Add parallel Print Page Options

30 “Nhưng nay kẻ trẻ tuổi hơn tôi chế nhạo tôi.
    Trước kia tôi không cho cha chúng
    ngồi chung với chó giữ chiên tôi là khác.
Sức mạnh của chúng giúp ích gì cho tôi,
    vì chúng không còn sức để làm việc.
Chúng gầy còm vì đói,
    và lang thang ban đêm trong đất khô khan cằn cỗi.
Chúng gom góp các bụi cây trong sa mạc,
    và ăn rễ của cây dùng làm chổi.
Chúng buộc phải sống xa loài người;
    người ta tri hô sau chúng như kẻ trộm.
Chúng sống giữa những lòng suối cạn,
    trong các hang hốc và giữa các tảng đá.
Chúng tru như thú vật giữa lùm cây,
    và xúm xít trong bụi gai.
Chúng là bọn du đãng vô danh,
    bị đuổi ra khỏi đất.

Bây giờ chúng đặt bài hát chế giễu tôi;
    tên tôi là trò cười cho chúng.
10 Chúng ghét và xa lánh tôi,
    chúng không ngần ngại phỉ nhổ vào mặt tôi.
11 Thượng Đế đã lấy sức mạnh tôi đi, khiến tôi khổ sở,
    cho nên chúng trút đổ cơn giận vào tôi.
12 Chúng tấn công tôi bên phải.
    Chúng giăng bẫy trên bước chân tôi,
    đắp mô để tấn công và tiêu diệt tôi như thành lũy.
13 Chúng phá đường tôi đi
    tìm cách tiêu diệt tôi,
    không ai cứu giúp tôi.
14 Chúng nhào đến tôi như chui qua lỗ thủng trong tường,
    chúng lăn xả đến giữa đống gạch vụn.
15 Tôi bị kinh hoảng vây phủ,
    Chúng thổi bay danh dự tôi như cơn gió mạnh,
    và sự an toàn tôi biến đi như mây khói.

16 Bây giờ đời tôi gần tàn,
    các tháng ngày tôi đầy dẫy khốn khổ.
17 Ban đêm xương cốt tôi đau buốt;
    cơn nhức nhối không hề dứt.
18 Thượng Đế dùng quyền lớn túm lấy áo quần tôi,
    và siết cổ áo tôi.
19 Ngài ném tôi vào bùn đất,
    tôi trở thành bụi đất lẫn tro.

20 Tôi kêu cứu cùng Ngài, Thượng Đế ôi,
    nhưng Ngài không thèm đáp;
    Tôi đứng lên nhưng Ngài chỉ nhìn tôi.
21 Ngài đã nổi giận cùng tôi không nương tay;
    và dùng cánh tay mạnh mẽ của Ngài tấn công tôi.
22 Ngài giật tôi và ném tôi vào gió,
    rồi quăng tôi lăn lóc trong giông bão.
23 Tôi biết Ngài sẽ kéo tôi đến chỗ chết,
    đến nơi tất cả các kẻ sống phải đi đến.

24 Hẳn nhiên không ai muốn làm hại người khốn cùng,
    khi người kêu cứu trong lúc khốn khó.
25 Tôi kêu cứu giùm cho những kẻ đang gặp khốn đốn;
    Tôi buồn bã thay cho người nghèo khó.
26 Nhưng khi tôi trông mong điều thiện,
    thì điều ác xảy đến cho tôi;
    khi tôi tìm ánh sáng thì bóng tối chụp đến.
27 Tôi luôn luôn bực dọc;
    những ngày đau khổ đang ở trước tôi.
28 Người tôi hóa đen nhưng không phải vì rám nắng.
    Tôi đứng giữa nơi công cộng kêu cứu.
29 Tôi kết nghĩa anh em với chó hoang và bạn bè với chim đà điểu.
30 Da tôi thâm đen và tróc ra từng lớp,
    toàn thân tôi nóng bừng lên vì sốt.
31 Đờn cầm tôi lên dây ca bài thiểu não,
    và tiếng sáo trổi giọng bi ai.”

31 “Tôi đã lập giao ước với mắt tôi,
    rằng tôi sẽ không nhìn thiếu nữ với vẻ thèm muốn nữa.
Thượng Đế đã hứa gì cho dân Ngài?
    Đấng Toàn Năng đã dự định gì từ trên cao kia [a]?
Đó là sự tàn hại cho kẻ ác,
    và thảm họa cho kẻ làm quấy.
Thượng Đế thấy con đường tôi đi,
    Ngài đếm từng bước tôi.

