Add parallel Print Page Options

Thời kỳ hạn hán

14 Lời của CHÚA phán cùng Giê-rê-mi về nạn hạn hán:

“Dân Giu-đa than khóc như có ai chết,
    các thành phố nó buồn thảm.
Chúng đau buồn về xứ sở mình.
    Có tiếng khóc than từ Giê-ru-sa-lem lên đến Thượng Đế.
Những kẻ quyền quí sai các tôi tớ mình đi tìm nước.
    Chúng đi đến các giếng,
    nhưng không tìm ra nước.
Nên chúng xách bình không đi về.
    Chúng cảm thấy xấu hổ ngượng ngùng, trùm đầu lại để che dấu.
Không ai cày bừa đất đai để trồng trọt [a].
    Đất khô cằn và nứt nẻ,
    vì không có mưa trong xứ.
Nông gia buồn bực lo lắng,
    nên trùm đầu để che dấu.
Thật vậy, đến nỗi nai cái trong đồng,
    cũng phải bỏ nai con lại cho chết,
    vì không có cỏ cho nó ăn.
Các con lừa hoang đứng trên các đồi trọc
    đánh hơi gió như chó rừng.
Nhưng mắt chúng bị mù lòa
    vì không có thức ăn.”

Chúng tôi biết vì tội lỗi mình
    mà chúng tôi phải chịu khổ sở.
Lạy CHÚA, xin hãy vì danh tốt Ngài mà cứu giúp chúng tôi.
Bao lần chúng tôi đã lìa bỏ Ngài;
    chúng tôi đã phạm tội cùng Ngài.
Lạy Thượng Đế, là nguồn Hi vọng của Ít-ra-en,
    Ngài đã giải cứu Ít-ra-en trong những lúc khốn khó.
Tại sao Ngài làm như khách lạ trong xứ,
    hay như lữ khách qua đêm?
Tại sao Ngài như kẻ bị tấn công bất thần,
    như chiến sĩ chẳng giải cứu được ai?
Nhưng lạy CHÚA, Ngài ở giữa chúng tôi,
    chúng tôi được gọi bằng danh Ngài
    xin đừng để chúng tôi tuyệt vọng!

10 CHÚA phán như sau về dân Giu-đa:

“Chúng muốn lìa xa ta; không ngần ngại lìa bỏ ta. Nên bây giờ CHÚA sẽ không chấp nhận chúng nó nữa. Ngài sẽ nhớ lại điều ác chúng làm và sẽ trừng phạt chúng vì tội lỗi chúng.”

11 Rồi CHÚA phán, “Chớ cầu những điều lành đến cho dân Giu-đa. 12 Dù cho chúng cữ ăn, ta sẽ không thèm nghe lời cầu nguyện của chúng. Dù cho chúng dâng của lễ thiêu và của lễ chay cho ta, ta cũng không chấp nhận chúng. Ngược lại, ta sẽ tiêu diệt dân Giu-đa bằng chiến tranh, đói kém, và dịch lệ.”

13 Tôi thưa, “Ôi, lạy Chúa là Thượng Đế, các nhà tiên tri vẫn trấn an dân chúng rằng, ‘Các ngươi sẽ không bị khốn khổ do gươm giáo của quân thù hay đói kém đâu. Ta là CHÚA sẽ ban hoà bình cho các ngươi trong xứ nầy.’”

14 Nhưng CHÚA phán cùng tôi, “Bọn tiên tri đó đang nhân danh ta mà nói tiên tri dối. Ta không sai, chỉ định hay phán cùng chúng. Chúng nói tiên tri theo những sự hiện thấy giả, sự thờ hình tượng, những trò ma thuật nhảm nhí, và ý tưởng ngông cuồng của chúng nó. 15 Cho nên ta phán như sau về những nhà tiên tri nói tiên tri trong danh ta. Ta không hề sai chúng nó. Chúng bảo, ‘Sẽ không có kẻ thù nào dùng gươm tấn công chúng ta. Sẽ không có đói kém trong xứ.’ Cho nên chính chúng nó sẽ chết đói và ngã dưới lưỡi gươm quân thù. 16 Còn những kẻ được họ nói tiên tri sẽ bị ném trong các đường phố Giê-ru-sa-lem. Chúng sẽ chết vì đói và vì lưỡi gươm quân thù. Sẽ không có ai chôn chúng, vợ, con trai hay con gái chúng. Ta sẽ trừng phạt chúng.

17 Hỡi Giê-rê-mi, hãy loan báo điều nầy cho Giu-đa:
‘Mắt tôi sẽ đẫm lệ đêm ngày không ngưng.
    Tôi sẽ than khóc cho dân chúng yêu dấu của tôi [b].
Vì dân tôi đã lãnh một vố nặng nề,
    bị thương trầm trọng.
18 Nếu tôi đi vào vùng quê,
    tôi thấy người ta bị gươm giết.
Còn nếu đi vào thành,
    tôi thấy bệnh tật tràn lan,
    vì dân chúng không có thức ăn.
Cả thầy tế lễ lẫn các nhà tiên tri
    đều bị bắt đày sang xứ khác.’”

19 Lạy CHÚA, Ngài đã hoàn toàn từ bỏ dân Giu-đa sao?
    Ngài ghét Giê-ru-sa-lem sao?
Sao Ngài làm chúng tôi thương tổn quá mức
    đến nỗi không bình phục được?
Chúng tôi mong hoà bình,
    mà chẳng thấy có gì tốt đến.
Chúng tôi trông mong thời gian chữa trị,
    mà chỉ thấy kinh hoàng.
20 Lạy CHÚA, chúng tôi nhìn nhận mình gian ác,
    tổ tiên chúng tôi làm điều quấy.
Chúng tôi đã phạm tội cùng Ngài.
21 Vì chính mình Ngài, xin Ngài chớ ghét chúng tôi.
    Xin đừng cất danh dự Ngài khỏi ngôi vinh hiển Ngài.
Xin nhớ lại giao ước Ngài lập với chúng tôi,
    đừng phá giao ước ấy.
22 Các thần tượng ngoại quốc có quyền ban mưa xuống không?
    Bầu trời tự nó có quyền đổ mưa rào xuống không?
Lạy CHÚA, không! Chỉ một mình Ngài
    làm được điều đó thôi.
Ngài là niềm hi vọng duy nhất của chúng tôi,
    vì chính Ngài là Đấng làm những điều đó.

