Add parallel Print Page Options

Giê-rê-mi bị quăng xuống giếng

38 Sê-pha-tia, con Mát-tan, Ghê-đa-lia, con Ba-sua, Giê-hu-can, con Sê-lê-mia, và Ba-sua, con Manh-ki-gia nghe rằng Giê-rê-mi đã bảo toàn thể dân chúng: CHÚA phán như sau: “Ai ở lại Giê-ru-sa-lem sẽ chết vì chiến tranh, đói kém, dịch lệ. Nhưng ai đầu hàng quân Ba-by-lôn sẽ sống. Họ sẽ thoát và được bảo toàn mạng sống như nhận được chiến lợi phẩm.” Và CHÚA phán như sau: “Thành Giê-ru-sa-lem nầy chắc chắn sẽ bị trao vào quân của vua Ba-by-lôn. Người sẽ chiếm lấy thành nầy!”

Sau đó các quần thần đề nghị với vua, “Phải xử tử Giê-rê-mi! Nó làm nản lòng quân sĩ đang ở trong thành và toàn dân bằng những lời tuyên bố mình. Nó chẳng muốn điều tốt cho chúng ta mà chỉ muốn hủy hoại chúng ta thôi.”

Vua Xê-đê-kia bảo họ, “Nầy ông ta ở trong tay các ngươi. Ta không làm gì cản các ngươi đâu.”

Vậy các viên chức bắt Giê-rê-mi quăng xuống giếng của Manh-ki-gia, con trai vua, nằm trong sân của toán cận vệ. Họ dùng dây thừng thả Giê-rê-mi xuống giếng. Giếng không có nước, chỉ có bùn nên Giê-rê-mi lún xuống bùn.

Nhưng có Ê-bết Mê-léc, người Cút và là một tôi tớ trong cung điện, nghe các viên chức đã thả Giê-rê-mi xuống giếng. Trong khi vua Xê-đê-kia đang ngồi nơi cổng Bên-gia-min, thì Ê-bết Mê-léc rời cung đi đến gặp vua. Ê-bết Mê-léc thưa cùng vua rằng, “Thưa chúa và vua tôi ơi, các viên quan nầy hành động ác độc lắm. Họ đối xử với nhà tiên tri thật tệ bạc. Họ đã quăng ông vào giếng để ông chết trong đó! Khi trong thành không còn bánh nữa, ông ta cũng sẽ chết đói thôi.”

10 Vua Xê-đê-kia liền ra lệnh cho Ê-bết Mê-léc người Cút, “Đem ba mươi [a] người từ cung vua để kéo nhà tiên tri Giê-rê-mi ra khỏi giếng trước khi người chết.”

11 Vậy Ê-bết Mê-léc mang những người đó cùng với mình vào phòng ngay dưới kho trong cung vua lấy giẻ và áo quần cũ. Rồi dùng dây thừng thòng các thứ đó xuống giếng cho Giê-rê-mi. 12 Ê-bết Mê-léc người Cút bảo Giê-rê-mi, “Ông hãy quấn các áo quần và giẻ cũ quanh nách để làm đệm cho dây thừng.” Giê-rê-mi làm theo như vậy. 13 Rồi họ kéo ông lên theo dây thừng và mang ông ra khỏi giếng. Giê-rê-mi bị giam trong sân của toán cận vệ.

Xê-đê-kia chất vấn Giê-rê-mi

14 Sau đó vua Xê-đê-kia cho người giải Giê-rê-mi đến trước mặt mình nơi cổng thứ ba của đền thờ CHÚA. Vua bảo Giê-rê-mi, “Ta muốn hỏi ngươi một điều. Ngươi không được giấu ta điều gì, phải nói thật.”

15 Giê-rê-mi thưa, “Nếu tôi nói cho vua câu trả lời, chắc chắn vua sẽ giết tôi. Còn nếu tôi khuyên vua thì vua cũng không thèm nghe.”

16 Vua Xê-đê-kia hứa kín cùng Giê-rê-mi, “Ta lấy danh CHÚA hằng sống là Đấng ban cho chúng ta hơi thở và sự sống mà thề rằng ta sẽ không giết ngươi cũng không giao ngươi vào tay những viên chức muốn giết ngươi.”

17 Vậy Giê-rê-mi nói cùng vua Xê-đê-kia rằng, “CHÚA Toàn Năng, Thượng Đế của Ít-ra-en phán: ‘Nếu ngươi đầu hàng các sĩ quan của vua Ba-by-lôn thì mạng sống vua sẽ được bảo toàn. Giê-ru-sa-lem sẽ không bị hỏa thiêu, vua và gia đình vua sẽ sống. 18 Nhưng nếu vua không chịu đầu hàng các sĩ quan của vua Ba-by-lôn thì thành nầy sẽ bị trao vào tay quân Ba-by-lôn; chúng sẽ thiêu rụi thành, còn vua sẽ không thoát khỏi tay chúng.’”

19 Vua Xê-đê-kia bảo Giê-rê-mi, “Ta sợ những người Giu-đa đã bỏ trốn theo người Canh-đê. Nếu người Ba-by-lôn trao ta vào tay chúng thì chúng sẽ hành hạ ta.”

20 Nhưng Giê-rê-mi bảo đảm, “Quân Ba-by-lôn sẽ không trao vua vào tay người Do-thái đâu. Xin vua hãy vâng lời CHÚA đã phán qua tôi để vua được bình yên và bảo toàn mạng sống. 21 Nhưng nếu vua không chịu đầu hàng người Ba-by-lôn thì CHÚA cho tôi biết những gì sẽ xảy ra. 22 Tất cả những người đàn bà còn lại trong cung vua Giu-đa sẽ bị mang ra trình diện các sĩ quan cao cấp của vua Ba-by-lôn. Họ sẽ chế nhạo vua bằng bài ca sau đây:

‘Các bạn vua đã giăng bẫy cho vua
    và mạnh hơn vua;
Trong khi chân vua đã lún vào bùn,
    thì họ bỏ đi.’

23 Tất cả các vợ và con của vua sẽ bị mang ra giao cho quân Ba-by-lôn. Vua sẽ không thoát khỏi tay họ mà sẽ bị vua Ba-by-lôn bắt, còn Giê-ru-sa-lem sẽ bị thiêu rụi.”