Nếu tôi có bất lương,
    hay dối trá cùng kẻ khác,
thì xin Ngài để tôi lên cái cân chính xác [b].
    Ngài sẽ thấy tôi không có làm gì quấy.
Nếu tôi có quay lưng để khỏi làm điều phải,
    hay mắt tôi hướng dẫn lòng tôi làm điều sái bậy,
    hoặc tay tôi có dơ bẩn,
thì cầu cho kẻ khác ăn lấy vật tôi đã trồng,
    và mùa màng tôi bị nhổ lên.

Nếu tôi có ham muốn người đàn bà khác,
    hay rình mò vợ người láng giềng tôi nơi cửa nhà người,
10 thì nguyền cho vợ tôi xay lúa cho người đàn ông khác,
    để cho người khác ăn nằm với nàng.
11 Điều đó sẽ thật sỉ nhục,
    một tội lỗi đáng bị trừng phạt.
12 Giống như lửa đốt cháy và tiêu hủy;
    những gì tôi làm sẽ bị nhổ lên.

13 Nếu tôi có bất công đối với tôi trai hay tớ gái của tôi,
    khi chúng khiếu nại tôi điều gì,
14 thì làm sao tôi trả lời với Thượng Đế về hành động tôi?
    Tôi đối đáp thế nào khi Ngài bảo tôi giải thích điều tôi làm?
15 Đấng dựng nên tôi trong bụng mẹ tôi,
    cũng đã dựng nên chúng nó;
    Ngài dựng nên cả hai trong bụng mẹ.

16 Tôi chưa hề từ chối lời khiếu nại của kẻ nghèo,
    hay khiến người góa bụa thất vọng khi họ xin cứu giúp.
17 Tôi không giữ khư khư thức ăn lấy cho mình,
    nhưng chia xẻ với trẻ mồ côi.
18 Từ khi còn trẻ, tôi đã như cha của trẻ mồ côi.
    Từ lúc mới sinh, tôi hướng dẫn người góa bụa.
19 Tôi chưa để ai chết vì không quần áo mặc,
    hay để kẻ khốn cùng thiếu áo che thân.
20 Lòng của họ chúc phước cho tôi,
    vì tôi dùng len của chiên tôi đắp cho họ ấm.
21 Tôi chưa hề làm hại trẻ mồ côi [c],
    dù rằng tôi biết sẽ thắng kiện.
22 Nếu tôi có làm điều đó,
    nguyền cho tay tôi rớt ra khỏi vai,
    và đứt ra khỏi khớp nối.
23 Tôi sợ sự hủy hoại của Thượng Đế,
    tôi kinh hãi sự oai nghiêm Ngài [d],
    nên tôi không thể làm những điều đó.

24 Tôi không đặt niềm tin nơi vàng,
    hay bảo với vàng ròng rằng,
    ‘Ngươi là niềm an ninh ta.’
25 Tôi chưa hề ăn mừng sự giàu có tôi,
    hay của cải tay tôi làm ra.
26 Tôi chưa hề suy nghĩ đến việc bái lạy mặt trời rực sáng,
    hay thán phục mặt trăng di chuyển trong vinh quang,
27 để cho lòng tôi bị kéo xa khỏi Thượng Đế.
    Tay tôi chưa hề dâng cho mặt trời, mặt trăng cái hôn sùng bái nào.
28 Nếu tôi đã làm những điều đó, quả thật đắc tội, đáng trừng phạt,
    vì tôi đã không trung tín với Thượng Đế.

29 Tôi không hớn hở khi kẻ thù tôi lâm nạn,
    hay cười vui sướng khi nó gặp khốn khó.
30 Tôi không để miệng tôi phạm tội,
    bằng cách nguyền rủa mạng sống kẻ thù tôi.
31 Những gia nhân của tôi đều nói,
    ‘Ai trong nhà của Gióp cũng ăn uống tha hồ.’
32 Không có khách lạ nào phải ngủ đêm ngoài đường phố,
    vì tôi luôn mời khách lữ hành vào nhà mình.
33 Tôi không che giấu tội mình như kẻ khác,
    giấu đút tội mình riêng cho mình.
34 Tôi không sợ quần chúng đến nỗi im lặng rút vào nhà,
    vì sợ gia đình khác ganh ghét mình.