15 Sau đó CHÚA phán cùng tôi: “Dù cho Mô-se hay Sa-mu-ên cầu thay cho dân nầy, ta cũng sẽ không thương hại chúng. Hãy đuổi chúng ra khỏi mặt ta! Bảo chúng đi đi! Khi chúng hỏi, ‘Chúng tôi phải đi đâu?’ thì bảo, CHÚA phán:

Ai đã được định cho chết, sẽ chết.
Ai đã được định phải tử trận, sẽ tử trận.
Ai đã được định phải chết đói, sẽ chết đói.
Ai đã được định cho bị bắt làm tù binh,
    sẽ bị bắt làm tù binh.”
CHÚA phán,
    “Ta sẽ sai bốn loại hủy diệt đến với chúng.
Ta sẽ sai chiến tranh đến để giết chóc,
    chó để lôi các xác chết đi,
chim trời và thú rừng để ăn
    và tiêu diệt các xác chết.
Ta sẽ khiến dân Giu-đa trở thành nỗi kinh hoàng
    cho các dân trên đất
    vì những tội lỗi Ma-na-xe làm ở Giê-ru-sa-lem.
(Ma-na-xe, con của Ê-xê-chia trước kia làm vua Giu-đa.)

Hỡi Giê-ru-sa-lem, ai sẽ tội nghiệp cho ngươi?
    Ai sẽ buồn bã và than khóc cho ngươi?
    Ai sẽ chịu khó hỏi thăm ngươi?”
CHÚA phán, “Hỡi Giê-ru-sa-lem,
    ngươi đã lìa bỏ ta.
Ngươi càng ngày càng lìa xa ta,
    cho nên ta sẽ bắt và tiêu diệt ngươi.
Ta không còn tội nghiệp cho ngươi nữa.
Ta đã lấy chĩa ba phân chia dân Giu-đa ra,
    phân tán chúng nơi các cửa thành của xứ.
Ta đã tiêu diệt chúng và bắt con cái chúng đi,
    nhưng chúng không thay đổi nếp sống.
Số góa phụ chúng còn nhiều hơn cát ngoài biển.
Ta mang kẻ hủy diệt đến vào buổi trưa
    để giết hại các bà mẹ của trai tráng trong Giu-đa.
Bất thình lình ta mang đau khổ và sợ hãi đến trên chúng.
Khi kẻ thù tấn công và dùng gươm tàn sát,
Chúng sẽ giết mọi kẻ còn sống sót ở Giu-đa.
Một bà mẹ có bảy đứa con trai
    đều mất cả bảy đứa.
Bà ta sẽ kêu khóc đến nỗi kiệt lực.
    Bà sẽ đau buồn và hoang mang,
vì ngày tươi sáng của bà
    đã hoá ra đen tối buồn thảm [c].”
CHÚA phán vậy.

Lời phàn nàn thứ hai của Giê-rê-mi

10 Mẹ ơi, tội nghiệp mẹ đã sinh ra con
    vì con phải tố cáo và lên án cả xứ.
Con không cho ai vay hoặc mượn ai điều gì,
    vậy mà ai nấy đều nguyền rủa con.
11 CHÚA phán, “Ta đã cứu ngươi vì có lý do.
Ta đã khiến các kẻ thù ngươi van xin ngươi,
    lúc gặp thảm họa và khốn đốn.

Chúa trả lời cho Giê-rê-mi

12 Các ngươi là sắt và đồng có thể đập bể
    miếng sắt hoặc đồng đến từ phương Bắc hay không? [d]
13 Còn về của cải và châu báu ngươi
    ta sẽ biếu không cho kẻ khác,
    vì cả xứ, toàn dân Giu-đa đã phạm tội.
14 Ta sẽ khiến các ngươi làm tôi mọi
    cho kẻ thù trong một xứ mà ngươi chưa hề biết.
Cơn thịnh nộ ta như lửa nóng,
    sẽ thiêu đốt các ngươi.”

15 Lạy CHÚA, Ngài hiểu.
    Xin nhớ lại tôi và chăm sóc tôi.
Xin hãy trừng phạt những kẻ làm hại tôi.
    Xin đừng tiêu diệt tôi
    trong khi Ngài kiên nhẫn với chúng.
Xin suy nghĩ đến sự hổ nhục tôi chịu vì Ngài.
16 Lời CHÚA phán cùng tôi,
    tôi cố gắng lắng nghe kỹ.
Lời Ngài khiến tôi vui mừng,
    vì tôi được gọi bằng danh Ngài,
CHÚA là Thượng Đế Toàn Năng.
17 Tôi không ngồi chung với đám đông
    khi chúng cười đùa vui vẻ.
Tôi ngồi một mình vì Ngài bảo tôi,
    và Ngài khiến cho tôi tức giận
    vì những điều ác quanh tôi.
18 Tôi không hiểu tại sao nỗi đau khổ tôi không dứt.
    Tôi không hiểu tại sao vết thương tôi không lành.
Ngươi sẽ giống như suối cạn chăng?
    Ngươi sẽ giống như suối ngưng chảy chăng?

19 Nên CHÚA phán như sau:
    “Nếu các ngươi thay đổi lối sống và trở về cùng ta,
    ta sẽ tiếp nhận các ngươi.
Rồi các ngươi sẽ phục sự ta.
Nếu các ngươi nói những điều đáng nói,
    không nói những điều nhảm nhí,
    thì các ngươi có thể thưa với ta.
Hãy để dân Giu-đa quay về cùng ngươi,
    nhưng ngươi không nên giống như chúng.
20 Ta sẽ khiến ngươi vững mạnh
    như vách thành cho dân nầy,
    chắc chắn như tường đồng.
Chúng sẽ đánh ngươi,
    nhưng sẽ không thắng nổi ngươi,
    vì ta ở cùng ngươi.
Ta sẽ giải cứu ngươi,” CHÚA phán vậy.
21 “Ta sẽ giải thoát ngươi khỏi dân độc ác
    và cứu ngươi khỏi những kẻ hung bạo nầy.”

Ngày thảm họa

16 Rồi CHÚA phán cùng tôi như sau: “Ngươi không nên kết hôn hay sinh con trai con gái trong nơi nầy.”

CHÚA phán như sau về con trai con gái sinh ra trong xứ nầy và về cha mẹ chúng: “Chúng sẽ chết vì dịch lệ, sẽ không ai than khóc hay chôn cất chúng. Xác chúng sẽ nằm la liệt trên đất như phân. Chúng sẽ chết trận hay chết đói. Thây chúng sẽ làm thức ăn cho chim trời và muông thú.”