24 Vua Xê-đê-kia liền bảo Giê-rê-mi, “Đừng cho ai biết ta đã nói chuyện với ngươi thì ngươi sẽ không chết. 25 Nhưng nếu các viên chức nghe rằng ta đã nói chuyện với ngươi rồi họ đến bảo ngươi, ‘Hãy nói cho chúng ta biết ngươi đã nói với vua những gì và vua nói với ngươi ra sao. Nếu ngươi không chịu nói thì chúng ta sẽ giết ngươi.’ 26 Nếu họ hỏi thì ngươi phải trả lời với họ như sau, ‘Tôi đã van xin vua đừng đưa tôi trở về nhà Giô-na-than kẻo tôi chết ở đó.’”

27 Sau đó các viên chức đến hỏi Giê-rê-mi. Ông thuật lại cho họ theo như vua dặn. Cho nên họ thôi không hỏi nữa vì không ai nghe được Giê-rê-mi và vua đã nói gì với nhau.

28 Giê-rê-mi bị giam trong sân của toán cận vệ cho đến ngày thành Giê-ru-sa-lem bị chiếm.

Thành Giê-ru-sa-lem thất thủ

39 Thành Giê-ru-sa-lem bị chiếm như sau: Tháng mười, năm thứ chín đời Xê-đê-kia, vua Giu-đa, thì Nê-bu-cát-nết-xa vua Ba-by-lôn cùng toàn đạo quân kéo đến vây đánh Giê-ru-sa-lem. Cuộc vây hãm kéo dài đến ngày chín tháng tư năm thứ mười một, đời vua Xê-đê-kia, thì thành bị chọc thủng. Tất cả các sĩ quan sau đây của vua Ba-by-lôn tiến vào Giê-ru-sa-lem và đến ngồi ở Cổng Giữa: Nê-ganh Sa-rê-xe, Xam-ga Nê-bô, Xa-xê-kim, sĩ quan tư lệnh người Ráp-sa-ít, Nê-ganh Sa-rê-xe người Ráp-ma, cùng toàn thể các viên chức cao cấp khác.

Khi Xê-đê-kia vua Giu-đa và các binh sĩ thấy họ thì bỏ trốn lúc ban đêm, chạy theo ngõ vườn vua, lẻn qua cổng giữa hai vách thành rồi trốn theo hướng thung lũng Giô-đanh. Nhưng quân Ba-by-lôn rượt theo và đuổi kịp vua Xê-đê-kia trong bình nguyên Giê-ri-cô. Sau khi bắt được vua, họ giải ông đến trước Nê-bu-cát-nết-xa, vua Ba-by-lôn đang ở thành Ríp-la trong xứ Ha-mát. Vua Ba-by-lôn kết án Xê-đê-kia ở đó. Rồi vua Ba-by-lôn giết các con trai Xê-đê-kia và các viên chức cao cấp của Giu-đa trước mắt vua ở Ríp-la. Họ móc mắt Xê-đê-kia, lấy xiềng sắt xích ông lại và giải qua Ba-by-lôn.

Sau đó quân Ba-by-lôn phóng hỏa cung vua cùng với nhà cửa của dân chúng và phá sập các vách thành quanh Giê-ru-sa-lem. Rồi Nê-bu-xa-ra-đan, chỉ huy toán cận vệ đặc biệt giải qua Ba-by-lôn tất cả dân chúng còn lại trong thành cùng những người trước đó đã đầu thú cùng với đám dân cư còn lại. 10 Nê-bu-xa-ra-đan, chỉ huy toán cận vệ chỉ chừa lại trong xứ Giu-đa những người nghèo khổ, khố rách áo ôm, rồi ngày hôm đó cấp cho họ vườn nho và đồng ruộng để trồng trọt.

11 Nê-bu-cát-nết-xa, vua Ba-by-lôn ra lệnh cho Nê-bu-xa-ra-đan, chỉ huy toán cận vệ như sau về Giê-rê-mi: 12 “Hãy tìm Giê-rê-mi và chăm sóc cẩn thận, không được làm hại người điều gì; nhưng hãy làm theo điều người yêu cầu.” 13 Vậy Nê-bu-cát-nết-xa sai những người sau đây đi tìm Giê-rê-mi: Nê-bu-xa-ra-đan, chỉ huy toán cận vệ; Nê-bu-sa-ban, sĩ quan tư lệnh; Nê-ganh Sa-rê-xe, một viên chức cao cấp và tất cả các sĩ quan nòng cốt của vua Ba-by-lôn; 14 Họ mang Giê-rê-mi từ sân của toán cận vệ rồi giao cho Ghê-đa-lia [b], con A-hi-cam, cháu Sa-phan là người nhận lệnh đưa ông về nhà. Vậy họ đưa ông về nhà và ông ở chung với dân chúng còn sót lại tại Giu-đa.

Sứ điệp của Chúa cho Ê-bết-Mê-léc

15 Trong khi đó có lời CHÚA phán cùng Giê-rê-mi đang khi ông đang bị nhốt trong sân khám rằng: 16 “Giê-rê-mi, hãy đi bảo Ê-bết-Mê-léc [c], người Cút rằng, CHÚA Toàn Năng, Thượng Đế của Ít-ra-en phán như sau, ‘Ta sắp thực hiện những lời về Giê-ru-sa-lem bằng thảm họa chứ không bằng thái bình, thịnh vượng. Những lời đó sẽ thành sự thật trước mắt ngươi. 17 Nhưng CHÚA phán, ta sẽ giải thoát ngươi trong ngày đó, ngươi sẽ không bị trao vào tay của những người mà ngươi sợ. 18 Ta chắc chắn sẽ giải cứu ngươi, hỡi Ê-bết-Mê-léc. Ngươi sẽ không bị gươm giết; ngươi sẽ thoát và được sống vì ngươi đã đặt niềm tin cậy nơi ta,’ CHÚA phán vậy.”