35 Ước gì toà án bằng lòng xử vụ của tôi!
    Đây tôi ký nhận mình đã nói sự thật.
    Xin Đấng Toàn Năng trả lời cho tôi;
    còn kẻ cáo giác tôi hãy viết cáo trạng.
36 Tôi sẽ mang lời khai trên vai tôi;
    và đội nó như mão triều.
37 Tôi sẽ giải thích cùng Thượng Đế mỗi việc tôi làm,
    và đến gần Ngài như một quan trưởng.

38 Nếu đất kêu la nghịch tôi,
    và nếu các luống cày nó không đẫm nước mắt,
39 Nếu tôi đã cướp mùa màng của đất mà không đền bù,
    hay làm mất tinh thần kẻ làm công cho đất tôi,
40 thì nguyền cho gai gốc mọc lên thay vì lúa,
    và cỏ dại mọc thay vì lúa mạch.”

Đến đây chấm dứt lời của Gióp.

Footnotes

  1. Gióp 31:2 Tôi đã lập … cao kia Có thể dịch, “Tôi đã lập giao ước với mắt tôi là tôi sẽ không nhìn trinh nữ với thái độ thèm muốn” hay “những gì thánh khiết thuộc về Thượng Đế Toàn Năng.” Từ ngữ “trinh nữ” ở đây nói về nữ thần mà dân Ca-na-an thờ phụng.
  2. Gióp 31:6 cân chính xác Nguyên văn, “cân công bình.” Đây là lối chơi chữ, vì “cái cân chính xác” là cân có thể nhận ra người tốt, người xấu.
  3. Gióp 31:21 Tôi chưa … mồ côi Hay “Tôi chưa hề nắm tay đe doạ trẻ mồ côi ở ngoài cửa xin cứu giúp.”
  4. Gióp 31:23 tôi kinh hãi sự oai nghiêm Ngài Hay “Tôi không thể đứng trước sự oai nghiêm Ngài.”

