tự nhủ, “CHÚA thuộc về tôi,
    cho nên tôi tin cậy nơi Ngài.”

25 CHÚA rất nhân từ cùng những ai đặt hi vọng nơi Ngài,
    và những người tìm kiếm Ngài.
26 Nên im lặng chờ đợi CHÚA giải cứu.
27 Trong khi còn trẻ
    hãy cố gắng làm việc.

28 Hãy nên tịnh tâm và im lặng;
    CHÚA đã giao công việc cực nhọc cho người làm.
29 Người nên cúi xuống sát đất;
    vì may ra còn hi vọng.
30 Người nên để kẻ khác vả má mình;
    và nên biết liêm sỉ.

31 Đừng quên rằng CHÚA sẽ không vĩnh viễn gạt bỏ dân Ngài.
32 Dù Ngài mang sầu não đến,
    nhưng Ngài đầy lòng nhân ái và yêu thương lớn lao.
33 Ngài không thích trừng phạt con người
    hay khiến họ buồn rầu.

34 Ngài không muốn tù nhân nào trên đất bị đè bẹp;
35 Ngài cũng thấy kẻ bị đối xử bất công
    trước mặt Thượng Đế Tối Cao;
36 CHÚA nhìn thấy
    kẻ bị lường gạt trong vụ thưa kiện trước tòa.

Footnotes

  1. Ai Ca 1:3 đang khi nó gặp khốn đốn Hay “đang khi nó kẹt ở thung lũng hẹp.”
  2. Ai Ca 1:4 Các gái tơ của nó đã bị bắt đi Câu nầy dựa theo bản cổ Hi-lạp. Bản tiêu chuẩn Hê-bơ-rơ ghi “Các gái tơ nó rầu rĩ.”
  3. Ai Ca 1:6 Giê-ru-sa-lem Nguyên văn, “Con gái Xi-ôn.”
  4. Ai Ca 1:15 thủ đô của Giu-đa Hay “Giê-ru-sa-lem.” Nguyên văn, “con gái trinh của Giu-đa.”
  5. Ai Ca 2:1 Giê-ru-sa-lem Nguyên văn, “con gái Xi-ôn.” Thành Giê-ru-sa-lem được mô tả như một cô gái trẻ. Xem chữ “Xi-ôn” trong Bảng Giải Thích Từ Ngữ.
  6. Ai Ca 2:1 đền thờ là bệ chân Có nghĩa là nơi Thượng Đế ở với dân Ngài.
  7. Ai Ca 2:2 Giu-đa Nguyên văn, “con gái Giu-đa.” Xem chữ “Giu-đa” trong Bảng Giải Thích Từ Ngữ.
  8. Ai Ca 2:6 đền thờ Nguyên văn, “nơi ở của Ngài” tức đền thờ ở Giê-ru-sa-lem.
  9. Ai Ca 2:18 Dân chúng kêu la Hay “Lòng của họ kêu la.”

Thành Hoang Phế

(Theo mẫu tự Hê-bơ-rơ)

Kìa thành phố một thời đông người nhộn nhịp,

Nay thưa người đơn chiếc đìu hiu!

Kìa nàng vốn đại đô các nước,

Giờ trở thành góa phụ cô đơn!

Kìa nàng vốn nữ hoàng các tiểu quốc,

Nay biến thành nữ nô lệ phục tùng!

Giữa đêm khuya nàng khóc than cay đắng,

Lệ tuôn tràn trên đôi má gầy gò;

Trong số tất cả tình nhân của nàng, không ai an ủi nàng;

Tất cả các bạn nàng đã phụ rẫy nàng,

Thậm chí chúng còn trở thành kẻ thù của nàng.

Giu-đa đã bị lưu đày,

Nàng phải chịu biết bao đau đớn và phải làm lao động khổ sai;

Bây giờ nàng phải sống rải rác giữa các nước,

Nàng chẳng tìm được nơi nào để nghỉ ngơi;

Mọi kẻ truy đuổi nàng đều bắt kịp nàng trong lúc nàng cùng đường.

Những con đường dẫn đến Si-ôn âu sầu ảm đạm,

Vì không ai đến dự các đại lễ như xưa;

Tất cả các cổng thành đều đìu hiu quạnh quẽ,

Các tư tế đều rầu rĩ thở than,

Các thiếu nữ của nàng buồn da diết,

Số phận nàng thật đau khổ đắng cay.

Những kẻ thù ghét nàng đã trở thành các chủ nhân nàng,

Những kẻ thù của nàng đã phát đạt.

