Add parallel Print Page Options

Trận lụt chấm dứt

Nhưng Thượng Đế nhớ lại Nô-ê cùng các loại dã thú và các loại thú hiền hoà sống trong tàu. Ngài liền khiến một trận gió thổi qua đất, nước liền hạ.

Các suối ngầm dưới đất ngưng phun nước, các cổng chận nước trên trời đóng lại. 3-4 Nước, trước kia phủ mặt đất, bắt đầu hạ xuống. Sau một trăm năm mươi ngày, mực nước hạ xuống thấp đến nỗi chiếc tàu chạm đất trở lại. Tàu tấp trên một đỉnh thuộc rặng núi A-ra-rát vào ngày mười bảy tháng bảy. Nước tiếp tục hạ, đến ngày mười một tháng thứ mười thì các đỉnh núi bắt đầu xuất hiện.

Bốn mươi ngày sau Nô-ê mở cửa sổ ông đã làm trên tàu và thả một con quạ ra. Nó bay đây đó cho đến khi nước đã cạn khô trên đất. Sau đó Nô-ê thả một con chim bồ câu ra, xem thử nước đã khô khỏi mặt đất chưa.

Chim bồ câu không tìm được chỗ nào đáp xuống vì nước hãy còn phủ kín mặt đất, nên nó bay trở về tàu. Nô-ê giơ tay ra bắt bồ câu mang vào trong tàu.

10 Bảy ngày sau, Nô-ê lại thả chim bồ câu ra khỏi tàu. 11 Chiều hôm đó nó trở về cùng ông, mỏ ngậm một lá ô liu tươi. Nô-ê hiểu rằng mặt đất đã gần khô. 12 Bảy ngày sau, ông lại thả con chim bồ câu ra, nhưng lần nầy nó không trở về nữa.

13 Khi Nô-ê được 601 tuổi, vào ngày một tháng giêng năm đó, nước rút khô khỏi mặt đất. Nô-ê mở cửa tàu ra thì thấy đất đã khô. 14 Đến ngày hai mươi bảy tháng hai thì đất hoàn toàn khô ráo hẳn.

15 Rồi CHÚA bảo Nô-ê, 16 “Con, vợ con, các con trai và các con dâu con hãy ra khỏi tàu. 17 Hãy mang theo tất cả các loài vật trong tàu với con: Chim chóc, thú vật và mọi sinh vật bò sát, để chúng sinh sôi nẩy nở thật nhiều ra.”

18 Vậy Nô-ê, các con trai, vợ ông cùng các con dâu ra khỏi tàu. 19 Mọi loài thú, loài bò sát trên đất, mọi loài chim đều ra khỏi tàu theo chủng loại.

20 Sau đó Nô-ê xây một bàn thờ cho CHÚA. Ông bắt một vài con chim và thú tinh sạch dâng làm của lễ thiêu trên bàn thờ cho Thượng Đế.

21 CHÚA rất hài lòng về mùi thơm của các của lễ ấy nên tự nhủ, “Ta sẽ không bao giờ nguyền rủa đất vì loài người nữa. Từ lúc còn trẻ, chúng đã suy nghĩ về việc ác, nhưng ta sẽ không bao giờ tiêu diệt mọi sinh vật trên đất như ta đã làm lần nầy. 22 Đất còn bao lâu thì mùa gieo giống, mùa gặt, mùa nóng và mùa lạnh, mùa hạ và mùa xuân, ngày và đêm sẽ vẫn còn.”

Khởi điểm mới

Thượng Đế ban phúc cho Nô-ê và các con trai ông như sau, “Hãy sinh thật đông con, làm tràn ngập đất. Mọi loài thú trên đất, các loài chim trời, mọi loài bò sát trên đất, các loài cá dưới biển sẽ sợ các con. Ta đã trao chúng nó vào tay các con. Mọi loài vật di động, mọi sinh vật là đồ ăn cho các con. Trước đây ta ban cho các con thực vật, nay các con có thể ăn đủ mọi thứ. Nhưng các con không được ăn thịt còn máu trong đó, vì máu là sự sống. Ta sẽ đòi sự sống nơi máu. Ta sẽ đòi mạng của súc vật nào giết người, ta sẽ đòi mạng của người nào cướp mạng sống kẻ khác.