Gióp Lại Tiếp Tục Binh Vực Ông

30 Nhưng bây giờ những người trẻ tuổi hơn tôi chế nhạo tôi,
Những người trẻ mà cha của họ tôi coi thường và đặt làm việc chung với đàn chó chăn bầy của tôi.
Phải, sức lực của đôi tay chúng còn có ích gì cho tôi,
Khi sự cường tráng của chúng không còn nữa chăng?
Chúng gầy guộc vì nạn đói;
Chúng phải kiếm ăn trong đồng không mông quạnh,
Nơi trước kia chỉ là chỗ hoang vắng tiêu điều.
Chúng phải bứt lá có chất muối trong bụi để ăn;
Chúng phải ăn rễ cây bách xù để sống.
Chúng bị đuổi đi khỏi xã hội loài người;
Người ta la hét xua đuổi chúng như đuổi quân trộm cắp.
Chúng bị buộc phải sống ở các gành đá trong thung lũng,
Trong các hang hố dưới đất và trong các hốc đá.
Chúng la lối nhau om sòm trong các bụi rậm;
Chúng sống chen chúc với nhau dưới các lùm gai.
Chúng là con cái của những kẻ dại dột, những kẻ không ra gì;
Chúng đã bị đuổi xua ra khỏi xứ.
Nhưng bây giờ tôi đã trở thành đề tài cho chúng nhạo báng,
Làm đầu đề cho chúng mỉa mai.
10 Chúng ghê tởm tôi, chúng lánh xa tôi;
Chúng không ngần ngại phun nước bọt vào mặt tôi.
11 Bởi vì Ngài đã làm cho dây cung của tôi bị chùng và khiến tôi bị tổn thương,
Nên chúng chẳng còn kiêng nể tôi nữa.
12 Ðám người trẻ ấy nổi lên chống lại tôi ở bên phải;
Chúng xô đẩy chân tôi;
Chúng đắp mô gài bẫy trên đường tôi đi, để tôi bị tiêu diệt.
13 Chúng phá hủy đường lối tôi;
Chúng làm mọi cách để tôi sớm bị hại;
Chẳng có ai kiềm chế chúng cả.
14 Chúng ập đến như quân thù xông qua một lỗ thủng lớn nơi tường thành;
Trong lúc tôi bị hoạn nạn, chúng tràn vào tấn công ào ạt.
15 Các cơn kinh hãi ập xuống tôi;
Danh dự của tôi bị chúng đùa đi như gió;
Tài sản của tôi bị tan biến như mây gặp phải cuồng phong.
16 Bây giờ sức sống trong tôi tan đi cách mau chóng;
Những ngày khốn khổ cứ bám chặt lấy tôi.
17 Ban đêm xương tôi nhức nhối như bị đâm vào cơ thể;
Da thịt tôi đau đớn không ngừng.
18 Ngài dùng sức mạnh túm lấy áo tôi;
Ngài siết cổ tôi ngay ở cổ áo.
19 Ngài ném tôi vào vũng bùn;
Tôi trở nên như bụi như tro.
20 Con kêu cầu Ngài, nhưng Ngài không đáp lời con;
Con đứng dậy để Ngài thấy, nhưng Ngài nhìn rồi làm ngơ.
21 Ngài đối với con quá tàn nhẫn;
Ngài dùng cánh tay quyền năng của Ngài bách hại con.
22 Ngài nhấc bổng con lên và tung con theo luồng gió;
Ngài làm cho tài sản của con tan biến như bị bão tố thổi đi.
23 Vì con biết Ngài sẽ đem con vào cõi chết;
Ði đến nơi đã định cho mọi kẻ sống trên đời.
24 Tuy nhiên há chẳng phải trong lúc bị nguy khốn người ta mới đưa tay ra xin cứu giúp?
Hoặc trong lúc gặp hiểm nguy họ mới cất tiếng van nài?
25 Há chẳng phải con đã khóc cho người lầm than vất vả?
Hoặc linh hồn con buồn bã cho người gặp phải cảnh khó nghèo?
26 Khi con đợi phước hạnh, tai họa từ đâu lại ập đến;
Khi con chờ ánh sáng, bóng tối cứ lù lù hiện ra.
27 Ruột gan con rối bời, và con không thể nào an tâm;
Những ngày khốn khó đã ập đến trên con.
28 Con đi tới đi lui trong đêm tối, không chút ánh sáng mặt trời;
Con đứng giữa đại hội và kêu cầu sự giúp đỡ.
29 Con trở thành anh em của chó rừng,
Thành bạn bè của đà điểu.
30 Da của con đổi ra màu đen và trốc ra từng mảnh;
Xương cốt con cứ nóng sốt liên hồi.
31 Tiếng hạc cầm của con đã thành khúc nhạc buồn ảo não;
Tiếng sáo của con đã trỗi lên âm điệu bi thương.

