I-sai-a 62-64
Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version
Giê-ru-sa-lem mới
62 Vì ta yêu núi Xi-ôn nên ta sẽ nói luôn về nó;
vì cớ Giê-ru-sa-lem
cho nên ta sẽ không bao giờ ngưng nói
cho đến khi sự công chính [a] nó tỏa sáng rực rỡ,
đến khi sự cứu rỗi nó rực lên như ánh lửa.
2 Hỡi Giê-ru-sa-lem, các dân sẽ thấy sự nhân từ ngươi,
các vua sẽ thấy vinh hiển ngươi.
Ngươi sẽ mang một tên mới,
do chính Thượng Đế ban cho.
3 Ngươi sẽ như mão triều xinh đẹp trong tay Chúa,
như mão triều của vua trong tay Thượng Đế.
4 Ngươi sẽ không còn bị gọi là
dân bị Thượng Đế ruồng bỏ,
xứ ngươi cũng không còn bị gọi là đất bị Thượng Đế hủy diệt.
Ngươi sẽ được gọi là Dân được Thượng Đế Yêu mến,
xứ ngươi sẽ được gọi là Cô Dâu của Thượng Đế,
vì CHÚA yêu ngươi.
Xứ ngươi sẽ thuộc về Ngài [b]
như cô dâu thuộc về chồng mình.
5 Như thanh niên cưới thiếu nữ,
Thượng Đế, Đấng nâng đỡ ngươi sẽ cưới ngươi [c].
Chồng vui mừng về vợ mới mình ra sao,
Thượng Đế cũng sẽ vui mừng về ngươi như thế.
6 Hỡi Giê-ru-sa-lem, ta đã đặt lính canh
trên tường thành để trông chừng.
Ngày đêm họ không được im lặng.
Các ngươi là những kẻ nhắc nhở CHÚA
về nhu cầu mình trong khi cầu nguyện
đừng bao giờ im lặng.
7 Hãy tiếp tục cầu nguyện
cho đến khi Ngài tái thiết Giê-ru-sa-lem,
và khiến nó trở nên một thành mà muôn dân ca ngợi.
8 CHÚA đã hứa, và dùng quyền năng mình giữ lời hứa đó.
Ngài phán,
“Ta sẽ không bao giờ ban ngũ cốc của ngươi làm thực phẩm cho kẻ thù ngươi.
Cũng sẽ không để kẻ thù ngươi
uống rượu mới do tay ngươi làm.
9 Ai thu góp thực phẩm sẽ ăn nó,
người đó sẽ ca ngợi CHÚA.
Ai hái nho sẽ uống rượu
trong sảnh đường của đền thờ ta.”
10 Hãy đi qua, qua các cổng!
Hãy dọn đường cho dân ta.
Hãy đắp, hãy đắp đường!
Hãy dọn sạch đá khỏi đường cái.
Hãy giương cờ lên làm dấu hiệu cho dân ta.
11 CHÚA phán cùng dân chúng các xứ xa xôi:
“Hãy bảo dân Xi-ôn,
‘Nầy, Cứu Chúa ngươi đang đến.
Ngài mang phần thưởng cho ngươi;
và thù lao theo Ngài.’”
12 Dân Ngài sẽ được gọi là Dân Thánh,
Dân Được Cứu của CHÚA.
Giê-ru-sa-lem sẽ được gọi là:
Thành Thượng Đế Muốn,
Thành được Ngài Ngự.
Chúa xét xử dân Ngài
63 Người đang đến từ Ê-đôm, từ thành Bốt-ra,
mặc áo quần đỏ rực là ai?
Ai ăn mặc áo quần sang trọng
và đi tới hiên ngang cùng với quyền năng mình?
Ngài phán, “Ta nói ra lẽ phải.
Ta có quyền cứu ngươi.”
2 Có người hỏi, “Sao áo quần ngươi đỏ tươi
như thể ngươi đã dẫm lên trái nho làm rượu?”
3 Ngài đáp, “Chỉ một mình ta dẫm lên bàn ép rượu,
không ai trong các dân giúp ta.