Giê-rê-mi được trả tự do

40 Có lời của CHÚA phán cùng Giê-rê-mi sau khi Nê-bu-xa-ra-đan, chỉ huy toán phòng vệ phóng thích ông ở Ra-ma. Ông tìm được Giê-rê-mi ở Ra-ma đang bị xiềng chung với đám tù binh Giu-đa và Giê-ru-sa-lem sắp bị đày qua Ba-by-lôn. Khi Nê-bu-xa-ra-đan tìm được Giê-rê-mi thì nói cùng ông rằng, “CHÚA là Thượng Đế các ngươi đã tuyên bố thảm họa sẽ xảy đến cho nơi nầy. Nay CHÚA đã thực hiện điều đó y như Ngài đã phán. Thảm họa nầy xảy đến vì dân Giu-đa phạm tội cùng CHÚA, không vâng lời Ngài. Nhưng bây giờ, ta đã tháo xiềng cho ngươi. Nếu ngươi muốn sang Ba-by-lôn với ta thì đi, ta sẽ lo cho ngươi, nhưng nếu ngươi không muốn đi thì thôi. Nầy, cả xứ đang ở trước mặt ngươi, ngươi muốn đi đâu tùy ý.” Khi Giê-rê-mi sắp sửa ra đi thì Nê-bu-xa-ra-đan bảo, “Hãy trở về với Ghê-đa-lia [d], con A-hi-cam, cháu Sa-phan mà vua Ba-by-lôn đã đặt làm quan tổng trấn các thành Giu-đa cũng được. Hãy ở với người trong vòng dân tộc ngươi. Hay ngươi muốn đi đâu tùy ý.”

Vậy Nê-bu-xa-ra-đan cấp cho Giê-rê-mi lương thực và một món quà rồi thả ông ra. Giê-rê-mi liền đi đến Mích-ba ở với Ghê-đa-lia, con A-hi-cam và giữa những dân còn lại trong xứ.

Thời gian cai trị ngắn ngủi của Ghê-đa-lia

Khi các viên chỉ huy và quân sĩ Giu-đa dưới quyền ở ngoài đồng nghe vua Ba-by-lôn đã cử Ghê-đa-lia, con trai A-hi-cam làm tổng trấn trong xứ và giao cho ông quản trị đàn ông, đàn bà, trẻ con cùng những người nghèo khổ trong xứ không bị đày sang Ba-by-lôn, thì họ đều đến gặp Ghê-đa-lia ở Mích-ba. Trong số đó có Ích-ma-ên, con Nê-tha-nia, Giô-ha-nan và Giô-na-than con của Ka-rê-a, Sê-rai-gia con Tan-hu-mết, các con trai của Ê-phai người Nê-tô-phát, và Giê-xa-nia, con Ma-a-ca. Họ và binh sĩ dưới quyền đều đến.

Ghê-đa-lia, con của A-hi-cam, cháu Sa-phan hứa cùng họ rằng, “Đừng sợ phải phục vụ người Ba-by-lôn. Hãy cứ ở trong xứ và thần phục vua Ba-by-lôn thì mọi việc sẽ êm thấm. 10 Còn về phần ta, các ngươi phải biết, ta sẽ vẫn cứ ở tại Mích-ba để đại diện các ngươi trước mặt người Ba-by-lôn đã đến với chúng ta. Hãy gom góp rượu, các hoa quả mùa hè, dầu và bỏ tất cả trong thùng chứa rồi cư ngụ trong các thành mà các ngươi kiểm soát.”

11 Các người Giu-đa khác đang ở Mô-áp, Am-môn, Ê-đôm và trong các xứ khác nghe rằng vua Ba-by-lôn đã để lại một số người ở Giu-đa và rằng vua đã lập Ghê-đa-lia, con A-hi-cam, cháu Sa-phan làm tổng trấn, 12 thì họ đều từ những nơi họ chạy trốn trở về xứ Giu-đa, đến cùng Ghê-đa-lia ở Mích-ba, và thu gom rượu và hoa quả mùa hè nhiều vô số.

13 Giô-ha-nan, con Ka-rê-a cùng tất cả các viên chỉ huy quân đội đang ở ngoài đồng đến cùng Ghê-đa-lia tại Mích-ba 14 nói cùng ông rằng, “Ông có biết rằng Ba-a-li, vua dân Am-môn đã sai Ích-ma-ên, con Nê-tha-nia đến để ám sát ông không?” Nhưng Ghê-đa-lia, con A-hi-cam không tin họ.

15 Sau đó Giô-ha-an con Ka-rê-a nói riêng với Ghê-đa-lia ở Mích-ba rằng, “Cho phép tôi đi giết Ích-ma-ên, con Mê-tha-nia mà không ai biết. Tại sao để nó giết ông để khiến cho tất cả người Do-thái đã quy tụ quanh ông phải tản lạc và những người còn sót lại trong Giu-đa bị tiêu diệt?”

16 Nhưng Ghê-đa-lia, con A-hi-cam trả lời cùng Giô-ha-nan con Ka-ê-ra rằng, “Đừng giết Ích-ma-ên vì ngươi đã bịa đặt vu khống anh ta.”

Footnotes

  1. Giê-rê-mi-a 38:10 ba mươi Đây là theo bản Hê-bơ-rơ. Có một bản Hê-bơ-rơ khác chỉ ghi “ba.”
  2. Giê-rê-mi-a 39:14 Ghê-đa-lia Người mà vua Nê-bu-cát-nết-xa lập làm tổng trấn xứ Giu-đa.
  3. Giê-rê-mi-a 39:16 Ê-bết-Mê-léc Xem Giê 38:7-13 để biết rõ hơn về người nầy.
  4. Giê-rê-mi-a 40:5 Hãy trở về với Ghê-đa-lia Hay “Trước khi Ghê-đa-lia trở về, hãy đến với người.”

Giê-rê-mi Bị Bỏ Dưới Giếng Cạn

38 Lúc ấy Sê-pha-ti-a con của Mát-tan, Ghê-đa-li-a con của Pát-khua, Giu-canh con của Sê-lê-ni-a, và Pát-khua con của Manh-ki-a đã nghe những lời Giê-rê-mi nói với toàn dân rằng, Chúa phán thế này, ‘Ai cứ ở trong thành này sẽ bị chết vì gươm giáo, nạn đói, và ôn dịch; nhưng ai đi ra đầu hàng quân Canh-đê sẽ được sống. Ít nữa người ấy cũng sẽ giữ được mạng và sống còn.’” Chúa phán thế này, ‘Chắc chắn thành này sẽ bị phó vào tay quân của vua Ba-by-lôn, và chúng sẽ chiếm lấy thành.’”