Lời Biện Bạch Cuối Cùng của Gióp

31 Tôi đã lập một giao ước với mắt tôi,
Mỗi khi tôi trông thấy một phụ nữ xinh đẹp.
Ðức Chúa Trời ở trên trời đã định cho phần của mỗi người là gì?
Ðấng Toàn Năng ở trên cao ban gì làm cơ nghiệp cho người ta?
Há chẳng phải là hủy diệt dành cho phường gian ác,
Và thảm họa dành cho kẻ làm điều tội ác hay sao?
Há chẳng phải Ngài thấy rõ các đường lối của tôi,
Và Ngài đếm mọi bước của tôi sao?
Nếu tôi đã bước đi trong sự gian dối,
Hoặc nếu chân tôi đã vội vã bước đi trong sự lọc lừa;
Nguyện Ngài đặt tôi trên một cái cân chính xác,
Nguyện Ðức Chúa Trời thấy rõ sự liêm khiết của tôi.
Nếu chân tôi đã bước chệch khỏi đường chính đáng,
Nếu lòng tôi chiều theo những gì mắt tôi thèm muốn,
Và nếu tay tôi có dấu vết bất chính nào,
Nguyện những gì tôi gieo sẽ bị người khác gặt ăn,
Nguyện những gì tôi trồng sẽ bị kẻ khác nhổ lên hưởng.
Nếu lòng tôi để cho tôi bị người đàn bà quyến dụ,
Nếu tôi lén lút rình nơi cửa nhà người khác với tà tâm,
10 Nguyện vợ tôi sẽ còng lưng xay cối cho kẻ khác,
Nguyện thân xác nàng sẽ bị các đàn ông khác dày vò.
11 Vì đó là một tội trọng,
Phải, đó là tội đáng bị đem ra xử trước các quan tòa.
12 Nó là ngọn lửa thiêu đốt cho đến khi hồn sa hỏa ngục;
Nó cháy rụi tận gốc tài sản tôi đã gây dựng suốt đời.
13 Nếu tôi đã gạt bỏ duyên cớ của các tôi trai và tớ gái của tôi,
Khi chúng có việc phải tranh tụng với tôi;
14 Tôi sẽ làm gì khi Ðức Chúa Trời trỗi dậy?
Khi Ngài tra hỏi, tôi sẽ trả lời Ngài như thế nào đây?
15 Há chẳng phải Ðấng đã tạo thành tôi trong lòng mẹ tôi cũng đã dựng nên đầy tớ của tôi sao?
Há chẳng phải cùng một Ðấng ấy đã nắn nên hình hài cho cả hai chúng tôi trong lòng mẹ của mỗi chúng tôi sao?
16 Nếu tôi đã từ chối điều những kẻ nghèo khó xin giúp đỡ;
Hoặc để cho mắt của người góa phụ đang ngóng trông phải thất vọng vì mòn mỏi đợi chờ;
17 Nếu tôi chỉ ăn cơm bánh một mình cách ích kỷ,
Mà không chia sẻ với kẻ mồ côi đang đói khát cùng ăn;
18 Khi còn trẻ tôi đã nuôi trẻ mồ côi như cha nuôi con cái;
Từ lúc chào đời tôi đã biết quan tâm đến các góa phụ cô đơn.
19 Khi tôi thấy kẻ khốn cùng không áo quần để mặc;
Hoặc người nghèo không chăn mền để đắp giữa đêm dài;
20 Há chẳng phải lòng họ đã cảm ơn tôi không ngớt,
Vì nhờ lông chiên của tôi họ đã được ấm áp hay sao?
21 Nếu tôi đã đưa tay lên hà hiếp kẻ mồ côi,
Vì tôi biết có người sẽ binh vực tôi ở cổng thành,
22 Nguyện cánh tay tôi rớt ra khỏi vai tôi,
Nguyện tay tôi bị gãy rời khỏi khớp.
23 Vì tai họa từ Ðức Chúa Trời giáng xuống đã làm tôi kinh hãi;
Tôi không sao dám đối diện với vẻ uy nghi Ngài.
24 Nếu tôi lấy vàng làm nơi nương cậy;
Hay tôi nói với vàng ròng, “Ngươi là chỗ dựa của ta.”
25 Nếu tôi vui mừng vì có nhiều của cải,
Hoặc tôi ỷ lại vì tay tôi đã thu được tài vật rất nhiều,
26 Nếu tôi nhìn thấy ánh mặt trời rạng rỡ,
Hay ngắm ánh trăng lên khi nó sáng tỏ rạng ngời,
27 Ðoạn tôi để cho lòng mình âm thầm bị quyến rũ,
Rồi miệng tôi hôn lấy tay tôi tôn chúng làm thần tượng của mình;
28 Ðó cũng là tội đáng bị các quan tòa xét xử,
Vì tôi đã chối bỏ Ðức Chúa Trời, Ðấng đang ngự trị trên cao.
29 Nếu tôi vui mừng khi thấy kẻ ghét tôi bị diệt,
Hoặc hân hoan khi thấy nó gặp tai ương;
30 Nhưng tôi đã không cho phép miệng tôi phạm tội,
Thốt ra lời nguyền rủa nó sớm qua đời.
31 Nếu những người nhà của tôi chẳng nói,
“Có ai không no bằng thịt các súc vật do ông ấy cấp chăng?”
32 Không người khách lạ nào phải qua đêm ngoài đường phố;
Vì nhà tôi luôn mở cửa đón tiếp mọi người.
33 Nếu tôi che giấu tội lỗi mình như người ta thường làm,
Mà giấu kín tội lỗi tôi tận đáy lòng mình,
34 Phải chăng vì tôi sợ dư luận của quần chúng,
Và sợ bị bà con dòng họ khinh khi,
Mà tôi cứ im hơi lặng tiếng,
Và không dám bước ra khỏi cửa nhà mình.
35 Ôi, ước chi có người nghe tiếng tôi biện hộ;
Tôi ký tên nơi đây để xác nhận lời mình;
Nguyện Ðấng Toàn Năng đáp lại lời tôi;
Nguyện kẻ thù của tôi viết bản cáo trạng để buộc tội tôi.
36 Chắc chắn tôi sẽ mang nó trên vai,
Và đội nó trên đầu như một mão miện.
37 Tôi sẽ báo cáo cho Ngài mọi bước chân tôi;
Tôi sẽ tiến đến trước mặt Ngài như một người lãnh đạo.
38 Nếu đất đai của tôi kêu lên chống lại tôi;
Các luống cày của nó cùng nhau òa lên khóc;
39 Nếu tôi đã ăn hoa màu của đất mà không đền bù xứng đáng;
Hay tôi đã làm chi đến nỗi thiệt hại sinh mạng của chủ điền.
40 Nguyện gai góc mọc lên thay vì lúa mì;
Nguyện cỏ dại mọc lên thay cho lúa mạch.
Lời biện bạch của Gióp đến đây là hết.