Cho nên CHÚA phán như sau: “Hỡi Giê-rê-mi, đừng đi vào nhà đang khi người ta đang ăn tiệc đưa ma. Đừng đi vào đó mà than khóc cho người chết hay chia buồn với chúng vì ta đã lấy lại ơn phước, tình yêu và lòng thương hại của ta cho dân nầy,” CHÚA phán vậy.

Những kẻ quyền quí hay thứ dân đều sẽ chết trong xứ Giu-đa. Không ai chôn cất hay than khóc cho chúng, cũng không ai rạch thân mình hay cạo đầu để tỏ dấu buồn rầu cho chúng. Không ai mang thức ăn đến để an ủi kẻ than khóc người quá cố. Không ai mời nước uống để an ủi những kẻ có cha mẹ qua đời.

Đừng đi vào nhà nào đang ăn uống để ngồi mà ăn uống chung với họ, vì CHÚA Toàn Năng, Thượng Đế của Ít-ra-en phán: Ta sẽ sớm chấm dứt tiếng vui mừng hớn hở, cùng tiếng hân hoan của cô dâu và chú rể trong nơi nầy. Việc đó sẽ diễn ra trong đời ngươi.

10 Khi ngươi bảo dân Giu-đa biết những điều nầy thì chúng sẽ hỏi ngươi: Tại sao CHÚA giáng những thảm hoạ nầy đến trên chúng ta? Chúng ta đã làm điều gì quấy? Chúng ta đã phạm tội gì nghịch lại CHÚA là Thượng Đế chúng ta? 11 Hãy đáp cùng chúng: Vì tổ tiên các ngươi đã lìa bỏ ta, CHÚA phán vậy. “Chúng đã đi theo các thần khác, phục vụ và bái lạy chúng. Tổ tiên các ngươi đã bỏ ta, không vâng theo lời giáo huấn ta. 12 Nhưng các ngươi còn làm ác hơn tổ tiên mình nữa. Các ngươi ương ngạnh và làm theo ý mình; các ngươi không vâng lời ta. 13 Cho nên ta sẽ ném các ngươi ra khỏi xứ nầy và đày các ngươi đi đến một xứ mà các ngươi lẫn tổ tiên mình chưa hề biết. Nơi đó các ngươi sẽ phục vụ các thần khác ngày đêm vì ta sẽ không giúp cũng không làm ơn cho các ngươi nữa.”

14 Người ta bảo, “Thật như CHÚA hằng sống, Đấng mang dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập …” CHÚA phán, “Nhưng đến lúc người ta không nói như thế nữa. 15 Ngược lại họ sẽ nói, ‘Thật như CHÚA hằng sống, Đấng mang Ít-ra-en ra khỏi xứ miền Bắc và khỏi các xứ mà Ngài đã đày họ đến …’ Ta sẽ mang chúng trở về xứ mà ta đã ban cho tổ tiên chúng.”

16 CHÚA phán, “Ta sẽ sớm đưa những người đánh cá đến xứ nầy. Họ sẽ đánh lưới dân Giu-đa. Sau đó ta sẽ đưa nhiều thợ săn đến nữa [e]. Họ sẽ săn lùng dân Giu-đa trên mỗi ngọn núi và đồi và trong mỗi kẽ đá. 17 Ta thấy mọi điều chúng làm. Chúng không thể giấu khỏi ta điều gì; tội lỗi chúng không che được mắt ta. 18 Ta sẽ báo trả dân Giu-đa gấp đôi tội lỗi chúng phạm, vì chúng đã biến xứ ta ra nhơ nhớp. Chúng đã làm cho xứ ta tràn ngập thần tượng đáng gớm ghiếc.”

19 Lạy CHÚA, Ngài là sức mạnh và là nguồn bảo vệ tôi,
    nơi tôi trú ẩn an toàn trong lúc khốn khó.
Các dân trên thế giới sẽ đến cùng Ngài
    và thưa rằng, “Tổ tiên chúng tôi đã thờ thần giả,
    những thần vô ích chẳng giúp gì được cho họ.
20 Người ta có thể nào tạo ra thần cho mình không?
    Vì đó không phải là thần!”

21 CHÚA phán, “Cho nên ta sẽ dạy những kẻ tạo ra thần tượng.
Lần nầy ta sẽ dạy chúng biết
    về quyền năng và sức mạnh ta.
Rồi chúng sẽ biết rằng danh ta là CHÚA.”

Tấm lòng tội lỗi của Giu-đa

17 “Tội lỗi của Giu-đa được ghi bằng bút sắt.
Tội lỗi chúng được khắc vào đá
    tức tấm lòng của chúng.
Tội lỗi chúng được tạc vào các sừng
    bàn thờ [f] của chúng.
Bất cứ lúc nào con cái chúng
    cũng nhớ các bàn thờ cùng các thần tượng chúng,
và các tượng A-sê-ra bên cạnh các cây xanh trên các đồi cao.
Chúng nhớ những điều ấy
    trên các núi trong đồng trống.
Dân Giu-đa có nhiều châu báu.
    Nhưng ta sẽ trao những châu báu ấy vào tay người khác.
Chúng sẽ phá hủy những nơi cao
    trong xứ các ngươi,
vì các ngươi đã phạm tội bằng cách
    thờ phụng ở những nơi đó.
Các ngươi sẽ mất xứ mà ta ban cho các ngươi,
    đó là do lỗi các ngươi.
Ta sẽ để cho kẻ thù bắt các ngươi làm tôi mọi
    đày các ngươi đến xứ mình chưa hề biết.
Vì các ngươi đã chọc ta giận như lửa hừng,
    sẽ cháy mãi không thôi.”

Tin cậy người hay tin cậy Thượng Đế

CHÚA phán như sau:
    “Ai tin cậy loài người thì bị nguyền rủa,
ai trông cậy vào sức mạnh con người,
    tức lòng dạ xa rời CHÚA.
Chúng giống như bụi gai trong sa mạc
    mọc ở nơi đất hoang vu, nơi khô khan cằn cỗi.
Chúng không bao giờ biết
    những ơn lành từ Thượng Đế.
Nhưng ai tin cậy CHÚA sẽ được phước.
Ngài sẽ chứng tỏ cho người đó thấy rằng Ngài là Đấng đáng tin cậy.
Người đó sẽ lớn mạnh,
    như cây trồng gần dòng nước,
    đâm rễ mọc bên cạnh suối.
Dù cho trời nóng nực cũng không sao;
    lá nó vẫn xanh tươi.
Nó không lo năm hạn hán không mưa;
    luôn luôn ra trái.