Bấy giờ các tướng lãnh tâu với vua, “Xin chúa thượng cho xử tử tên này đi, vì hắn đã nói những lời ấy, làm nản lòng chiến sĩ và mọi người còn lại trong thành, bởi hắn chẳng tìm điều gì có lợi cho dân này, nhưng toàn là điều có hại.”

Vua Xê-đê-ki-a đáp, “Này, ông ấy đang nằm trong tay các ngươi, vì ngay cả vua còn chẳng có thể làm gì trái ý các ngươi.”

Vậy họ bắt Giê-rê-mi và quăng ông vào giếng của Hoàng Tử Manh-ki-a. Giếng ấy nằm trong doanh trại của đội quân thị vệ. Họ dùng các dây thừng dòng Giê-rê-mi xuống giếng. Bấy giờ giếng ấy chỉ còn bùn chứ không có nước, vì vậy Giê-rê-mi bị lún sâu trong bùn.

Ê-bết Mê-lếch Cứu Giê-rê-mi

Ê-bết Mê-lếch người Ê-thi-ô-pi, một trong các quan thái giám phục vụ trong cung vua, nghe tin Giê-rê-mi đã bị bỏ vào giếng – lúc đó vua đang ngồi tại Cổng Bên-gia-min. Ê-bết Mê-lếch rời cung vua, đến ra mắt vua, và tâu với vua, “Tâu chúa thượng, những việc các vị tướng lãnh ấy làm đối với Tiên Tri Giê-rê-mi thật ác quá. Bỏ ông ấy xuống giếng để ông ấy chết đói dưới đó trong khi trong thành không còn bánh quả là nhẫn tâm.”

10 Vua bèn truyền cho Ê-bết Mê-lếch người Ê-thi-ô-pi, “Hãy dẫn ba người ở đây đi với ngươi, và hãy kéo Tiên Tri Giê-rê-mi lên trước khi ông ấy chết dưới đó.” 11 Vậy Ê-bết Mê-lếch dẫn những người ấy đi với ông trở vào cung vua. Ông đến kho quần áo trong hoàng cung, lấy những vải cũ và quần áo cũ; rồi ông lấy các dây thừng dòng chúng xuống giếng cho Giê-rê-mi. 12 Ê-bết Mê-lếch người Ê-thi-ô-pi nói với Giê-rê-mi, “Xin ông lấy vải cũ và quần áo cũ lót dưới hai nách của ông và máng các dây thừng vào.” Giê-rê-mi làm y như vậy. 13 Kế đó những người ấy dùng các dây thừng kéo Giê-rê-mi lên khỏi giếng. Giê-rê-mi tiếp tục bị giam giữ trong doanh trại của đội quân thị vệ.

Xê-đê-ki-a Tham Khảo Ý Kiến của Giê-rê-mi

14 Vua Xê-đê-ki-a sai người đến mời Tiên Tri Giê-rê-mi vào gặp riêng ông ở cổng thứ ba của nhà Chúa. Vua nói với Giê-rê-mi, “Tôi có điều muốn hỏi ông. Xin ông đừng giấu tôi điều chi.”

15 Giê-rê-mi thưa với vua, “Nếu tôi nói thật với ngài, liệu ngài sẽ giết tôi không? Và nếu tôi khuyên ngài, liệu ngài có nghe lời tôi không?” 16 Vua Xê-đê-ki-a bí mật thề với Giê-rê-mi rằng, “Có Chúa hằng sống, Ðấng ban mạng sống cho chúng ta, làm chứng cho: Tôi sẽ không giết ông và tôi cũng sẽ không trao ông vào tay những người ấy, những kẻ tìm hại mạng sống ông.”

17 Bấy giờ Giê-rê-mi nói với Xê-đê-ki-a, “Chúa, Ðức Chúa Trời các đạo quân, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, phán thế này, ‘Nếu ngươi ra đầu hàng các quan tướng của vua Ba-by-lôn, chắc chắn ngươi sẽ giữ được mạng, thành này sẽ không bị phóng hỏa, ngươi và gia đình ngươi sẽ được sống. 18 Nhưng nếu ngươi không ra đầu hàng các quan tướng của vua Ba-by-lôn, thành này sẽ bị phó vào tay quân Canh-đê, chúng sẽ phóng hỏa thành, và bản thân ngươi sẽ không thoát khỏi tay chúng.’”

19 Vua Xê-đê-ki-a nói với Giê-rê-mi, “Tôi sợ những người Giu-đa đã đào ngũ qua với quân Canh-đê, vì tôi có thể bị trao cho những người đó, và họ sẽ làm nhục tôi.”

20 Giê-rê-mi nói, “Chuyện đó sẽ không xảy ra. Xin ngài hãy vâng lời của Chúa, làm theo những gì tôi đã thưa với ngài, thì mọi sự sẽ tốt đẹp với ngài, và ngài sẽ bảo toàn được tính mạng. 21 Nhưng nếu ngài nhất quyết không đầu hàng, thì đây là những gì Chúa đã tỏ cho tôi hay: 22 Này, tất cả các phụ nữ còn sót lại trong cung vua Giu-đa sẽ bị dẫn đi nộp cho các quan tướng của vua Ba-by-lôn, bấy giờ các phụ nữ ấy sẽ nói rằng:

‘Các bạn thân của ngài đã thuyết phục ngài,
Và ngài đã nghe lời họ;
Ðến khi chân ngài bị lún sâu trong bùn,
Họ bỏ mặc ngài để chạy thoát thân.’

23 Tất cả các vợ con ngài sẽ bị dẫn đem nộp cho quân Canh-đê; chính bản thân ngài cũng không thoát khỏi tay họ, nhưng ngài sẽ bị vua Ba-by-lôn bắt sống, và thành này sẽ bị phóng hỏa.”