26 Thưa các anh chị em là con cháu của gia đình Áp-ra-ham và những người không phải Do-thái đang thờ phụng Thượng Đế, xin nghe đây! Tin Mừng về sự cứu rỗi nầy đã đến với chúng ta. 27 Dân chúng Giê-ru-sa-lem và các nhà lãnh đạo không nhận biết Chúa Giê-xu là Cứu Chúa. Họ không hiểu lời các nhà tiên tri mà họ nghe đọc mỗi ngày Sa-bát. Nhưng khi họ kết tội Chúa Giê-xu, thì vô tình họ đã thực hiện các lời tiên tri. 28 Mặc dù họ không tìm được lý do chính đáng nào để xử tử Chúa Giê-xu nhưng vẫn đòi Phi-lát giết Ngài. 29 Khi đã thực hiện xong tất cả những gì Thánh Kinh viết thì họ đem xác Ngài xuống khỏi cây thập tự và chôn trong mộ. 30 Nhưng Thượng Đế đã khiến Ngài sống lại từ trong kẻ chết! 31 Sau đó, những người đã từng theo Chúa Giê-xu từ Ga-li-lê đến Giê-ru-sa-lem nhìn thấy Chúa trong nhiều ngày. Hiện nay họ là những nhân chứng trước mặt dân chúng. 32 Chúng tôi thuật cho anh chị em Tin Mừng về lời mà Thượng Đế hứa cùng các tổ tiên chúng ta. 33 Thượng Đế đã làm thành lời hứa ấy cho chúng ta là con cái Ngài bằng cách khiến Chúa Giê-xu sống lại từ kẻ chết. Chúng ta đọc trong sách Thi thiên chương 2 như sau:

‘Ngươi là Con ta.
    Ngày nay ta sinh ngươi.’ (A)

34 Thượng Đế đã khiến Chúa Giê-xu sống lại từ kẻ chết, Ngài sẽ không trở lại mồ mả để thành tro bụi nữa. Ngài phán:

‘Ta sẽ cho ngươi những ân phúc thánh và vững chắc
    mà ta đã hứa cùng Đa-vít.’ (B)

35 Còn trong một chỗ khác, Thượng Đế phán:

‘Ngài không để Đấng Thánh của Ngài bị mục nát.’ (C)

36 Trọn đời sống Đa-vít làm theo ý Chúa. Khi chết ông được chôn bên cạnh các tổ tiên, thân xác ông bị mục nát trong mồ mả. 37 Nhưng Đấng mà Thượng Đế khiến sống lại từ kẻ chết không bị mục nát trong mồ mả. 38-39 Thưa anh chị em, anh chị em phải hiểu điều chúng tôi nói: Anh chị em có thể được tha tội qua Chúa Giê-xu. Luật pháp Mô-se không thể giải thoát anh chị em khỏi tội. Nhưng hễ ai tin thì đều được giải thoát khỏi tội lỗi qua Chúa Giê-xu. 40 Phải cẩn thận! Đừng để những gì các nhà tiên tri đã cảnh cáo xảy đến cho mình:

41 ‘Hỡi dân hay nghi ngờ, hãy nghe đây!
    Ngươi có thể sững sờ, rồi qua đời.
Trong đời ngươi, ta sẽ làm một việc
    mà ngươi sẽ không chịu tin
    dù cho có người thuật lại cho ngươi!’” (D)

42 Lúc Phao-lô và Ba-na-ba rời hội đường thì dân chúng yêu cầu hai ông đến ngày Sa-bát sau giảng thêm cho họ nghe nữa. 43 Nhóm họp xong, nhiều người Do-thái và những người mới theo đạo Do-thái và thờ kính Thượng Đế, từ hội đường đi theo Phao-lô và Ba-na-ba. Hai người khuyên họ cứ vững tin nơi ân phúc của Thượng Đế.