Ai giết người sẽ bị người khác giết,
    vì Thượng Đế tạo dựng nên con người theo hình ảnh Ngài.

Còn về phần con, Nô-ê, ta muốn con và gia đình con sinh thật nhiều con cái trên đất.”

Rồi Thượng Đế bảo Nô-ê và các con trai ông, “Bây giờ ta lập ước với con và con cháu của con, 10 cùng những sinh vật ở với con; chim trời, các loài thú hiền hoà, các loài dã thú và những loài cùng ra khỏi tàu với con, tức mọi sinh vật sống trên đất. 11 Ta lập giao ước sau đây với con: Ta sẽ không bao giờ dùng nước lụt để tiêu diệt trái đất nữa. Sẽ không bao giờ có nước lụt tiêu diệt địa cầu nữa.”

12 Thượng Đế bảo, “Đây là dấu hiệu của giao ước giữa ta với con và các sinh vật cùng ở với con, cho đến mọi thế hệ mai sau. 13 Ta đặt cái mống [a] trên các đám mây để làm dấu hiệu giữa ta và địa cầu. 14 Khi ta đưa mây phủ trái đất và cái mống xuất hiện giữa các đám mây, 15 thì ta sẽ nhớ lại giao ước ta lập với con cùng các sinh vật. Nước lụt sẽ không bao giờ tiêu diệt các sinh vật trên đất nữa. 16 Khi cái mống xuất hiện trong mây, ta nhìn thấy và sẽ nhớ lại giao ước muôn đời giữa ta và các sinh vật trên địa cầu.”

17 Thượng Đế bảo Nô-ê, “Cái mống là dấu hiệu ta lập với các sinh vật trên đất.”

Nô-ê và các con trai ông

18 Các con trai cùng ra khỏi tàu với Nô-ê là Sem, Cham và Gia-phết. (Cham là cha của Ca-na-an.) 19 Đó là các con trai của Nô-ê. Tất cả dân tộc trên đất đều do ba người con trai ấy mà ra.

20 Nô-ê làm nghề nông và trồng một vườn nho. 21 Ông uống rượu nho đến nỗi say, rồi nằm trần truồng trong lều. 22 Cham, cha của Ca-na-an, thấy cha mình trần truồng thì đi ra kể lại cho hai anh em mình đang ở ngoài lều. 23 Sem và Gia-phết liền lấy một cái áo mang trên vai và đi giật lùi vào trong lều, lấy áo trùm lên cha mình. Họ quay mặt đi nên không thấy cha mình trần truồng.

24 Vì say rượu nên Nô-ê ngủ mê. Khi tỉnh dậy hay biết điều Cham, con út, làm cho mình, 25 liền bảo,

“Ca-na-an [b] sẽ bị nguyền rủa!
    Nó sẽ làm nô lệ hạng bét
    cho các anh nó.”

26 Nô-ê bảo,

“Chúc tụng CHÚA là Thượng Đế của Sem,
    Cầu cho Ca-na-an làm nô lệ cho Sem.
27 Nguyền Thượng Đế ban thêm đất đai
    cho Gia-phết.
Nguyền Gia-phết ở trong lều của Sem
    và Ca-na-an làm nô lệ cho họ.”

28 Sau trận lụt lớn, Nô-ê sống thêm 350 năm nữa.

29 Ông hưởng thọ được 950 tuổi rồi qua đời.

Dân cư trên đất sinh sôi và phân tán

10 Đây là gia phổ của Sem, Cham và Gia-phết, các con trai của Nô-ê. Sau trận đại hồng thủy, họ sinh ra các con trai khác.

Các con trai của Gia-phết

Các con trai của Gia-phết là Gô-me, Ma-gót, Ma-đai, Gia-van, Tu-banh, Mê-sết và Ti-ra.

Các con trai của Gô-me là Ách-kê-na, Ri-phát và Tô-ga-ma.

Các con trai của Gia-van là Ê-li-sa, Tạc-kít, Kít-tim và Rô-đa-nim [c].

Dân cư sống trong vùng đất quanh Địa-trung-hải đều do các con trai trên đây của Gia-phết mà ra. Các gia đình sinh sôi nẩy nở, trở thành nhiều dân tộc khác nhau, mỗi dân tộc có lãnh thổ và ngôn ngữ riêng.