Ta nổi giận và dẫm lên các dân,
và chà đạp họ trong cơn giận ta.
Máu [d] vấy lên quần áo ta,
làm hoen ố y phục ta.
4 Ta đã chọn một thời điểm để báo thù,
và ta mang sự giải cứu đến với ta.
5 Ta nhìn quanh nhưng không thấy ai đến giúp ta.
Ta sửng sốt vì không ai yểm trợ ta.
Cho nên ta dùng quyền năng mình để giải cứu dân ta;
sự tức giận ta yểm trợ ta.
6 Trong khi ta nổi giận,
ta dẫm lên các dân.
Trong cơn giận ta trừng phạt họ,
đổ máu họ xuống đất.”
Lòng nhân từ Chúa đối cùng dân Ngài
7 Tôi sẽ thuật lại lòng nhân từ CHÚA
và ca ngợi Ngài về những việc Ngài làm.
Tôi sẽ ca ngợi CHÚA về những việc tốt lành Ngài làm cho chúng ta
và lòng nhân từ Ngài đối cùng dân Ít-ra-en.
Ngài đã tỏ lòng từ bi lớn lao cho chúng ta
và rất nhân từ đối với chúng ta.
8 Ngài phán, “Đây là dân ta;
con cái ta sẽ không nói dối với ta.”
Nên Ngài giải cứu chúng.
9 Khi chúng bị khốn khổ,
Ngài cũng chịu khốn khổ.
Ngài sai thiên sứ đến giải cứu chúng.
Vì lòng yêu thương và nhân từ,
Ngài giải cứu chúng.
Từ lâu Ngài đã nâng đỡ và bồng ẵm chúng.
10 Nhưng chúng chống nghịch Ngài
làm buồn Thánh Linh Ngài.
Nên Ngài trở thành thù nghịch chúng, và đánh lại chúng.
11 Nhưng rồi dân Ngài nhớ lại chuyện xưa,
thuở mà Mô-se và dân Ít-ra-en ở với Ngài.
CHÚA, Đấng đã mang dân mình qua biển cả,
cùng với các cấp lãnh đạo của dân chúng đâu rồi?
Đấng đặt Thánh Linh ở giữa họ,
12 nắm tay phải dắt Mô-se,
bằng quyền năng kỳ diệu,
rẽ nước ra trước mặt họ
để nổi danh mãi mãi,
13 là Đấng đã dẫn dân chúng qua nước sâu đâu rồi?
Như ngựa đi qua sa mạc,
dân chúng không bị vấp ngã.
14 Như trâu bò đi xuống thung lũng,
Thần Linh của CHÚA ban cho dân chúng một nơi an nghỉ.
Lạy CHÚA, đó là cách Ngài dẫn dắt dân Ngài,
vì thế mà Ngài nổi danh lạ lùng.
Lời cầu xin Thượng Đế giúp đỡ dân Ngài
15 Lạy Chúa, xin hãy từ trời nhìn xuống,
xin hãy nhìn chúng tôi từ nơi ở cao cả
và thánh khiết của Ngài trên trời.
Tình yêu lớn lao [e] và quyền năng Ngài đâu rồi?
Sao CHÚA cất tình yêu
và lòng từ bi Ngài khỏi chúng tôi?
16 Ngài là cha chúng tôi.
Áp-ra-ham không biết chúng tôi là con cháu người,
còn Ít-ra-en cũng không nhận ra chúng tôi.
Lạy Chúa, Ngài là cha chúng tôi.
Ngài được gọi là “Đấng từ xưa nay vẫn giải cứu chúng tôi.”
17 Lạy CHÚA, sao Ngài khiến chúng tôi
đi lầm lạc khỏi đường lối Ngài?
Sao Ngài làm cho chúng tôi ương ngạnh đến nỗi chúng tôi không tôn kính Ngài?
Vì cớ chúng tôi xin hãy trở lại cùng chúng tôi,
kẻ tôi tớ CHÚA thuộc về Ngài.