44 Ngày Sa-bát sau, hầu hết dân chúng trong thành phố đều đến nghe lời Chúa. 45 Thấy dân chúng đến đông, những người Do-thái đâm ra đố kỵ, thốt lên những lời nhục mạ và cãi vã lại những điều Phao-lô nói. 46 Nhưng Phao-lô và Ba-na-ba nói rất mạnh dạn rằng, “Chúng tôi đã rao truyền lời của Thượng Đế cho các ông trước. Nhưng vì các ông không chịu nghe, tự cho mình không đáng nhận sự sống đời đời, cho nên chúng tôi mới quay sang các dân tộc khác. 47 Đó chính là điều Chúa dặn chúng tôi,

‘Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng cho các dân;
    ngươi sẽ chỉ cho mọi dân trên thế giới con đường cứu rỗi.’” (E)

48 Những người không phải Do-thái nghe Phao-lô nói thế rất vui mừng và càng ham chuộng lời của Chúa. Những ai đã được lựa chọn để nhận sự sống đời đời đều tin lời ấy.

49 Lời Chúa được lan truyền ra khắp xứ. 50 Nhưng người Do-thái xúi giục một số các phụ nữ mộ đạo có uy tín và các giới lãnh đạo trong thành phố. Họ gây rối chống lại Phao-lô, Ba-na-ba và trục xuất hai người ra khỏi vùng ấy. 51 Vì thế Phao-lô và Ba-na-ba phủi bụi khỏi chân [a] mình rồi đi sang Y-cô-ni. 52 Còn các tín hữu hết sức vui mừng và đầy Thánh Linh.

Read full chapter

Footnotes

  1. Công Vụ Các Sứ đồ 13:51 phủi bụi khỏi chân Dấu hiệu cảnh cáo, chứng tỏ họ đã gạt bỏ các người ấy.

26 Thưa anh chị em là dòng dõi trong gia đình của Áp-ra-ham và thưa quý vị là những người kính sợ Ðức Chúa Trời, Ðạo[a] cứu rỗi này đã truyền cho chúng ta đó. 27 Vì đồng bào chúng ta ở Giê-ru-sa-lem và những người lãnh đạo của họ không nhận ra Ngài và không hiểu những lời các vị tiên tri đã nói mà chúng ta thường nghe đọc trong mỗi ngày Sa-bát, nên khi lên án Ngài họ đã làm ứng nghiệm mọi lời đã chép về Ngài. 28 Mặc dù họ không tìm thấy Ngài có tội gì đáng chết, họ vẫn đòi Phi-lát xử tử Ngài. 29 Khi họ đã làm ứng nghiệm mọi điều đã viết về Ngài, họ đem Ngài xuống khỏi cây gỗ và đặt Ngài trong một ngôi mộ. 30 Nhưng Ðức Chúa Trời đã làm cho Ngài sống lại từ cõi chết. 31 Rồi trong nhiều ngày Ngài đã hiện ra cho những người đi theo Ngài từ Ga-li-lê lên Giê-ru-sa-lem xem thấy, và hiện nay những người ấy đang làm chứng về Ngài cho nhiều người.

32 Hôm nay chúng tôi công bố cho anh chị em Tin Mừng mà Ðức Chúa Trời đã hứa với các tổ phụ chúng ta. 33 Ngài đã làm ứng nghiệm lời hứa của Ngài cho con cháu họ, tức cho chúng ta, bằng cách làm cho Ðức Chúa Jesus sống lại. Ðiều đó cũng đã được chép trong Thánh Thi thứ hai rằng,

‘Con là con Ta,
Ngày nay Ta đã sinh Con.’Thi 2:7

34 Còn về việc Ðức Chúa Trời đã làm cho Ngài sống lại từ cõi chết để không bao giờ trở về sự hư nát nữa, Ngài đã phán như thế này,

‘Ta sẽ ban cho các ngươi những lời hứa thánh và quả quyết với Ða-vít.’Ê-sai 55:3 LXX

35 Trong một Thánh Thi khác Ngài cũng đã nói,

‘Chúa sẽ không để cho Người Thánh của Ngài thấy sự hư nát.’Thi 16:10 LXX

36 Vì Vua Ða-vít, sau khi phục vụ thánh ý Ðức Chúa Trời trong thế hệ mình, đã an giấc, đã được về với các tổ tiên của vua, và đã kinh nghiệm sự hư nát, 37 nhưng Ðấng mà Ðức Chúa Trời đã làm cho sống lại thì không hề kinh nghiệm sự hư nát.