Con cháu của Cham

Các con trai của Cham là Cút [d], Mít-ra-im [e], Phút và Ca-na-an.

Các con trai của Cút là Xê-ba, Ha-vi-la, Sáp-ta, Ra-a-ma và Sáp-tê-ca.

Các con trai của Ra-a-ma là Sê-ba và Đê-đan.

Cút cũng có một con tên Nim-rốt là một vị anh hùng trên đất. Nim-rốt là một thợ săn rất giỏi trước mặt CHÚA nên người ta hay ví “giống như Nim-rốt, chàng thợ săn giỏi trước mặt CHÚA.”

10 Lúc đầu vương quốc của Nim-rốt gồm Ba-by-lôn, Ê-réc, Ác-cát và Canh-ne trong vùng đất Ba-by-lôn. 11 Từ đó ông đi đến A-xy-ri, xây thành Ni-ni-ve, Rê-hô-bốt Y-rơ, và Ca-la. 12 Ông cũng xây Rê-sen là thành lớn nằm giữa Ni-ni-ve và Ca-la.

13 Mít-ra-im là tổ tiên của người Lu-đít, A-na-mít, Lê-ha-bít, Náp-tu-hít, 14 Ba-ru-sít, Cát-lu-hít và dân cư Cơ-rết. (Dân Phi-li-tin xuất thân từ Cát-lu-hít.)

15 Ca-na-an sinh ra Xi-đôn, con đầu lòng, rồi sinh ra Hết. 16 Ông cũng là tổ tiên của người Giê-bu-sít, A-mô-rít, Ghi-ra-sít, 17 Hi-vít, Ạc-kít, Si-nít, 18 Ạc-va-đít, Giê-ma-rít và Ha-ma-thít. Các gia tộc của Ca-na-an tản mác ra khắp nơi. 19 Lãnh thổ của họ chạy từ Xi-đôn đến Ghê-ra cho tới Ga-xa, sang qua Xô-đôm, Gô-mô-rơ, Ách-ma, Giê-bô-im cho tới La-sa.

20 Tất cả các dân tộc ấy là con cháu của Cham. Mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ, lãnh thổ và quốc gia riêng biệt.

Con cháu của Sem

21 Sem, anh của Gia-phết cũng có con trai. Một trong con cháu của ông là ông tổ của tất cả các con trai của Ê-be [f].

22 Các con trai của Sem là Ê-lam, Át-sua, Ạc-pha-xát, Lút, và A-ram.

23 Các con trai của A-ram là Út, Hun, Ghê-the, và Mê-séc.

24 Ạc-pha-xát sinh ra Sê-la, Sê-la sinh Ê-be. 25 Ê-be có hai con trai, một người tên Phê-léc [g], vì đất bị chia ra trong đời người, còn người kia tên Giốc-tan.

26 Giốc-tan sinh ra An-mô-đát, Sê-lép, Ha-xa-ma-vết, Giê-ra, 27 Ha-đô-ram, U-san, Điếc-la, 28 Ô-banh, A-bi-ma-ên, Sê-ba, 29 Ô-phia, Ha-vi-la, và Giô-báp. Tất cả các người đó là con của Giốc-tan. 30 Họ sống trong vùng nằm giữa Mê-sa và Sê-pha ở vùng đồi núi phía Đông.

31 Đó là những người thuộc gia tộc Sem, xếp theo họ hàng, ngôn ngữ, quốc gia và lãnh thổ.

32 Trên đây là những gia tộc thuộc các con trai Nô-ê, xếp theo quốc gia. Từ các gia tộc đó sinh ra các dân tộc rải rác khắp trái đất sau trận lụt toàn thế giới ấy.

Sự rối loạn ngôn ngữ

11 Lúc đó cả thế giới chỉ có một ngôn ngữ, mọi người đều dùng một thứ tiếng mà thôi. Khi dân chúng di cư khỏi phía đông thì họ tìm được một bình nguyên ở vùng đất Xi-na, nên định cư tại đó. Họ bảo nhau, “Chúng ta hãy lấy gạch nướng thật cứng.” Nên họ dùng gạch thay cho đá, và dùng nhựa chai thay cho vôi.