Vì vô số tội lỗi của nàng,

Chúa bắt nàng phải chịu đau khổ;

Con cái nàng phải sống tha phương,

Vì bị quân thù đem lưu đày biệt xứ.

Ái Nữ của Si-ôn đã hết thời,

Vẻ cao sang quý phái của nàng không còn nữa;

Những kẻ cầm quyền của nàng như nai đói không tìm ra đồng cỏ;

Họ bạc nhược bỏ chạy trước mặt kẻ truy kích họ.

Giữa những ngày nàng đau khổ và lang thang,

Giê-ru-sa-lem nhớ lại mọi phước hạnh nàng đã hưởng ngày xưa.

Khi dân nàng sa vào tay quân thù, chẳng ai đến tiếp cứu nàng;

Thấy tình cảnh của nàng cô đơn như thế, kẻ thù của nàng cười hả hê trước sự sụp đổ của nàng.

Giê-ru-sa-lem đã phạm quá nhiều tội lỗi,

Nên nàng thành cớ thiên hạ cười chê;

Tất cả những ai từng kính nể nàng đều khinh bỉ nàng,

Vì chúng đã thấy nàng bị trần trụi lõa lồ.

Phải, chính nàng cũng rên rỉ thở than,

Và quay mặt đi để khỏi bị ai nhìn thấy.

Vết ô uế vẫn còn dính trên váy nàng,

Khi phạm tội nàng không nghĩ đến hậu quả về sau;

Vì thế nàng bị sụp đổ kinh hoàng;

Không ai an ủi nàng nửa lời.

“Lạy Chúa, xin đoái xem nỗi đau khổ của con,

Vì quân thù của con thắng hơn con.”

10 Quân thù đã đưa tay hốt sạch của cải quý báu của nàng;

Nàng đã thấy các dân ngoại nghênh ngang vào đền thánh,

Ðó là những kẻ Ngài cấm vào nơi nhóm họp của dân Ngài.

11 Toàn dân nàng than thở khi tìm thực phẩm đỡ lòng;

Họ đánh đổi của báu cho thức ăn đạm bạc,

Ðể mong được phục sức.

“Lạy Chúa, xin đoái xem,

Con bị khinh bỉ biết bao!”

12 Hỡi tất cả những ai qua lại,

Quý vị thấy sự kiện này chẳng có ý nghĩa gì sao?

Hãy nhìn và xem,

Có nỗi sầu khổ nào sánh bằng nỗi sầu khổ của tôi chăng?

Ðó là điều đã xảy đến với tôi,

Chúa đã giáng trên tôi trong ngày Ngài bừng bừng nổi giận.

13 Từ trời cao Ngài phóng lửa hừng vụt xuống,

Khiến lửa hừng thiêu đốt xương tôi;

Ngài giăng lưới để chân tôi vướng mắc,

Ngài bắt tôi phải quay trở lại;

Ngài để tôi quạnh hiu và ngất xỉu suốt ngày.

14 Ngài buộc những vi phạm của tôi vào một cái ách,

Ngài dùng tay Ngài cột chặt chúng lại với nhau,

Và đặt chúng đè nặng trên cổ tôi,

Khiến sức lực tôi tiêu hao cạn kiệt;

Chúa đã trao tôi vào tay những kẻ tôi không có khả năng chống cự.

15 Chúa loại bỏ tất cả các dũng sĩ ở giữa tôi;

Ngài triệu tập một đội quân đông đảo chống lại tôi,

Ðể tiêu diệt các chiến sĩ trẻ của tôi;

Chúa chà đạp tôi như người ta đạp nho trong bồn ép nho làm rượu;

Ngài chà đạp người trinh nữ là Ái Nữ của Giu-đa.

16 Vì những điều ấy nên tôi khóc,

Mắt tôi đổ lệ dầm dề;

Vì Ðấng an ủi, Ðấng làm cho tinh thần tôi phục hồi, đã lìa xa tôi;

Các con cái tôi bơ vơ đói khổ,

Vì quân thù đã thắng hơn tôi.

17 Si-ôn đưa tay ra van xin giúp đỡ,

Nhưng không ai an ủi nàng;

Chúa đã ra lịnh cho các láng giềng của Gia-cốp rằng,

Chúng phải trở nên kẻ thù của ông;

Giê-ru-sa-lem đã trở thành một vật ô uế giữa các láng giềng của nàng.