18 Dân Ngài có được đất đai trong một thời gian,
rồi bây giờ kẻ thù đến chà đạp nơi thánh Ngài.
19 Chúng tôi trở thành như dân chưa hề được Ngài cai trị,
như những kẻ chưa hề mang danh Ngài.
64 Xin hãy xé các từng trời và ngự xuống đất
để núi non rung chuyển trước mặt Ngài.
2 Như lửa đốt nhánh cây,
như lửa nấu sôi nước,
xin hãy cho các kẻ thù biết Ngài là ai.
Rồi các dân sẽ run sợ khi nhìn thấy Ngài.
3 Ngài đã làm nhiều việc diệu kỳ chúng tôi không ngờ tới.
Ngài ngự xuống thì núi non liền rung chuyển trước mặt Ngài.
4 Xưa nay chưa hề ai nghe một Thượng Đế nào giống như Ngài.
Chưa hề ai thấy một Thượng Đế nào khác ngoài Ngài,
là Đấng giúp đỡ người tin cậy Ngài.
5 Ngài giúp người thích làm điều thiện,
giúp người nhớ lại cách Ngài muốn họ sống.
Nhưng Ngài nổi giận vì chúng tôi phạm tội [f].
Trong một thời gian lâu chúng tôi đã bất vâng phục,
cho nên làm sao chúng tôi được giải cứu?
6 Tất cả chúng tôi bị nhớp nhúa vì tội lỗi.
Những việc lành chúng tôi như áo dơ.
Tất cả chúng tôi như lá cây khô,
tội lỗi chúng tôi như gió thổi mang chúng tôi đi.
7 Không ai thờ phụng Ngài
hay nài xin Ngài giúp chúng tôi.
Vì Ngài đã quay mặt khỏi chúng tôi
và để cho tội lỗi tiêu diệt chúng tôi.
8 Nhưng lạy CHÚA, Ngài là cha chúng tôi.
Chúng tôi như đất sét, Ngài là thợ gốm;
Tay Ngài đã tạo nên chúng tôi.
9 Lạy CHÚA, xin đừng mãi nổi giận cùng chúng tôi;
xin đừng ghi nhớ tội lỗi chúng tôi đến đời đời.
Xin hãy đoái đến chúng tôi,
vì chúng tôi là dân sự Ngài.
10 Các thành thánh của Ngài bị hoang vắng như sa mạc.
Xi-ôn như đồng hoang;
Giê-ru-sa-lem bị tiêu diệt.
11 Tổ tiên chúng tôi thờ phụng Ngài
trong đền thờ thánh của chúng tôi,
nhưng nay nó đã bị lửa thiêu đốt,
mọi vật quí của chúng tôi đã bị tiêu hủy.
12 Khi Ngài nhìn thấy những điều nầy,
mà Ngài vẫn không chịu cứu giúp chúng tôi sao?
Lạy CHÚA, Ngài sẽ im lặng
và trừng phạt chúng tôi mãi sao?
Footnotes
- I-sai-a 62:1 sự công chính Hay “chiến thắng.”
- I-sai-a 62:4 Xứ ngươi … về Ngài Hay “Ngài sẽ cưới đất ngươi.” Đây là một lối chơi chữ. Câu nầy cũng có nghĩa “Ngài sẽ làm chủ đất.”
- I-sai-a 62:5 Đấng nâng đỡ … cưới ngươi Hay “Đất của ngươi sẽ thuộc về con cái ngươi.”
- I-sai-a 63:3 Máu Hay “nước nho.”
- I-sai-a 63:15 Tình yêu lớn lao Trong tiếng Hê-bơ-rơ từ ngữ nầy dùng để mô tả những tình cảm mạnh mẽ trong con người như yêu, ghét, giận, sốt sắng, hay ganh tị.
- I-sai-a 64:5 Nhưng Ngài … phạm tội Hay “Nhưng Ngài nổi giận cùng chúng tôi và chúng tôi phạm tội.”
© 2010 Bible League International