Rồi họ bảo nhau, “Chúng ta hãy xây một cái thành và một cái tháp cao đến tận trời. Chúng ta sẽ làm một đài kỷ niệm cho mình. Như thế chúng ta sẽ không bị tản lạc khắp nơi trên đất nữa.”

CHÚA ngự xuống thấy thành phố và tháp mà con người đã xây. Ngài bảo, “Bây giờ các dân nầy đã đoàn kết với nhau và nói cùng một ngôn ngữ. Đây chỉ là giai đoạn đầu chúng nó định làm thôi. Không có gì ngăn chặn điều chúng định làm. Bây giờ chúng ta hãy xuống làm lộn xộn ngôn ngữ của chúng để chúng không còn hiểu nhau được nữa.”

Vậy CHÚA phân tán họ khắp đất, nên họ bỏ dở việc xây thành. Nơi đó được gọi là Ba-bên [h] vì là chỗ CHÚA làm lộn xộn ngôn ngữ của cả thế gian. Thế là CHÚA làm họ tản lạc khắp nơi trên thế giới.

Câu truyện về gia tộc Sem

10 Đây là gia phổ của Sem. Hai năm sau trận lụt lớn, lúc Sem được 100 tuổi thì sinh A-phác-xác. 11 Sau đó Sem sống thêm 500 năm nữa, sinh con trai con gái.

12 Khi A-phác-xác được 35 tuổi thì sinh ra Sê-la. 13 Sau đó A-phác-xác sống thêm 403 năm nữa sinh con trai con gái.

14 Khi Sê-la được 30 tuổi thì sinh Ê-be. 15 Sau đó Sê-la sống thêm 403 năm nữa, sinh con trai con gái.

16 Khi Ê-be được 34 tuổi thì sinh Phê-léc. 17 Sau đó Ê-be sống thêm 430 năm nữa, sinh con trai con gái.

18 Khi Phê-léc được 30 tuổi thì sinh ra Rêu. 19 Sau đó Phê-léc sống thêm 209 năm nữa, sinh con trai con gái.

20 Khi Rêu được 32 tuổi thì sinh Sê-rúc. 21 Sau đó Rêu sống thêm 207 năm nữa, sinh con trai con gái.

22 Khi Sê-rúc được 30 tuổi thì sinh Na-ho. 23 Sau đó Sê-rúc sống thêm 200 năm nữa, sinh con trai con gái.

24 Khi Na-ho được 29 tuổi, sinh Thê-ra. 25 Sau đó Na-ho sống thêm 119 năm nữa, sinh con trai con gái.

26 Sau khi Thê-ra được 70 tuổi thì sinh Áp-ram, Na-ho và Ha-ran.

Câu truyện về gia đình Thê-ra

27 Đây là gia phổ của Thê-ra. Thê-ra sinh Áp-ram, Na-ho, và Ha-ran. Ha-ran sinh ra Lót. 28 Ha-ran qua đời trong thành U-rơ thuộc miền Ba-by-lôn [i], nơi sinh trưởng, trong khi cha mình hãy còn sống. 29 Cả Áp-ram và Na-ho đều lập gia đình. Vợ Áp-ram tên Sa-rai, vợ Na-ho tên Minh-ca. Nàng là con gái Ha-ran, là người sinh ra Minh-ca và Ích-ca. 30 Sa-rai hiếm muộn không sinh con được.

31 Thê-ra mang Áp-ram, con mình, và Lót, cháu mình, con dâu Sa-rai tức vợ của Áp-ram, di cư ra khỏi thành U-rơ, xứ Ba-by-lôn. Họ dự định đi qua xứ Ca-na-an, nhưng đi đến thành Ha-ran thì định cư tại đó. 32 Thê-ra hưởng thọ 205 tuổi rồi qua đời tại Ha-ran.