18 Chúa thật đúng, vì tôi đã nổi loạn chống lại mạng lịnh Ngài;

Hỡi muôn dân, hãy lắng nghe,

Và hãy nhìn xem những sầu thảm tôi đang phải chịu;

Các thiếu nữ và các thanh niên của tôi đã bị bắt đem lưu đày.

19 Tôi gọi những người yêu của tôi, nhưng họ đã gạt tôi;

Các tư tế và các trưởng lão của tôi chết thảm trong thành,

Khi họ cố tìm chút gì để ăn đỡ đói, hầu phục hồi sinh lực của họ.

20 Lạy Chúa, xin Ngài xem, con tuyệt vọng biết bao!

Bụng con phập phồng lo sợ,

Tim con hồi hộp âu lo.

Vì con đã quyết tâm chống lại Ngài,

Nên ngoài đường gươm đao đua nhau lấy mạng,

Còn trong nhà thần chết hoành hành.

21 Người ta nghe tiếng con rên rỉ, nhưng chẳng ai an ủi con.

Tất cả kẻ thù của con nghe tin con gặp nạn,

Chúng vui mừng vì Ngài làm việc ấy cho con.

Xin Ngài sớm thực hiện ngày đoán phạt mà Ngài đã phán,

Ðể chúng biết mùi đau khổ như con.

22 Nguyện các việc ác của chúng bị phơi bày trước thánh nhan Ngài;

Xin đối xử với chúng như Ngài đã đối xử với con,

Vì mọi vi phạm của con,

Vì con than thở quá nhiều,

Và lòng con giờ đã nao sờn.

Những Gì Chúa Cảnh Cáo Ðều Ðược Ứng Nghiệm

(Theo mẫu tự Hê-bơ-rơ)

Sao Chúa nỡ bao phủ Ái Nữ của Si-ôn bằng cơn giận?

Từ trời cao Ngài ném xuống đất vẻ đẹp của I-sơ-ra-ên,

Và không nhớ đến bệ chân Ngài trong ngày Ngài nổi giận.

Chúa tiêu diệt không chút xót thương mọi nơi cư ngụ của Gia-cốp;

Trong cơn giận Ngài phá tan các thành lũy Ái Nữ của Giu-đa;

Ngài khiến chúng đổ xuống đất;

Ðể làm nhục vương quốc và những người lãnh đạo của nó.

Trong cơn cực kỳ phẫn nộ Ngài chặt đứt tất cả các sừng của I-sơ-ra-ên;

Ngài rút lại cánh tay phải Ngài trước mặt quân thù của họ;

Ngài đốt rụi trong xứ của Gia-cốp,

Như ngọn lửa hừng thiêu rụi mọi thứ xung quanh.

Ngài đã giương cung nhắm bắn như một xạ thủ của quân thù,

Tay phải Ngài sẵn sàng buông tên;

Như kẻ thù, Ngài giết sạch kẻ nào mắt Ngài muốn giết,

Chúa đã trở thành như kẻ thù;

Ngài nuốt chửng I-sơ-ra-ên;

Ngài nuốt trộng tất cả cung điện nó,

Ngài biến các thành trì nó ra hoang phế,

Ngài làm gia tăng nỗi sầu thảm và bi ai cho Ái Nữ của Giu-đa.

Ngài phá tan Lều Tạm của Ngài như người ta phá bỏ một mảnh vườn;

Ngài phá hủy nơi nhóm lại của Ngài.

Chúa làm cho những ngày đại lễ và những ngày Sa-bát ở Si-ôn không được nhớ đến nữa;

Trong cơn cực kỳ phẫn nộ Ngài ghê tởm cả vua lẫn tư tế ở đó.

Chúa loại bỏ bàn thờ của Ngài;

Ngài ghê tởm nơi thánh của Ngài;

Ngài trao vào tay quân thù các bức tường cung điện của nàng;

Chúng làm ồn trong nhà Chúa như tiếng ồn trong ngày đại lễ.

Chúa quyết định phá đổ tường thành Ái Nữ của Si-ôn;

Ngài giăng dây ra đo và không rút tay Ngài lại khi hủy diệt;

Ngài khiến các chiến lũy và tường thành đều buồn thảm;

Chúng cùng nhau suy tàn.

Các cổng thành của nàng lún sâu dưới đất;

Ngài phá tan và bẻ gãy các thanh ngang;

Vua và các quan nàng bị lưu đày nơi xứ lạ,

Luật Pháp không còn nữa,

Các tiên tri nàng chẳng thấy khải tượng nào từ Chúa cả.