24 Bấy giờ Xê-đê-ki-a nói với Giê-rê-mi, “Ðừng nói cho ai biết những gì chúng ta đã nói với nhau hôm nay, bằng không ông sẽ phải chết. 25 Nếu các tướng lãnh nghe rằng tôi đã nói chuyện với ông, chắc chắn họ sẽ đến hỏi ông, ‘Hãy nói cho chúng tôi biết ông đã nói gì với vua; chớ giấu chúng tôi điều gì, bằng không chúng tôi sẽ không tha mạng ông đâu. Vua đã nói với ông điều gì?’ 26 Bấy giờ ông hãy trả lời họ, ‘Tôi van xin vua đừng gởi trả tôi lại dinh của Giô-na-than, kẻo tôi sẽ chết ở đó.’”

27 Quả y như vậy, sau đó tất cả các tướng lãnh đến gặp Giê-rê-mi và tra hỏi ông; nhưng ông trả lời họ y như những lời vua đã truyền. Cuối cùng họ không thèm hỏi ông nữa, và câu chuyện giữa ông và vua không được ai biết. 28 Giê-rê-mi cứ bị giam trong doanh trại của đội quân thị vệ cho đến ngày Giê-ru-sa-lem bị thất thủ.

Giê-ru-sa-lem Bị Thất Thủ

39 Vào tháng mười, năm thứ chín của triều đại Xê-đê-ki-a vua Giu-đa, Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn và toàn thể đại quân của ông đến tấn công Giê-ru-sa-lem và bao vây nó. Ðến ngày chín tháng tư năm thứ mười một của triều đại Xê-đê-ki-a, tường thành bị chọc thủng. Sau khi Giê-ru-sa-lem bị thất thủ, tất cả các quan tướng của vua Ba-by-lôn đến và ngồi ở cổng giữa: Nẹt-ganh Sa-rê-xê, Sam-ga Nê-bô, Sạc-sê-khim quan tổng tư lệnh, Nẹt-ganh Sa-rê-xê mưu sĩ của vua, cùng tất cả các tướng lãnh khác của vua Ba-by-lôn.

Khi Xê-đê-ki-a vua Giu-đa và các binh sĩ của ông thấy những người ấy, họ liền bỏ trốn. Ban đêm họ lẻn theo ngả vườn ngự uyển, đi qua cổng giữa hai bức tường, và chạy về hướng A-ra-ba. Nhưng quân Canh-đê đuổi theo họ và bắt kịp Xê-đê-ki-a trong đồng bằng Giê-ri-cô. Sau khi đã bắt sống Xê-đê-ki-a, họ dẫn ông về nộp cho Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn lúc ấy đang ở Ríp-la, trong xứ Ha-mát; tại đó ông tuyên án họ. Vua Ba-by-lôn giết các con của Xê-đê-ki-a ngay trước mắt cha chúng tại Ríp-la. Vua Ba-by-lôn cũng giết tất cả những người quyền quý của Giu-đa. Ông truyền lịnh móc mắt của Xê-đê-ki-a, dùng xiềng đồng trói ông ấy lại, rồi cho dẫn ông ấy qua Ba-by-lôn. Quân Canh-đê thiêu rụi các cung điện của vua và nhà cửa của dân. Chúng cũng đập phá tường thành Giê-ru-sa-lem đổ xuống. Lúc ấy Nê-bu-xa-ra-đan quan chỉ huy quân thị vệ bắt những người dân còn lại trong thành, những người đã đầu hàng với ông, và những người dân còn sót lại trong xứ đem lưu đày qua Ba-by-lôn. 10 Nê-bu-xa-ra-đan quan chỉ huy quân thị vệ chỉ để lại trong xứ Giu-đa những người cùng đinh nghèo khó, không có tài sản đất đai, và chia các vườn nho và ruộng đất cho họ.

Giê-rê-mi Ðược Trả Tự Do

11 Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn ra lịnh cho Nê-bu-xa-ra-đan quan chỉ huy quân thị vệ về việc Giê-rê-mi rằng, 12 “Hãy đưa ông ấy ra và chăm sóc ông ấy tử tế. Chớ làm hại ông ấy điều gì, nhưng hãy giúp đỡ ông ấy mọi việc ông ấy yêu cầu.”

13 Vậy vua sai Nê-bu-xa-ra-đan quan chỉ huy quân thị vệ, Nê-bu-sa-ban quan chỉ huy trưởng, Nẹt-ganh Sa-rê-xê mưu sĩ của vua, và tất cả các tướng lãnh của vua Ba-by-lôn 14 sai người đem Giê-rê-mi ra khỏi doanh trại của đội quân thị vệ. Họ trao ông cho Ghê-đa-li-a con của A-hi-cam con của Sa-phan để đưa ông về nhà, hầu ông được sống giữa dân ông.

Ê-bết Mê-lếch Ðược Nhớ Ðến

15 Lời của Chúa đến với Giê-rê-mi trong khi ông bị giam trong doanh trại của đội quân thị vệ: 16 “Hãy đi nói cho Ê-bết Mê-lếch người Ê-thi-ô-pi biết rằng Chúa các đạo quân, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, phán thế này, ‘Ta sẽ làm ứng nghiệm mọi lời Ta đã phán về thành này, để giáng họa chứ không phải để ban phước. Những điều đó sẽ xảy ra trong một ngày trước mắt ngươi. 17 Nhưng Ta sẽ cứu ngươi trong ngày ấy,’ Chúa phán, ‘và ngươi sẽ không bị trao vào tay của những kẻ ngươi sợ, 18 vì Ta chắc chắn sẽ cứu ngươi và ngươi sẽ không bị ngã chết vì gươm, nhưng ngươi sẽ giữ được mạng sống mình, bởi vì ngươi đã tin cậy Ta,’ Chúa phán.”