Footnotes

  1. Sáng Thế 9:13 cái mống Hay “cầu vồng.”
  2. Sáng Thế 9:25 Ca-na-an Đây là con của Cham. Dân Ca-na-an sống dọc theo bờ biển xứ Pha-lét-tin, Li-băng, và Xy-ri. Về sau Thượng Đế cấp vùng đất nầy cho dân Ít-ra-en.
  3. Sáng Thế 10:4 Rô-đa-nim Hay “Đô-đa-nim” là dân cư của vùng đất Rốt.
  4. Sáng Thế 10:6 Cút Một tên khác của nước Ê-thi-ô-bi.
  5. Sáng Thế 10:6 Mít-ra-im Một tên khác của nước Ai-cập.
  6. Sáng Thế 10:21 ông tổ … Ê-be Nguyên văn, “ông tổ của tất cả người Hê-bơ-rơ.”
  7. Sáng Thế 10:25 Phê-léc Nghĩa là “chia ra.”
  8. Sáng Thế 11:9 Ba-bên Hay “Ba-by-lôn.” Chữ nầy nghe như là “lộn xộn.”
  9. Sáng Thế 11:28 U-rơ thuộc miền Ba-by-lôn Nguyên văn, “U-rơ thuộc vùng đất của người Canh-đê.” Đây là một thành phố thuộc miền nam Ba-by-lôn.

Nước Lụt Hạ Xuống

Ðức Chúa Trời nhớ đến Nô-ê, cùng mọi thú rừng, và mọi gia súc đang ở trong tàu với ông. Ðức Chúa Trời khiến một trận gió thổi qua mặt đất, nước bèn hạ xuống. Các nguồn vực thẳm và các cửa sổ trên trời đóng lại; mưa từ trời tạnh hẳn. Nước từ từ rút khỏi mặt đất. Sau một trăm năm mươi ngày, nước hạ xuống. Vào ngày mười bảy, tháng bảy, chiếc tàu hạ xuống trên Núi A-ra-rát. Nước cứ tiếp tục hạ xuống cho đến tháng mười. Ðến ngày mồng một tháng mười, các đỉnh núi mới bắt đầu lộ ra.

Sau bốn mươi ngày, Nô-ê mở cánh cửa sổ của chiếc tàu ông đã đóng, và thả một con quạ bay ra. Nó lượn tới lượn lui cho đến khi nước rút khỏi mặt đất. Ðoạn ông thả một con bồ cầu bay ra, để xem nước đã rút hẳn khỏi mặt đất chưa. Nhưng con bồ câu không tìm được một nơi nào để đậu, nên nó bay về lại chiếc tàu với ông, vì nước vẫn còn lai láng trên khắp mặt đất. Ông đưa tay ra, đón nó, và đem nó vào lại trong tàu với ông. 10 Ông đợi thêm bảy ngày, rồi thả con bồ câu ra khỏi tàu một lần nữa. 11 Ðến chiều tối, con bồ câu bay về, và kìa, trong mỏ nó có một lá ô-liu non. Thế là Nô-ê biết nước đã rút khỏi mặt đất. 12 Ông đợi thêm bảy ngày nữa rồi thả con bồ cầu ra, lần nầy con bồ câu không trở về với ông nữa.

13 Vào ngày mồng một, tháng giêng, năm sáu trăm lẻ một của đời Nô-ê, nước đã rút khỏi mặt đất. Nô-ê dỡ mui tàu và nhìn; ông thấy mặt đất đang khô ráo. 14 Ðến ngày hai mươi bảy, tháng hai, mặt đất đã khô hẳn. 15 Ðức Chúa Trời phán với Nô-ê, 16 “Ngươi hãy ra khỏi tàu – ngươi, vợ ngươi, các con trai ngươi, và vợ của các con trai ngươi. 17 Hãy đem ra với ngươi mọi sinh vật của mọi loài xác thịt đã ở với ngươi, nào chim chóc, thú vật, và mọi loài bò sát mặt đất, để chúng gia tăng đông đúc trên đất. Chúng phải sinh sôi nảy nở thêm nhiều trên đất.” 18 Vậy Nô-ê cùng các con trai ông, vợ ông, và vợ của các con trai ông ra khỏi tàu. 19 Rồi mọi thú vật, mọi sinh vật bò sát, mọi chim trời, mọi loài di động trên đất đều ra khỏi tàu, theo từng loài một.