38 Vậy thưa anh chị em, anh chị em hãy biết rằng nhờ Ðấng ấy mà ơn tha tội đã được rao truyền cho anh chị em, 39 và nhờ Ngài, ai tin nhận sẽ được xưng công chính đối với mọi điều mà nếu cứ giữ theo Luật Pháp của Môi-se thì không ai có thể được xưng công chính.

40 Vậy anh chị em hãy để ý những gì đã nói trong sách Các Tiên Tri, để những điều ấy không xảy đến với anh chị em,

41 ‘Xem kìa,
Hỡi những kẻ hay khinh chê nhạo báng!
Hãy kinh ngạc và chết mất đi,
Vì trong thời các ngươi, Ta sẽ làm một việc,
Một việc khó tin cho các ngươi,
Cho dù có người đến nói với các ngươi.’”Hab 1:5 LXX

42 Khi Phao-lô và Ba-na-ba đi ra, họ nài xin hai ông hãy giảng những lời ấy vào ngày Sa-bát kế tiếp. 43 Sau khi buổi nhóm ở hội đường giải tán, nhiều người Do-thái và những người trong các dân ngoại theo Do-thái Giáo cách sùng tín đi theo Phao-lô và Ba-na-ba; hai ông giảng dạy thêm cho họ và khuyên họ cứ trung tín trong ân sủng của Ðức Chúa Trời.

44 Ngày Sa-bát kế tiếp, hầu như cả thành nhóm lại để nghe Ðạo[b] Chúa. 45 Nhưng khi người Do-thái thấy đám đông, họ đầy lòng ganh tị, nên bôi bác những điều Phao-lô rao giảng và mạ lỵ ông. 46 Vì thế Phao-lô và Ba-na-ba bạo dạn nói thẳng với họ, “Chúng tôi thấy cần phải rao truyền Ðạo[c] Ðức Chúa Trời cho anh chị em trước nhất; nhưng vì anh chị em khước từ và xét mình không xứng đáng để hưởng sự sống đời đời, nên này, chúng tôi quay qua các dân ngoại, 47 vì Chúa cũng đã truyền cho chúng tôi rằng,

‘Ta đã đặt ngươi làm ánh sáng cho các dân ngoại,
Ðể ngươi đem ơn cứu rỗi đến tận cùng trái đất.’”Ê-sai 49:6

48 Khi những người trong các dân ngoại nghe như vậy, họ vui mừng và tôn vinh Ðạo[d] Chúa. Hễ ai đã được định để hưởng sự sống đời đời đều tin theo.

49 Vậy Ðạo Chúa được tràn ra khắp xứ đó. 50 Tuy nhiên người Do-thái ở đó đã sách động quý bà trong giới thượng lưu theo Do-thái Giáo và những người lãnh đạo trong thành. Họ xúi giục những người ấy bắt bớ Phao-lô và Ba-na-ba và đuổi hai ông ra khỏi địa phận của họ. 51 Vì thế hai ông phủi bụi dính chân mình để phản đối họ, rồi lên đường đến I-cô-ni-um. 52 Còn các môn đồ thì đầy dẫy niềm vui và Ðức Thánh Linh.

Read full chapter

Footnotes

  1. Công Vụ Các Sứ đồ 13:26 nt: Lời (Lógos)
  2. Công Vụ Các Sứ đồ 13:44 nt: Lời (Lógos) Chúa; Bản Byzantine ghi, “Lời Ðức Chúa Trời.”
  3. Công Vụ Các Sứ đồ 13:46 nt: Lời (Lógos) Ðức Chúa Trời
  4. Công Vụ Các Sứ đồ 13:48 nt: Lời (Lógos) Chúa (tương tự trong 13:49)