Giê-rê-mi và Tổng Trấn Ghê-đa-li-a

40 Lời của Chúa đến với Giê-rê-mi sau khi Nê-bu-xa-ra-đan quan chỉ huy quân thị vệ thả ông ra ở Ra-ma. Số là ông ấy đã gặp ông đang bị xiềng giữa những người Giê-ru-sa-lem và Giu-đa bị bắt để đem đi lưu đày ở Ba-by-lôn. Quan chỉ huy quân thị vệ truyền đem Giê-rê-mi đến và nói với ông, “Chúa, Ðức Chúa Trời của ông, đã cảnh cáo xứ này bằng những tai họa. Bây giờ Ngài đã thực hiện điều ấy. Ngài đã làm cho ứng nghiệm lời Ngài, bởi vì mọi người ở đây đã phạm tội chống lại Chúa và không vâng theo tiếng Ngài. Vì thế tai họa này đã giáng trên các người. Này, hôm nay tôi mở xiềng ra khỏi tay ông. Nếu ông muốn đi với tôi qua Ba-by-lôn, xin mời ông đi, tôi sẽ chăm sóc ông tử tế; nhưng nếu ông không muốn đi với tôi qua Ba-by-lôn, ông không cần miễn cưỡng phải ra đi. Hãy xem, cả xứ đang ở trước mặt ông, hãy đến bất cứ nơi nào ông thấy tốt và thuận tiện. Nếu ông quyết định ở lại, ông nên trở về với Ghê-đa-li-a con của A-hi-cam con của Sa-phan, người được vua Ba-by-lôn lập làm tổng trấn các thành ở Giu-đa. Hãy ở với ông ấy giữa dân tộc ông, hay đi đến bất cứ nơi nào ông thích.”

Vậy quan chỉ huy quân thị vệ cung cấp lương thực cho ông và tặng quà cho ông, rồi để ông đi. Sau đó Giê-rê-mi đến với Ghê-đa-li-a con của A-hi-cam đang ở tại Mích-pa và ở với ông ấy giữa những người còn sót lại trong xứ.

Khi các lãnh tụ của các lực lượng kháng chiến ở các địa phương và quân lính của họ nghe rằng vua Ba-by-lôn đã lập Ghê-đa-li-a con của A-hi-cam làm tổng trấn trong xứ và đã trao quyền cho ông ấy lãnh đạo đàn ông, đàn bà, trẻ con, và những người nghèo khó nhất trong xứ không bị bắt đem lưu đày ở Ba-by-lôn, họ đến gặp Ghê-đa-li-a ở Mích-pa – đó là Ích-ma-ên con của Nê-tha-ni-a, Giô-ha-nan con của Ca-rê-a, Sê-ra-gia con của Tan-hu-mết, các con của Ê-phai thuộc dòng dõi của Nê-tô-pha, Giê-xa-ni-a thuộc dòng dõi của Ma-a-ca, họ và quân lính của họ. Ghê-đa-li-a con của A-hi-cam con của Sa-phan thề với họ và quân lính của họ rằng, “Ðừng sợ phải làm tôi người Canh-đê. Hãy cứ ở trong xứ và thần phục vua Ba-by-lôn, thì quý vị sẽ không hề hấn gì. 10 Phần tôi, tôi sẽ ở tại Mích-pa để thay mặt quý vị giao tiếp với người Canh-đê mỗi khi họ đến kiểm tra chúng ta; còn phần quý vị, quý vị hãy thu hoạch rượu, trái cây, và dầu, rồi chứa trong các vò của quý vị. Xin quý vị cứ trở về sống trong các thành quý vị đã chiếm được.”

11 Tương tự, tất cả người Giu-đa đang tị nạn giữa dân Mô-áp, dân Am-môn, dân Ê-đôm, và các xứ khác nghe rằng vua Ba-by-lôn đã chừa lại một số người Giu-đa và đã lập Ghê-đa-li-a con của A-hi-cam con của Sa-phan làm tổng trấn để trông coi họ. 12 Bấy giờ tất cả người Giu-đa từ mọi nơi họ đã tản cư đều trở về xứ Giu-đa. Họ đến sống với Ghê-đa-li-a tại Mích-pa. Họ thu hoạch rượu và các loại trái cây mùa hè rất nhiều.

13 Lúc ấy Giô-ha-nan con của Ca-rê-a và tất cả lãnh tụ các lực lượng kháng chiến ở các địa phương đến với Ghê-đa-li-a ở Mích-pa 14 và nói với ông, “Ông có biết rằng Ba-a-li vua dân Am-môn đã sai Ích-ma-ên con của Nê-tha-ni-a đi ám sát ông không?” Nhưng Ghê-đa-li-a con của A-hi-cam không tin lời họ nói. 15 Bấy giờ Giô-ha-nan con của Ca-rê-a nói riêng với Ghê-đa-li-a ở Mích-pa rằng, “Xin ông cho phép tôi đi lấy mạng Ích-ma-ên con của Nê-tha-ni-a, và không ai biết đâu. Tại sao hắn muốn lấy mạng ông để tất cả người Giu-đa quy tụ chung quanh ông phải bị tản lạc một lần nữa, và dân Giu-đa còn lại sẽ bị diệt mất?”

16 Tuy nhiên Ghê-đa-li-a con của A-hi-cam nói với Giô-ha-nan con của Ca-rê-a, “Ðừng làm như vậy. Ông chỉ nói vu cho Ích-ma-ên.”

Lời cầu nguyện của một dân tộc đang gặp khốn đốn

Bài ca theo thể mạch-kinh của A-sáp.

74 Lạy Thượng Đế, sao Ngài từ bỏ chúng tôi quá lâu?
    Sao Ngài nổi giận cùng chúng tôi là bầy chiên của đồng cỏ Ngài?
Xin nhớ lại rằng dân mà Ngài đã chuộc từ xưa.
Ngài cứu chúng tôi, chúng tôi thuộc riêng về Ngài.
    Ngài ngự tại núi Xi-ôn.
Xin hãy bước đến các nơi đổ nát lâu đời nầy;
    kẻ thù đã phá tan đền thờ Ngài.