Ðức Chúa Trời Hứa với Nô-ê

20 Bấy giờ Nô-ê lập một bàn thờ để thờ Chúa, rồi ông bắt một con trong các thú vật thanh sạch và một con trong các thứ chim thanh sạch làm của lễ thiêu dâng trên bàn thờ. 21 Khi Chúa ngửi mùi thơm, Chúa tự nhủ, “Ta sẽ không bao giờ nguyền rủa đất vì cớ loài người nữa, vì lòng dạ của loài người đã có khuynh hướng xấu từ khi còn trẻ. Ta cũng sẽ không tiêu diệt mọi sinh vật như Ta đã làm nữa.

22 Hễ ngày nào trái đất còn,
Mùa gieo và mùa gặt,
Trời lạnh và trời nóng,
Mùa hạ và mùa đông,
Ngày và đêm,
Sẽ không ngừng tiếp diễn.”

Giao Ước với Nô-ê

Ðức Chúa Trời ban phước cho Nô-ê và các con trai ông. Ngài phán với họ, “Hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều và làm đầy khắp đất. Tất cả loài thú trên đất, loài chim trên trời, loài vật bò sát mặt đất, và mọi loài cá biển sẽ khiếp sợ và kinh hãi các ngươi; chúng sẽ bị phó vào tay các ngươi. Mọi sinh vật di động sẽ được dùng làm thực phẩm cho các ngươi. Như trước kia Ta đã cho các ngươi rau trái để làm thức ăn, thì nay Ta cho các ngươi được ăn mọi thứ. Duy chỉ một điều: các ngươi không được ăn thịt với mạng sống của nó, tức với máu nó.[a] Vì mạng sống của các ngươi, Ta bắt phải có sự đền mạng. Nếu một con thú làm người nào bị chết, con thú ấy phải đền mạng. Nếu một người làm người nào chết, người ấy phải đền mạng; kẻ nào sát nhân, kẻ ấy phải đền mạng. Ta sẽ đòi mỗi người phải đền mạng cho mạng sống của người bị mình hại chết.

Ai làm đổ máu người ta, máu nó sẽ bị người ta làm đổ lại,
Vì Ðức Chúa Trời đã dựng nên loài người theo hình ảnh Ngài.

Về phần các ngươi, các ngươi hãy sinh sôi nảy nở cho nhiều. Hãy lan tràn ra khắp đất và sinh sản cho nhiều trên đất.”

Ðức Chúa Trời lại phán với Nô-ê và các con trai ông, “Về phần Ta, Ta lập một giao ước với các ngươi và với dòng dõi các ngươi sau này, 10 và với mọi sinh vật đang sống với các ngươi, tức với mọi loài chim, mọi loài gia súc, mọi loài thú vật đang sống trên đất với các ngươi, tức những sinh vật đã ra khỏi tàu. 11 Ta lập giao ước Ta với các ngươi: Ta sẽ không bao giờ tiêu diệt mọi loài xác thịt bằng nước lụt nữa và sẽ không bao giờ có một trận đại hồng thủy để hủy diệt trái đất nữa.” 12 Ðức Chúa Trời phán, “Ðây là dấu hiệu để chỉ về giao ước Ta đã lập giữa Ta với các ngươi và với mọi sinh vật đang sống với các ngươi, cho đến muôn vàn thế hệ về sau: 13 Ta đã đặt cầu vồng của Ta ở trong mây, để nó sẽ làm một dấu hiệu chỉ về giao ước của Ta với trái đất. 14 Mỗi khi Ta cho mây giăng trên đất, chiếc cầu vồng sẽ xuất hiện trong mây; 15 bấy giờ Ta sẽ nhớ lại giao ước giữa Ta với các ngươi và với mọi sinh vật của mọi loài xác thịt, và nước sẽ không bao giờ trở thành một cơn đại hồng thủy để tiêu diệt mọi loài xác thịt nữa. 16 Khi chiếc cầu vồng xuất hiện trong mây, Ta sẽ trông thấy nó, và sẽ nhớ lại giao ước đời đời giữa Ðức Chúa Trời và mọi sinh vật của mọi loài xác thịt sống trên đất.” 17 Ðức Chúa Trời phán với Nô-ê, “Ðó là dấu hiệu của giao ước Ta đã lập giữa Ta và mọi loài xác thịt sống trên đất.”

Nô-ê và Các Con Trai Ông

18 Các con trai của Nô-ê đã ra khỏi tàu là Sem, Cham, và Gia-phết. Cham là cha của Ca-na-an. 19 Ba người ấy là các con trai của Nô-ê. Từ ba người ấy, loài người đã lan tràn khắp mặt đất.