10 Các trưởng lão Ái Nữ của Si-ôn ngồi im lìm dưới đất,

Họ hốt bụi rải trên đầu,

Họ mặc vải thô;

Các trinh nữ của Giê-ru-sa-lem cúi gục đầu xuống đất.

11 Mắt tôi hốc hác vì khóc khô dòng lệ;

Lòng dạ tôi tan nát từng cơn,

Mật tôi đổ ra trên đất vì sự hủy diệt Ái Nữ của dân tôi,

Bởi vì các trẻ thơ và các ấu nhi ngất xỉu trên các đường phố.

12 Chúng khóc xin với mẹ chúng,

“Cơm bánh và thức uống đâu?”

Chúng ngất xỉu như người bị tử thương trên các đường phố,

Rồi chúng từ từ tắt thở trong vòng tay bên lòng mẹ.

13 Hỡi Ái Nữ của Giê-ru-sa-lem, ta có thể nói gì cho ngươi nữa?

Ta có thể lấy gì so sánh với ngươi?

Hỡi nàng trinh nữ, Ái Nữ của Si-ôn, ta có thể so sánh ngươi với ai,

Ðể ta có thể an ủi ngươi?

Vì nỗi đau thương của ngươi lớn như biển cả,

Ai có thể chữa cho ngươi được lành?

14 Các tiên tri của ngươi đã thấy toàn những điều giả dối và tầm phào;

Chúng không vạch rõ các tội của ngươi ra,

Hầu mong đảo ngược vận mạng của ngươi,[a]

Nhưng chúng chỉ thấy và bảo ngươi toàn những sứ điệp giả dối và ảo giác hư không.

15 Tất cả những kẻ đi ngang qua thấy ngươi đều đập tay tiếc rẻ,

Chúng xầm xì chế nhạo và lắc đầu khinh bỉ Ái Nữ của Giê-ru-sa-lem,

“Phải chăng đây vốn là thành mang danh tuyệt mỹ,

Và niềm vui của cả thế gian?”

16 Tất cả kẻ thù của ngươi mở miệng chê bai ngươi;

Chúng xầm xì chế nhạo, nghiến răng, và đắc ý nói vang,

“Phen này chúng ta nuốt trộng nó được rồi!

Chúng ta đã đợi ngày này lâu lắm rồi;

Cuối cùng chúng ta đã thấy được tận mắt!”

17 Chúa thực hiện những gì Ngài đã quyết định;

Ngài làm ứng nghiệm lời Ngài đã cảnh cáo từ lâu.

Ngài lật đổ chẳng mảy may thương xót;

Ngài làm cho kẻ thù của ngươi vui mừng vì ngươi,

Và làm cho sừng của kẻ thù ngươi thêm cứng mạnh.

18 Hỡi tường thành Ái Nữ của Si-ôn, hãy dốc đổ lòng ngươi kêu cầu với Chúa;

Hãy đổ lệ ngươi như suối suốt ngày đêm.

Chớ để cho ngươi được nghỉ ngơi thơi thả.

Ðừng để cho mắt ngươi ngưng đổ lệ phút nào.

19 Hãy thức dậy giữa đêm khuya để kêu cầu thống thiết,

Mỗi đầu canh hãy cất tiếng van nài;

Hãy dốc đổ lòng ngươi trước mặt Chúa như nước tuôn lai láng,

Hãy đưa đôi tay ngươi lên hướng về Ngài cầu nguyện cho sinh mạng đàn con dại của ngươi,

Vì chúng đói khát đến ngất xỉu nơi mỗi đầu đường góc phố.

20 Lạy Chúa, xin Ngài đoái xem và nhìn thấy!

Ðể phạt ai mà Ngài làm những điều này?

Chẳng lẽ những người mẹ phải ăn thịt con mình để sống,

Những đứa con mà họ mang nặng đẻ đau?

Chẳng lẽ tư tế và tiên tri phải bị giết trong nơi thánh của Chúa sao?

21 Xác trai trẻ và người già nằm la liệt trên đất khắp các đường phố;

Các thiếu nữ và các thanh niên bị ngã chết vì gươm.

Ngài giết họ trong ngày Ngài nổi giận,

Ngài tàn sát họ không một chút xót thương.

22 Ngài mời quân thù của con từ khắp nơi kéo đến,

Như thể chúng được mời đến dự một ngày đại lễ tưng bừng,

Ðể trong ngày thịnh nộ của Chúa không người nào trốn thoát hoặc sống sót,

Quân thù giết cả những con thơ mà con bồng ẵm và dưỡng nuôi.