Những kẻ chống nghịch Ngài hò hét trong nơi nhóm họp,
    giương cờ của chúng nó tại đó.
Chúng đến giơ cao búa rìu,
    lăm le chặt phá mọi thứ như đốn cây.
Chúng dùng rìu và búa nhỏ,
    đập phá các vật chạm trổ.
Chúng thiêu rụi đền thờ Ngài;
    làm nhơ nhớp nơi mang danh Ngài.
Chúng nghĩ thầm, “Ta sẽ phá hết!”
    Chúng thiêu đốt hết những nơi thờ phụng [a] của Ngài trong xứ.
Chúng tôi không còn thấy dấu hiệu [b] gì cho chúng tôi.
Không còn nhà tiên tri,
    cũng chẳng ai biết chuyện nầy sẽ kéo dài đến bao giờ.
10 Lạy Chúa, Ngài để kẻ thù trêu chọc Ngài đến bao giờ?
    Chẳng lẽ chúng sỉ nhục Ngài mãi sao?
11 Sao Ngài không thi thố quyền năng Ngài?
    Xin hãy tỏ quyền năng Ngài ra để diệt chúng đi!
12 Lạy Thượng Đế, Ngài là vua
    chúng tôi từ xưa.
    Ngài mang sự cứu rỗi đến cho đất.
13 Dùng quyền uy tách biển ra
    và đập bể đầu các quái vật trong biển.
14 Ngài đập nát đầu quái vật Lê-vi-a-than,
    ném nó làm thức ăn cho muông thú trong sa mạc.
15 Ngài mở các suối và khe;
    khiến các sông ngòi đang chảy xiết bỗng cạn khô.
16 Ngày cũng như đêm đều thuộc về Chúa;
    Ngài làm ra mặt trời và mặt trăng.
17 Ngài đặt giới hạn trên đất;
    Ngài làm ra mùa hè và mùa đông.
18 Lạy Chúa, xin nhớ rằng kẻ thù sỉ nhục Ngài.
    Đừng quên một dân ngu dại chế giễu danh Ngài.
19 Xin đừng trao chúng tôi là bồ câu của Ngài cho dã thú.
    Xin đừng quên dân chúng đáng thương của Ngài mãi mãi.
20 Xin nhớ lại giao ước Ngài lập với chúng tôi,
    vì sự hung tàn tràn ngập mọi ngõ ngách đen tối [c] của xứ nầy.
21 Xin đừng để dân chúng đau khổ của Ngài bị sỉ nhục.
    Nguyện kẻ nghèo khó khốn cùng ca ngợi Ngài.
22 Lạy Thượng Đế, hãy đứng lên và tự vệ.
    Xin đừng quên lời nhục mạ Chúa hằng ngày của dân ngu dại.
23 Xin đừng quên tiếng kẻ thù Ngài; hay tiếng gầm thét
    của bọn luôn luôn dấy nghịch cùng Ngài.

Footnotes

  1. Thánh Thi 74:8 nơi thờ phụng Hay “nơi thánh” tức là nơi dân chúng đến thờ phụng CHÚA.
  2. Thánh Thi 74:9 dấu hiệu Đây có thể là những dấu hiệu bằng lửa mà dân chúng đốt lên để báo từ thành nầy sang thành khác. Trong chiến tranh, dấu hiệu bằng lửa cho thấy kẻ thù chưa tiêu diệt thành phố.
  3. Thánh Thi 74:20 ngõ ngách đen tối Hay “những nơi đen tối.”

Lời Cầu Nguyện Khi Bị Quân Thù Phá Hoại Xứ Sở

Giáo huấn ca của A-sáp

Ðức Chúa Trời ôi, sao Ngài nỡ bỏ chúng con mãi thế này?
Sao khói thịnh nộ của Ngài vẫn còn bốc lên nghịch lại đàn chiên của đồng cỏ Ngài?
Xin nhớ lại con dân Ngài, những kẻ Ngài đã mua chuộc từ thời xa xưa, tức chi tộc Ngài đã chuộc để làm cơ nghiệp;
Xin nhớ lại Núi Si-ôn, nơi Ngài đã ngự.

Cầu xin Ngài đặt bước đến những nơi đang đổ nát triền miên;
Trong đền thánh Ngài quân thù đã phá tan mọi vật.

Những kẻ chống nghịch Ngài đã la hét om sòm giữa thánh điện tôn nghiêm;
Chúng đã giương cờ chúng lên làm biểu kỳ giữa nơi tôn thánh.
Nơi cửa đền thờ chúng đã nhấc rìu lên chặt phá thản nhiên,
Như thể chúng đốn gỗ trong rừng.
Bây giờ tất cả công trình chạm trổ đã bị chúng dùng búa rìu đập phá.
Chúng đã đốt đền thánh Ngài thành tro bụi;
Chúng đã làm ô uế nơi biệt riêng ra thánh cho danh Ngài ngự.
Chúng tự nhủ rằng, “Chúng ta phải tận diệt chúng.”
Chúng đã thiêu rụi mọi nơi thờ phượng Ðức Chúa Trời trong xứ.

Chúng con chẳng còn quốc kỳ[a] của mình nữa;
Chúng con cũng không còn vị tiên tri nào nữa;
Trong vòng chúng con, không ai biết họa này sẽ kéo dài đến bao lâu.
10 Ðức Chúa Trời ôi, Ngài cứ để cho quân thù của chúng con phỉ báng Ngài đến bao lâu nữa?
Chẳng lẽ quân thù của chúng con cứ xúc phạm đến danh Ngài đến đời đời sao?
11 Sao Ngài cứ khoanh tay, nhất là cánh tay phải Ngài, như vậy?
Xin Ngài vung tay ra và tiêu diệt chúng đi.

12 Dù thế nào thì từ xưa đến nay Ðức Chúa Trời vẫn là Vua của con;
Ngài đã thực hiện ơn cứu rỗi khắp hoàn cầu.
13 Ngài đã dùng quyền năng Ngài rẽ nước đại dương ra;
Ngài đã đập vỡ đầu các thủy quái[b] trong lòng biển.
14 Ngài đã đập nát các đầu con quái vật;[c]
Ngài đã biến chúng thành mồi cho các dã thú ở đồng hoang.
15 Ngài đã vạch đất nứt ra để các suối và các khe tuôn nước;
Ngài đã khiến dòng sông lai láng phải cạn khô.
16 Ban ngày là của Ngài, ban đêm cũng của Ngài;
Ngài đã sắp đặt các tinh tú và mặt trời vào vị trí.
17 Ngài đã định sẵn giới hạn của mặt đất;
Ngài đã lập nên mùa hạ và mùa đông.

18 Chúa ôi, xin nhớ lại thể nào quân thù đã phỉ báng Ngài;
Quả là một dân điên dại dám xúc phạm đến danh Ngài.
19 Xin đừng phó mạng chim bồ câu của Ngài cho bầy dã thú;
Xin đừng quên con dân Ngài đang sống cơ cực triền miên.