Lòng con người ác độc hơn mọi thứ, không chữa trị được.
Không ai hiểu được.
10 Nhưng ta, Thượng Đế, nhìn vào trong lòng mỗi người,
    thử nghiệm tâm tư.
Để quyết định cho họ điều họ đáng lãnh;
    cấp cho họ phần thưởng phạt tương xứng.”

11 Như chim ấp trứng mình không đẻ,
    kẻ làm giàu nhờ lường gạt cũng vậy.
Khi xong nửa đời người, chúng sẽ mất hết của cải.
    Rồi đến cuối đời, chúng sẽ thấy rõ mình dại dột.

12 Từ ban đầu, đền thờ chúng ta được tôn trọng
    như ngôi vinh hiển của Thượng Đế.
13 Lạy CHÚA, nguồn hi vọng của Ít-ra-en,
    những kẻ lìa bỏ Ngài sẽ bị xấu hổ.
Còn những ai xa lìa CHÚA
    sẽ giống như tên viết trên cát [g],
vì chúng đã lìa bỏ CHÚA, suối nước hằng sống.

Lời phàn nàn thứ ba của Giê-rê-mi

14 Lạy CHÚA, xin chữa cho tôi thì tôi sẽ được lành.
    Xin cứu tôi thì tôi sẽ được giải cứu thật.
    Vì Ngài là Đấng tôi ca ngợi.
15 Ngài phải biết rằng dân Giu-đa cứ theo hỏi tôi,
    “Lời của CHÚA đâu?
Để xem lời phán đó có thành sự thật không!”

16 Lạy CHÚA, tôi không trốn tránh
    trách nhiệm chăn bầy [h] CHÚA giao.
Tôi không muốn thấy ngày kinh khủng đó đến.
    Ngài biết hết mọi điều tôi nói;
Ngài thấy mọi điều xảy ra.
17 Xin đừng làm tôi kinh hoàng.
    Tôi chạy đến Ngài tìm chỗ trú ẩn lúc khốn đốn.
18 Xin hãy khiến những kẻ hại tôi bị xấu hổ,
    nhưng xin đừng mang xấu hổ đến cho tôi.
Xin khiến chúng bị kinh hoàng,
    nhưng đừng để tôi bị khủng hoảng.
Xin mang ngày thảm họa đến trên kẻ thù tôi.
    Xin hãy tiêu diệt chúng, và diệt tận gốc.

Hãy giữ ngày Sa-bát ra thánh

19 CHÚA phán cùng tôi như sau: “Hãy đến đứng nơi Cổng Dân Chúng [i] của thành Giê-ru-sa-lem nơi các vua Giu-đa hay ra vào. Rồi đi đến tất cả các cổng khác của Giê-ru-sa-lem.

20 Bảo họ như sau: ‘Hỡi các vua Giu-đa, hỡi tất cả dân Giu-đa và những người sống trong Giê-ru-sa-lem đi qua các cổng nầy để vào thành, hãy nghe lời CHÚA phán. 21 CHÚA phán như sau: Hãy cẩn thận đừng mang đồ gì trong ngày Sa-bát hay mang qua các cổng của Giê-ru-sa-lem. 22 Đừng mang vật gì ra khỏi nhà các ngươi cũng đừng làm việc ngày đó nhưng hãy giữ ngày Sa-bát ra thánh như ta đã truyền dặn tổ tiên các ngươi. 23 Nhưng tổ tiên các ngươi không nghe cũng không để ý đến ta. Chúng rất ương ngạnh và không vâng lời. Ta trừng phạt chúng nhưng không kết quả. 24 Nhưng các ngươi hãy cẩn thận vâng lời ta, CHÚA phán vậy. Các ngươi không nên mang đồ gì qua cổng thành Giê-ru-sa-lem trong ngày Sa-bát, mà hãy giữ ngày Sa-bát ra thánh và đừng làm việc gì hết trong ngày đó.

25 Nếu các ngươi vâng theo mệnh lệnh nầy thì các vua ngồi trên ngôi Đa-vít sẽ cùng các quần thần đi qua các cổng thành Giê-ru-sa-lem. Họ sẽ đi qua, cỡi quân xa và cỡi ngựa cùng với dân cư Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. Còn thành Giê-ru-sa-lem sẽ có dân cư sống ở đó mãi mãi. 26 Từ các làng quanh đó dân chúng đổ về Giê-ru-sa-lem, từ các thị trấn trong Giu-đa, xứ Bên-gia-min [j], từ các vùng đồi phía Tây, từ vùng núi và từ miền Nam Giu-đa. Mọi người sẽ mang đến đền thờ CHÚA các của lễ thiêu, các sinh tế, của lễ chay, trầm hương, và các của lễ cảm tạ cho Thượng Đế.

27 Nhưng các ngươi phải vâng lời ta và giữ ngày Sa-bát ra thánh. Các ngươi không được mang đồ gì vào Giê-ru-sa-lem trong ngày Sa-bát. Nếu các ngươi không vâng lời ta, ta sẽ khơi lửa nơi cửa thành Giê-ru-sa-lem và đốt cháy cho đến khi thiêu rụi các tháp kiên cố nhất. Sẽ không ai dập tắt nổi.’”

Footnotes

  1. Giê-rê-mi-a 14:4 Không ai … trồng trọt Câu nầy dựa theo bản cổ Hi-lạp. Bản Hê-bơ-rơ hơi khó hiểu ở chỗ nầy.
  2. Giê-rê-mi-a 14:17 dân chúng yêu dấu của tôi Nguyên văn, “con gái đồng trinh là dân chúng của tôi.”
  3. Giê-rê-mi-a 15:9 vì ngày tươi sáng … buồn thảm Nguyên văn, “Đang trưa bỗng hóa ra đêm tối.”
  4. Giê-rê-mi-a 15:12 Các ngươi … hay không? Câu nầy trong nguyên văn Hê-bơ-rơ không rõ nghĩa.
  5. Giê-rê-mi-a 16:16 Ta sẽ … đến nữa Đây có nghĩa là những quân lính thù nghịch từ Ba-by-lôn đến.
  6. Giê-rê-mi-a 17:1 sừng bàn thờ Các góc của bàn thờ có hình giống cái sừng. Huyết của các con sinh tế được bôi trên các sừng ấy. Giê-rê-mi có lẽ ám chỉ rằng tội lỗi của dân chúng khiến cho các bàn thờ không còn xứng đáng để dâng sinh tế nữa.
  7. Giê-rê-mi-a 17:13 tên viết trên cát Nghĩa là “ngắn ngủi, không lâu.” Câu nầy có thể nghĩa là tên của người được viết trong danh sách những người sắp chết, hoặc đời sống người ấy sắp chấm dứt như chữ viết trên cát bị nước xóa đi.
  8. Giê-rê-mi-a 17:16 chăn bầy Dân Chúa đôi khi được ví như “chiên,” và người chăm sóc chiên được gọi là “người chăn bầy.”
  9. Giê-rê-mi-a 17:19 Cổng Dân Chúng Đây có thể là một trong những cổng đi vào thành Giê-ru-sa-lem hoặc một trong những cổng phía Nam đi vào đền thờ mà những người không phải thầy tế lễ dùng để vào.
  10. Giê-rê-mi-a 17:26 xứ Bên-gia-min Xứ Bên-gia-min nằm về phía Bắc của xứ Giu-đa.