Tình Thương của Chúa Bền Vững Ðời Ðời

(Theo mẫu tự Hê-bơ-rơ)

Tôi là người bị đau đớn dưới gậy thịnh nộ của Ngài.

Ngài xua đuổi tôi và bắt tôi đi trong tối tăm, chứ không đi trong ánh sáng.

Ngài trở tay chống lại tôi,

Ngài ra tay chống lại tôi suốt ngày.

Da thịt tôi Ngài làm cho héo khô gầy đét;

Xương cốt tôi bị bầm giập rã rời.

Ngài đắp ụ bao vây tôi,

Ngài giam hãm tôi trong đắng cay và gian khổ.

Ngài bắt tôi ở trong bóng tối,

Giống như người đã chết từ lâu.

Ngài xây tường quanh tôi để tôi không thể nào trốn thoát;

Ngài khiến cho xiềng xích tôi nặng thêm.

Tôi kêu khóc và van nài cứu giúp;

Ngài gạt ngoài tai lời cầu nguyện của tôi.

Ðường tôi đi Ngài chận bằng đá khối;

Lối tôi đi Ngài đổi ra cong quẹo gập ghềnh.

10 Ngài như gấu đói nằm đợi tôi bước tới,

Như sư tử tơ nằm phục để vồ mồi.

11 Ngài khiến tôi lạc lối và xé tôi ra từng mảnh;

Ngài để tôi trong cảnh bơ vơ.

12 Ngài giương cung,

Và lấy tôi làm bia cho tên bắn.

13 Ngài rút tên ra khỏi ống,

Và cứ bắn vào các tử huyệt của tôi.

14 Tôi trở thành trò cười cho cả dân tôi,

Một đầu đề cho họ đặt bài ca chế giễu suốt ngày.

15 Ngài cho tôi đầy tràn cay đắng;

Ngài bắt tôi uống ngải đắng cành hông.

16 Răng tôi cứ nhai nhằm sỏi sạn,

Thân xác tôi bị phủ dưới bụi tro.

17 Linh hồn tôi bị tước bỏ bình an thịnh vượng,

Tôi đã quên, không còn biết phước là gì.

18 Vì thế tôi nói, “Thời huy hoàng của tôi đã hết,

Mọi hy vọng của tôi nơi Chúa đã tiêu tan.”

19 Xin nhớ đến nỗi đau khổ và cuộc sống bấp bênh của con,

Thật như uống phải ngải đắng và mật đắng.

20 Những điều ấy cứ ám ảnh con,

Và linh hồn con chùn xuống.

21 Nhưng con chợt nhớ điều này,

Vì thế con còn tia hy vọng:

22 Ðức nhân từ của Chúa không khi nào ngưng dứt,

Bởi ơn thương xót của Ngài chẳng cạn kiệt bao giờ.

23 Mỗi buổi sáng chúng đều mới mẻ;

Ðức thành tín của Ngài thật lớn lao thay!

24 Linh hồn tôi nói, “Chúa là phần sản nghiệp của tôi,

Vậy tôi phải đặt trọn hy vọng nơi Ngài.”

25 Chúa thật tốt với người trông cậy Ngài,

Tức với người tìm kiếm Ngài.

26 Quả là tốt cho ai trông cậy và yên lặng đợi chờ sự giải cứu của Chúa.

27 Thật là tốt cho người chịu mang ách khi còn trẻ.

28 Hãy để nó ngồi một mình và yên lặng chịu đựng,

Vì Ngài bắt nó phải mang ách ấy.

29 Hãy để miệng nó bị chúi vào đất,

Biết đâu nhờ đó nó mới có hy vọng.

30 Hãy để nó đưa má cho người ta vả,

Hãy để nó bị đầy tủi nhục.

31 Vì Chúa không loại bỏ đến đời đời.

32 Cho dù Ngài làm cho sầu khổ,

Ngài sẽ thương xót theo đức nhân từ vô lượng của Ngài,

33 Vì Ngài không có chủ tâm làm đau buồn hay gây sầu khổ cho con cái loài người.

34 Khi tất cả tù nhân trên đất bị giày đạp dưới chân,

35 Khi nhân quyền của một người bị gạt qua một bên trước mặt Ðấng Tối Cao,

36 Khi công lý của người bị xét xử bị bẻ cong,

Chẳng lẽ Chúa không thấy sao?

Footnotes

  1. Ai Ca 2:14 ctd: đem ngươi từ chốn lưu đày trở về