20 Xin nhớ lại giao ước Ngài đã lập,
Vì những nơi tối tăm trên đất đang xảy ra vô số bạo hành.
21 Nguyện những người bị áp bức sẽ không bỏ đi trong ô nhục;
Nguyện kẻ khó nghèo và khốn khổ sẽ ca ngợi danh Ngài.
22 Ðức Chúa Trời ôi, xin trỗi dậy và binh vực duyên cớ của Ngài;
Xin nhớ lại thể nào những kẻ điên rồ đã phỉ báng Ngài suốt ngày.
23 Xin đừng quên giọng điệu của những kẻ thù nghịch Ngài;
Chúng cứ liên tục gào la chống lại Ngài càng lúc càng hăng.

Footnotes

  1. Thánh Thi 74:9 ctd: những biểu tượng của đất nước. Có bản dịch là “phép lạ”
  2. Thánh Thi 74:13 nt: tanniym; ctd: thủy xà, thủy long, con rắn,
  3. Thánh Thi 74:14 nt: leviathan; ctd: con rồng

Quốc gia than khóc về Giê-ru-sa-lem

Bài ca của A-sáp.

79 Thượng Đế ôi, các dân đã chống nghịch lại dân được chọn lựa của Ngài.
    Chúng đã làm dơ bẩn đền thánh Ngài,
    biến Giê-ru-sa-lem ra nơi hoang tàn.
Chúng đã ném xác các đầy tớ Ngài làm thức ăn cho chim trời;
    quăng thây kẻ thờ phụng Ngài làm mồi cho dã thú.
Chúng đổ huyết chảy lênh láng như nước quanh Giê-ru-sa-lem.
    Không còn ai để chôn kẻ chết.
Chúng tôi trở thành lời giễu cợt cho các dân tộc khác;
    chúng cười đùa và chế giễu chúng tôi.
Chúa ôi, việc nầy kéo dài đến bao lâu?
Ngài sẽ tức giận mãi sao?
    Cơn thịnh nộ của Ngài sẽ tiếp tục cháy phừng mãi sao?
Xin hãy nổi giận cùng các quốc gia không biết Ngài
    và các vương quốc không kêu cầu Ngài.
Chúng ăn nuốt dân cư Gia-cốp
    và tiêu hủy đất đai họ.
Xin đừng phạt chúng tôi vì tội lỗi xưa kia của chúng tôi.
    Xin sớm tỏ lòng thương xót Ngài đối với chúng tôi vì chúng tôi kiệt quệ.
Lạy Thượng Đế là Đấng Cứu Rỗi chúng tôi,
    vì sự vinh hiển của danh Ngài, xin cứu giúp chúng tôi;
    vì uy danh Ngài xin cứu giúp
    và tha tội chúng tôi.
10 Đừng để các dân có cớ để hỏi,
    “Thượng Đế chúng đâu rồi?”
Trước mặt Ngài xin hãy cho các dân khác và chúng tôi thấy rằng,
    Ngài sẽ trừng phạt những kẻ giết hại các đầy tớ Ngài.
11 Xin hãy nghe lời rên rỉ của các tù nhân.
    Xin dùng quyền năng vĩ đại của Ngài giải cứu kẻ bị án tử hình.
12 Chúa ôi, xin báo trả bảy lần những điều chúng sỉ nhục Ngài.
13 Chúng tôi là dân Ngài, bầy chiên của Ngài.
Chúng tôi sẽ luôn luôn cảm tạ Chúa;
    muôn đời chúng tôi sẽ ca ngợi Ngài!

Lời Than Khóc Vì Giê-ru-sa-lem Bị Hủy Phá

Thơ của A-sáp

Ðức Chúa Trời ôi, các dân ngoại đã vào sản nghiệp của Ngài;
Chúng đã làm ô uế đền thánh Ngài;
Chúng đã biến Giê-ru-ra-lem thành một nơi đổ nát điêu tàn.
Chúng đã ban thây các tôi tớ Ngài làm thức ăn cho chim trời,
Và trao xác các thánh đồ Ngài cho các thú hoang trên đất.
Chúng đã làm máu họ chảy ra như nước quanh Giê-ru-sa-lem,
Và chẳng còn ai để chôn cất họ.
Chúng con đã thành đối tượng để những kẻ lân bang sỉ nhục,
Ðể những kẻ chung quanh mỉa mai và chế nhạo.

Còn bao lâu nữa, Chúa ôi? Chẳng lẽ Ngài giận chúng con đến đời đời sao?
Cơn ghen tức của Ngài há không bùng lên như lửa hừng sao?
Xin trút cơn giận Ngài trên các dân không nhìn biết Ngài,
Và trên các nước không chịu cầu khẩn danh Ngài,
Vì chúng đã ăn nuốt Gia-cốp,
Và làm cho chỗ ở của ông ra hoang phế.

Xin Ngài đừng nhớ đến tội lỗi của tổ tiên chúng con mà quy tội trên chúng con;
Nguyện lòng thương xót của Ngài mau đến với chúng con,
Vì chúng con đang cực kỳ khốn khổ.
Lạy Ðức Chúa Trời, Ðấng Giải Cứu của chúng con,
Vì vinh hiển của danh Ngài, xin giúp đỡ chúng con;
Vì cớ danh Ngài, xin giải thoát chúng con và tha thứ tội chúng con.
10 Sao các dân ngoại có thể nói rằng, “Ðức Chúa Trời của chúng nó đâu rồi?”
Cầu xin Ngài báo trả những kẻ đã làm đổ máu các tôi tớ Ngài,
Ngay trước mắt chúng con để các dân đều biết.

11 Nguyện tiếng rên siết của những người bị giam cầm thấu đến trước mặt Ngài;
Xin dùng quyền năng lớn lao của Ngài bảo vệ những người đang bị đày đọa đến chết.

12 Chúa ôi, xin báo trả vào lòng những kẻ lân bang chúng con gấp bảy lần
Những điều ô nhục mà chúng đã làm nhục Ngài,
13 Ðể chúng con, con dân Ngài, bầy chiên của đồng cỏ Ngài, sẽ cảm tạ Ngài mãi mãi,
Ðể chúng con sẽ thuật lại những điều chúng con ca ngợi Ngài cho mọi thế hệ về sau.