Cơn Ðại Hạn Hán

14 Ðây là lời của Chúa đến với Giê-rê-mi về cơn hạn hán:

“Giu-đa than khóc,
Các cổng nàng than thở âu sầu,
Chúng buồn tủi nằm bẹp mình dưới đất,
Tiếng khóc than của Giê-ru-sa-lem vang thấu trời cao.
Những nhà quyền quý sai các đầy tớ ra đi kiếm nước,
Họ ra giếng tìm nhưng chẳng có giọt nước nào,
Họ trở về với những vò khô trống rỗng,
Họ xấu hổ và thẹn thùng nên trùm kín đầu họ lại,
Bởi vì đất đã khô khan nứt nẻ.
Do chẳng có mưa trong xứ lâu ngày,
Các nông dân hổ thẹn buồn rầu,
Họ trùm kín đầu giấu thẹn.
Trong cánh đồng, nai mẹ đẻ con rồi bỏ mặc,
Vì cỏ không còn để ăn hầu có sữa cho con bú.
Các lừa rừng đứng trên các đồi trọc trụi,
Thở hổn hển như bọn chó hoang,
Mắt chúng lờ đờ vì không có cỏ để ăn.

‘Dù tội lỗi chúng con buộc tội chúng con,
Ôi lạy Chúa, xin Ngài hành động, vì danh thánh của Ngài;
Tội phản nghịch của chúng con thật nhiều quá đỗi,
Chúng con quả đã phạm tội đối với Ngài.
Lạy Niềm Hy Vọng của I-sơ-ra-ên,
Ðấng Giải Cứu của dân ấy trong khi khốn quẫn,
Sao Ngài nỡ lạnh lùng như một người xa lạ trong xứ,
Như khách lữ hành ghé tạm trú qua đêm?
Sao Ngài cứ như người chần chừ chưa dứt khoát,
Như dũng sĩ tài năng nhưng không chịu cứu nguy?
Dù vậy, lạy Chúa, Ngài đang ở giữa chúng con,
Và chúng con được gọi bằng danh Ngài;
Xin đừng bỏ chúng con.’”
10 Chúa phán về dân này thế này,
“Quả thật dân này muốn đi lang thang vô định;
Chúng chẳng kiềm giữ đôi chân chúng lại;
Vì vậy Chúa sẽ không chấp nhận chúng nữa,
Ngài sẽ nhớ lại tội lỗi của chúng và sẽ phạt chúng.”

11 Chúa phán với tôi, “Ngươi đừng cầu nguyện cho dân này được an cư lạc nghiệp. 12 Dù chúng kiêng ăn, Ta cũng không nghe tiếng chúng kêu cầu. Dù chúng dâng các của lễ thiêu và các của lễ chay, Ta cũng không đoái nhậm; nhưng Ta sẽ dùng gươm đao, nạn đói, và ôn dịch để diệt chúng.”

Lên Án Các Tiên Tri Nói Dối

13 Bấy giờ tôi nói, “Ôi, lạy Chúa Hằng Hữu. Ðây là những gì các vị tiên tri đã nói với dân, ‘Các ngươi sẽ không thấy gươm đao, các ngươi cũng sẽ không thấy nạn đói, nhưng Ta sẽ ban cho các ngươi hòa bình thật sự trong xứ này.’”

14 Chúa phán với tôi, “Bọn tiên tri ấy đã nhân danh Ta nói tiên tri dối. Ta không hề sai chúng, Ta đã không truyền cho chúng, và Ta đã không phán với chúng. Chúng đã nói tiên tri với các ngươi về một viễn ảnh giả dối, một lời bói toán hão huyền, một sự lừa bịp do tâm trí chúng nghĩ ra. 15 Vì vậy Chúa phán thế này về bọn tiên tri đã nhân danh Ta nói tiên tri mà Ta không hề sai chúng, tức những kẻ đã nói, ‘Gươm đao và nạn đói sẽ không đến trên xứ này’ rằng chính gươm đao và nạn đói sẽ đến tiêu diệt bọn tiên tri ấy. 16 Còn những người dân đã tin vào lời của bọn tiên tri ấy, những kẻ đó sẽ thành nạn nhân của nạn đói và gươm đao, và thây họ sẽ bị quăng ra các đường phố ở Giê-ru-sa-lem. Rồi đây sẽ không còn ai để chôn cất chúng, tức chúng, vợ chúng, các con trai của chúng, và các con gái của chúng, vì Ta sẽ trút đổ các tội lỗi của chúng lại trên đầu chúng.

17 Ngươi hãy nói với chúng sứ điệp này,
‘Hãy để mắt tôi đổ lệ đêm ngày,
Hãy để lệ rơi không ngớt,
Vì trinh nữ của dân tôi đã bị đánh một đòn khủng khiếp,
Mang thương tích trầm trọng.
18 Nếu tôi đi ra ngoài đồng, kìa, người ta bị giết bằng gươm!
Nếu tôi đi vào trong thành, kìa, người ta yếu lả vì đói!
Bởi giới tiên tri và giới tư tế đi lòng vòng khắp xứ thi hành chức vụ, mà kỳ thật họ chẳng hiểu biết gì.’”

Giê-rê-mi Cầu Thay Cho Dân

19 Chẳng lẽ Ngài đã hoàn toàn loại bỏ Giu-đa rồi sao?
Chẳng lẽ lòng Ngài đã chán ghét Si-ôn lắm sao?
Sao Ngài nỡ đánh hạ chúng con đến độ không còn cách nào chữa lành như vậy?
Chúng con mong mỏi bình an, nhưng an lành chẳng thấy;
Chúng con trông mong đến kỳ được chữa lành, nhưng chỉ thấy toàn nỗi kinh hoàng.
20 Ôi Chúa, chúng con nhìn nhận tội lỗi của chúng con, và tội lỗi của tổ tiên chúng con;
Thật vậy chúng con đã phạm tội chống lại Ngài.
21 Vì danh thánh của Ngài, xin đừng hất hủi chúng con;
Xin đừng làm nhục ngai vinh hiển của Ngài;
Xin nhớ lại và đừng bỏ giao ước của Ngài đã lập với chúng con.
22 Có các thần nào của dân tộc nào làm mưa được chăng?
Hay trời xanh có thể cho mưa rào chăng?
Ôi Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng con, chẳng phải ấy là do Ngài làm sao?
Chúng con đặt trọn hy vọng của chúng con nơi Ngài,
Vì chính Ngài đã làm nên mọi điều ấy.

Hình Phạt Không Thể Tránh Khỏi

15 Bấy giờ Chúa phán với tôi, “Cho dù Môi-se và Sa-mu-ên đứng trước mặt Ta để cầu thay, lòng Ta cũng sẽ không quay lại với dân này. Hãy đuổi chúng đi khỏi mặt Ta. Hãy bảo chúng đi đi. Nếu chúng hỏi ngươi, ‘Chúng tôi biết đi đâu bây giờ?’ thì ngươi hãy bảo chúng, ‘Chúa phán thế này,

“Kẻ nào bị định cho ôn dịch, sẽ chết vì ôn dịch;
Kẻ nào bị định cho gươm đao, sẽ chết vì gươm đao;
Kẻ nào bị định cho nạn đói, sẽ chết vì nạn đói;
Kẻ nào bị định cho lưu đày, sẽ phải bị lưu đày.”’
“Ta sẽ chỉ định bốn thứ hủy diệt để tiêu diệt chúng,”
Chúa phán,
“Gươm để giết chết,
Chó để lôi xác,
Chim trời để rỉa thịt,
Và thú vật trên đất để gặm xương.
Ta sẽ làm cho chúng trở nên một cớ kinh hoàng cho mọi vương quốc trên đất,
Vì những việc Ma-na-se con của Ê-xê-chia vua Giu-đa đã làm ở Giê-ru-sa-lem.
Ai sẽ thương xót ngươi đây, hỡi Giê-ru-sa-lem?
Hay ai sẽ than khóc vì ngươi?
Ai sẽ quay qua để hỏi thăm ngươi có mạnh khỏe chăng?
Ngươi đã loại bỏ Ta,”
Chúa phán,
“Ngươi đã quay lưng lại với Ta;
Vì thế Ta sẽ đưa tay Ta ra để chống lại ngươi và tiêu diệt ngươi;
Ta mệt mỏi vì đã quá nhiều lần Ta thấy tội nghiệp ngươi.
Ta sẽ cầm nia rê sạch chúng tại các cổng thành trong khắp xứ;
Ta sẽ để cho chúng bị hư thai,
Ta sẽ khiến cho dân Ta bị hao mòn chết dần,
Vì chúng không quay bỏ đường lối chối bỏ Ta của chúng.
Các góa phụ của chúng gia tăng đông đúc,
Các góa phụ ấy nhiều hơn cát nơi bờ biển biết bao;
Giữa ban trưa Ta sai một kẻ hủy diệt đến với các bà mẹ của những người trai trẻ;
Ta sẽ khiến đau thương và kinh hãi đến trên chúng thình lình.
Người phụ nữ đã sinh bảy con giờ thở thoi thóp;
Bà hôn mê trút hơi thở cuối cùng;
Ngày vẫn còn mà mặt trời của bà đã lặn;
Bà tủi thân và hổ thẹn lìa đời.
Những kẻ còn lại Ta sẽ trao cho gươm giáo,
Ðể chúng ngã chết trước mặt quân thù của chúng,” Chúa phán.

Giê-rê-mi Than Thân Trách Phận

10 Mẹ ơi, con thật là bất hạnh,
Mẹ sinh con ra và con đã thành một kẻ mà cả xứ đều không ưa và chống đối!
Con nào có cho ai vay và con cũng không mượn của ai,
Thế nhưng người ta cứ nhè con mà nguyền rủa!

Chúa Trả Lời

11 Chúa phán, “Quả thật, Ta sẽ cho ngươi được tự do với mục đích tốt.

Thật vậy Ta sẽ làm cho những kẻ thù ghét ngươi phải đến nhờ ngươi cầu thay cho chúng, khi chúng gặp khó khăn và hoạn nạn.”

Sức Mạnh của Quân Thù Giu-đa

12 Ai có thể bẻ gãy một thanh kim loại,
Một thanh sắt trộn với đồng đến từ phương bắc chăng?
13 Ta sẽ phó của cải và kho tàng của ngươi làm chiến lợi phẩm cho quân giặc;
Chúng sẽ lấy đi mà chẳng phải trả tiền,
Vì tất cả tội lỗi của ngươi trong khắp miền đất nước.
14 Ta sẽ làm cho ngươi phải hầu hạ những kẻ thù của ngươi trong một xứ ngươi không biết,
Vì cơn giận của Ta như ngọn lửa đã bừng lên và cháy mãi không tàn.

Giê-rê-mi Tiếp Tục Than Vãn

15 Chúa ôi, Ngài đã biết cả rồi;
Xin Ngài nhớ đến con và thăm viếng con;
Xin Ngài báo trả những kẻ bách hại con;
Xin Ngài đừng chần chừ kẻo chúng bắt con đi;
Vì Ngài biết rằng ấy là vì cớ Ngài mà con phải gánh chịu biết bao khổ nhục.

16 Con đã tìm được lời Ngài và con đã ăn nuốt vào lòng;
Lời Ngài trở thành niềm vui của con và là niềm khoan khoái của lòng con,
Vì con đã được gọi bằng danh Ngài,
Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của các đạo quân.
17 Con đã không ngồi chung với bọn chế giễu,
Con đã không cười cợt với chúng,
Dưới áp lực của tay Ngài con đã ngồi riêng một mình,
Vì Ngài đã chất đầy lòng con cơn giận của Ngài.
18 Sao nỗi đau của con như triền miên bất tận?
Sao vết thương của con lại không thể được chữa lành?
Phải chăng đối với con Ngài như một dòng ảo ảnh,
Như suối khô, không một giọt nước nào?

Chúa Ðáp Lời

19 Vì vậy, Chúa phán thế này,
“Nếu ngươi trở lại, Ta sẽ nhận ngươi trở lại,
Ta sẽ cho ngươi được đứng trước mặt Ta,
Nếu ngươi nói những lời cao quý, chứ không phải những lời chẳng ra gì,
Ngươi sẽ là cái miệng của Ta;
Hãy để người ta trở lại với ngươi, chứ ngươi đừng trở lại với chúng.
20 Ta sẽ làm cho ngươi trở nên như một tường đồng kiên cố;
Chúng sẽ chống đối ngươi nhưng sẽ không thể thắng được ngươi,
Vì Ta ở với ngươi để cứu ngươi và giải thoát ngươi,” Chúa phán.
21 “Ta sẽ giải thoát ngươi khỏi tay của phường gian ác,
Ta sẽ cứu chuộc ngươi khỏi tay của những kẻ bạo tàn.”

Cuộc Ðời và Sứ Ðiệp của Giê-rê-mi

16 Có lời của Chúa đến với tôi, “Ngươi chớ cưới vợ, ngươi đừng có các con trai và các con gái trong đất nước này. Chúa phán thế này về các con trai và các con gái được sinh ra ở nơi đây, về những người mẹ sẽ đẻ ra chúng, và về những người cha sẽ sinh ra chúng trong xứ này, ‘Chúng sẽ chết vì các bịnh nan y. Chúng sẽ không được ai than khóc và cũng không được ai chôn cất. Thân xác chúng sẽ tan rữa như phân trên mặt đất. Chúng sẽ chết vì gươm và nạn đói, và thân xác chúng sẽ thành thức ăn cho chim trời và thú vật trên đất.’”

Chúa phán thế này, “Ðừng vào nhà có tang để than van và khóc lóc tiếc thương chúng, vì Ta đã cất đi sự bình an, tình thương, và lòng thương xót của Ta đối với dân này,” Chúa phán. “Già trẻ giàu nghèo trong xứ này đều sẽ chết. Chúng sẽ không được chôn cất và không còn ai để than khóc thương tiếc chúng. Không ai sẽ nghiến răng than khóc hay cạo đầu để tang cho chúng. Không ai sẽ mang thức ăn cho những kẻ than khóc người thân qua đời hầu chia buồn với chúng. Không ai sẽ mời chúng uống một ly rượu phân ưu vì cha hay mẹ chúng qua đời.

Ngươi sẽ không vào nhà có tiệc tùng, ngồi với chúng, ăn, và uống, Chúa các đạo quân, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, phán thế này, ‘Ta sẽ làm im bặt khỏi nơi này tiếng reo cười và vui vẻ, tiếng hân hoan của cô dâu và chú rể lúc thành hôn ngay trong thời của các ngươi và trước mắt các ngươi.’

10 Khi ngươi nói những lời ấy với dân này, và nếu chúng hỏi ngươi, ‘Tại sao Chúa lại tuyên bố mọi điều dữ quá đỗi này với chúng tôi? Chúng tôi đã phạm tội gì? Chúng tôi đã làm điều gì có lỗi với Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng tôi?’

11 Bấy giờ ngươi sẽ bảo chúng: Chúa phán: Bởi vì tổ tiên các ngươi đã lìa bỏ Ta mà theo các thần khác. Chúng đã phục vụ và thờ phượng các thần ấy; chúng đã bỏ Ta và không giữ luật pháp Ta, 12 và vì các ngươi đã tệ hơn tổ tiên các ngươi, vì đây này, các ngươi hãy xem, ai nấy trong các ngươi đều làm theo lòng dạ xấu xa bướng bỉnh của mình mà không nghe theo lời Ta. 13 Vì thế Ta sẽ đuổi các ngươi ra khỏi xứ này, để các ngươi sẽ vào một xứ mà chính các ngươi và tổ tiên các ngươi chưa từng biết, để ở đó các ngươi sẽ tha hồ phục vụ các thần khác cả ngày lẫn đêm, vì Ta không còn thương các ngươi nữa.”

Chúa Sẽ Tái Lập I-sơ-ra-ên

14 Vì thế Chúa phán, “Chắc chắn sẽ đến ngày khi người ta không còn nói, ‘Nguyện Chúa Hằng Sống, Ðấng đã đem dân I-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập, làm chứng cho,’ 15 nhưng sẽ nói, ‘Nguyện Chúa Hằng Sống, Ðấng đã đem dân I-sơ-ra-ên ra khỏi đất bắc và ra khỏi những xứ Ngài đã đuổi họ tới làm chứng cho,’ vì Ta sẽ đem chúng trở về đất nước Ta đã ban cho tổ tiên chúng.”

16 Chúa phán, “Nhưng bây giờ Ta sai các ngư phủ ra để gom bắt chúng. Sau đó Ta sẽ sai nhiều thợ săn ra để họ săn bắt chúng trên mọi núi, mọi đồi, và mọi hốc đá, 17 vì mắt Ta hằng theo dõi mọi đường lối của chúng. Chúng không thể giấu gì khỏi mặt Ta. Những tội ác của chúng không thể giấu được mắt Ta. 18 Ta sẽ trả gấp đôi cho chúng những tội ác và tội lỗi của chúng, bởi vì chúng đã làm ô nhiễm đất của Ta bằng xác của các sinh vật chúng cúng tế cho các thần tượng gớm ghiếc, và chúng đã làm đầy dẫy trong cơ nghiệp của Ta những thứ gớm ghiếc ấy.”

19 “Lạy Chúa, Ngài là sức mạnh và thành lũy của con,
Ðấng con nương náu trong ngày hoạn nạn,
Ðấng mà các dân ngoại ở những nơi cực kỳ xa xăm trên đất sẽ đến và thưa:
Những gì tổ tiên chúng con thừa hưởng chỉ là giả dối,
Ðó là những niềm tin vô dụng và chẳng đem lại lợi ích gì.
20 Làm sao loài người lại tạo ra các thần tượng cho mình?
Những thứ đó thật ra nào phải là thần thánh gì đâu!”

21 “Vì thế, Ta chắc chắn sẽ dạy chúng;
Này, Ta sẽ dạy cho chúng biết quyền năng và sức mạnh của Ta,
Rồi chúng sẽ biết rằng danh Ta là Chúa.”

Tội Lỗi và Hình Phạt Giu-đa

17 “Tội lỗi của Giu-đa được ghi bằng bút sắt, được khắc bằng mũi kim cương trên bia lòng chúng, và trên các sừng bàn thờ của chúng, trong khi con cháu chúng nhớ đến các bàn thờ và các trụ thờ chúng lập dưới những cây xanh và trên những đồi cao, trên những ngọn núi, và ngoài đồng trống. Ta sẽ ban của cải của ngươi và tất cả các kho tàng của ngươi làm chiến lợi phẩm cho quân thù, vì cớ tội lỗi của ngươi trong khắp nước. Bởi hành động của ngươi, ngươi đã làm mất cơ nghiệp Ta ban cho ngươi. Ta sẽ để ngươi làm tôi cho kẻ thù của ngươi trong một xứ mà ngươi chưa hề biết, vì ngươi đã nhen ngọn lửa giận của Ta lên; nó sẽ cháy mãi không ngừng.”

Chúa phán thế này,

“Ðáng nguyền rủa thay cho kẻ chỉ tin cậy loài người,
Kẻ chỉ cậy vào sức mạnh của loài xác thịt,
Và xoay lòng lìa bỏ Chúa.
Nó sẽ như thạch thảo trong sa mạc,
Nó sẽ chẳng bao giờ thấy phước hạnh đến.
Nó sẽ ở những nơi khô khan nứt nẻ trong đồng hoang,
Trong vùng đất mặn không người sinh sống.
Phước thay cho người tin cậy Chúa,
Và chọn Chúa làm Ðấng để tin cậy hoàn toàn.
Người ấy sẽ như cây trồng gần dòng nước,
Có rễ đâm sâu vào mạch nước sạch trong,
Nó sẽ không sợ dù nóng như thiêu như đốt,
Lá trên cành vẫn cứ mãi xanh tươi;
Gặp năm hạn hán nó chẳng lo gì,
Nhưng cứ không ngừng trổ hoa sinh trái.

Lòng người ta thật dối trá hơn mọi vật, vô phương cứu chữa!
Ai có thể biết được lòng dạ loài người?
10 Ta, Chúa, Ðấng thử nghiệm trong trí và dò xét trong lòng,
Sẽ báo trả mỗi người tùy đường họ đi, tùy kết quả việc họ làm.
11 Như chim đa đa ấp trứng không do nó đẻ ra thể nào,
Những kẻ bất lương làm giàu bất chính cũng sẽ như vậy;
Ðến nửa đời người những của cải ấy đều sẽ không cánh mà bay;
Ðến cuối cùng hóa ra chúng chỉ là những kẻ dại.”

12 Lạy Ðấng ngự trên ngôi vinh hiển,
Ðấng luôn được tôn cao tự thuở ban đầu,
Ðấng ngự trên tòa thánh trong nơi thánh của chúng con!
13 Ôi lạy Chúa! Niềm hy vọng của I-sơ-ra-ên!
Tất cả những kẻ lìa bỏ Ngài sẽ bị hổ thẹn.
“Những kẻ quay lưng lìa bỏ Ta,
Tên tuổi chúng sẽ bị xóa nhòa như đã ghi trên cát bụi;
Vì chúng đã lìa bỏ Chúa, nguồn nước hằng sống.”

Giê-rê-mi Xin Chúa Binh Vực

14 Lạy Chúa, xin chữa lành con, thì con sẽ được chữa lành;
Xin cứu con, thì con sẽ được cứu,
Vì Ngài là Ðấng con ca ngợi.

15 Ðây này, xin Ngài xem những lời họ nói với con,
“Lời của Chúa ông đã rao giảng đâu rồi?
Hãy làm cho nó được ứng nghiệm đi!”

16 Phần con, con đã không bỏ cuộc trong việc làm tròn bổn phận người chăn mà Ngài giao phó.
Con thật không muốn ngày giáng họa đó xảy ra.
Ngài biết rõ những lời môi con đã rao giảng.
Những lời đó hiện vẫn còn rất rõ trước mặt Ngài.
17 Xin Ngài đừng trở thành nỗi kinh hoàng của con;
Ngài là nơi con nương náu trong ngày hoạn nạn.
18 Xin để những kẻ bách hại con bị hổ thẹn, nhưng xin đừng để con bị hổ thẹn.
Xin để chúng bị kinh hoàng, nhưng xin đừng để con bị kinh hoàng.
Xin giáng trên chúng ngày tai họa ấy.
Xin giáng họa gấp đôi để tiêu diệt chúng đi.

Phải Tôn Thánh Ngày Sa-bát

19 Chúa phán với tôi thế này, “Hãy đi và đứng nơi cổng chính, nơi dân chúng và các vua Giu-đa ra vào, và cũng hãy đến đứng tại các cổng thành của Giê-ru-sa-lem, 20 và nói với chúng, ‘Hãy nghe lời của Chúa, hỡi các ngài là các vua Giu-đa, hỡi toàn thể dân Giu-đa, hỡi toàn thể dân cư của Giê-ru-sa-lem, những người ra vào các cổng này. 21 Chúa phán thế này, “Ai nấy khá cẩn trọng giữ mình. Các ngươi chớ khuân vác gánh gồng đi qua các cổng Thành Giê-ru-sa-lem trong ngày Sa-bát. 22 Các ngươi chớ khuân vác gánh gồng vật gì ra khỏi nhà hay làm việc trong ngày Sa-bát, nhưng hãy giữ ngày Sa-bát để làm nên ngày thánh như Ta đã truyền cho tổ tiên các ngươi. 23 Tuy nhiên chúng đã không màng gì đến và cũng chẳng để tai nghe. Chúng đã cứng cổ, không muốn nghe, và không chịu nhận lời dạy dỗ. 24 Nhưng nếu các ngươi chăm chỉ nghe Ta,” Chúa phán, “không khuân vác gánh gồng vật gì đi qua các cổng của thành này trong ngày Sa-bát, nhưng giữ ngày Sa-bát để làm nên ngày thánh, và không làm việc trong ngày ấy, 25 thì ra vào các cổng thành này sẽ là các vua ngồi trên ngai của Ða-vít, những người cỡi trên các xe chiến mã và các ngựa chiến, các vua ấy và các quan tướng của họ, dân Giu-đa, và dân cư Giê-ru-sa-lem, và thành này sẽ có người ở mãi mãi. 26 Người từ các thành của Giu-đa, các vùng phụ cận của Giê-ru-sa-lem, từ miền đất Bên-gia-min, từ Sê-phê-la, từ trên các cao nguyên, và từ miền nam sẽ đem các của lễ thiêu, các sinh tế, các của lễ chay, nhũ hương, và các của lễ tạ ơn vào nhà Chúa. 27 Nhưng nếu các ngươi chẳng khứng nghe Ta, không chịu giữ ngày Sa-bát để làm nên ngày thánh, nhưng vẫn khuân vác gánh gồng ra vào các cổng Thành Giê-ru-sa-lem trong ngày Sa-bát, thì Ta sẽ cho một ngọn lửa bùng lên cháy các cổng ấy; nó sẽ thiêu rụi các cung điện ở Giê-ru-sa-lem, và ngọn lửa ấy sẽ không tàn lụi.”’”