20 Nô-ê là một nông gia. Ông là người đầu tiên lập một vườn nho. 21 Ông uống rượu và say. Ông nằm trần truồng trong lều của mình. 22 Cham cha của Ca-na-an thấy cha ông trần truồng bèn đi ra nói cho anh và em của ông hay. 23 Nghe vậy Sem và Gia-phết lấy một chiếc áo choàng, mỗi người giữ một vạt áo trên vai mình, rồi đi giật lùi vào trong lều, và đậy thân thể lõa lồ của cha họ. Mặt họ quay đi hướng khác, nên họ không hề trông thấy sự lõa lồ của cha họ. 24 Khi Nô-ê tỉnh rượu và biết được những gì đứa con thứ hai của ông đã làm cho mình, 25 ông nói

“Ca-na-an thật đáng bị nguyền rủa!
Nó sẽ làm đầy tớ cho các đầy tớ của anh em nó.”

26 Ông lại nói,

“Sem sẽ được Chúa Ðức Chúa Trời của ta ban phước;
Hãy để Ca-na-an làm tôi cho nó.
27 Cầu xin Ðức Chúa Trời mở rộng bờ cõi của Gia-phết;
Hãy để cho nó được ở trong các lều trại của Sem,
Và hãy để Ca-na-an làm tôi cho nó.”

28 Sau cơn đại hồng thủy, Nô-ê sống thêm ba trăm năm mươi năm nữa. 29 Như vậy Nô-ê hưởng thọ chín trăm năm mươi tuổi, rồi qua đời.

Các Dân Tộc Ra từ Nô-ê

10 Ðây là dòng dõi của các con trai Nô-ê, tức của Sem, Cham, và Gia-phết. Sau cơn đại hồng thủy họ sinh được các con cháu sau đây:

Các con cháu của Gia-phết là Gô-me, Ma-gót, Ma-đai, Gia-van, Tu-banh, Mê-séc, và Ti-ra. Các con trai của Gô-me là Ách-kê-na, Ri-phát, và Tô-gạc-ma. Các con trai của Gia-van là Ê-li-sa, Tạt-si,[b] Kít-tim,[c] và Rô-đa-nim.[d] Con cháu những người nầy phân tán thành những dân sống trên các hải đảo. Mỗi dân có lãnh thổ riêng, tùy theo ngôn ngữ và gia tộc, mà lập các quốc gia riêng của họ.

Các con cháu của Cham là Cút, Ai-cập,[e] Pút, và Ca-na-an. Các con cháu của Cút là Sê-ba, Ha-vi-la, Sáp-ta, Ra-a-ma, và Sáp-tê-ca. Các con cháu của Ra-a-ma là Sê-ba và Ðê-đan. Cút sinh Nim-rốt. Nim-rốt là anh hùng đầu tiên trên mặt đất. Ông là một thợ săn dũng mãnh trước mặt Chúa. Vì thế người ta đã có câu tục ngữ, “Giống như Nim-rốt, một thợ săn dũng mãnh trước mặt Chúa.” 10 Vương quốc của ông khởi đầu tại Ba-bên, Ê-réc, Ạc-cát, và Canh-nê; tất cả những nơi ấy đều nằm trong xứ Si-na. 11 Từ xứ ấy, ông tiến về A-sy-ri và xây dựng Ni-ni-ve, Rê-hô-bốt I-rơ, Ca-la, 12 và Rê-sen. Rê-sen là một thành lớn, nằm giữa Ni-ni-ve và Ca-la.

13 Ai-cập sinh ra các dân Lút, A-nam, Lê-háp, Náp-tu, 14 Pát-ru, Các-lu, và Cáp-tô. Từ dân Các-lu sinh ra dân Phi-li-tin.

15 Ca-na-an sinh con trai đầu lòng là Si-đôn, rồi sinh Hết, 16 và tổ các dân Giê-bu-si, A-mô-ri, Ghi-ga-si, 17 Hi-vi, Ạc-ki, Si-ni, 18 Ạc-va-đi, Xê-ma-ri, và Ha-ma-thi. Sau đó các gia tộc của dân Ca-na-an đều phân tán ra khắp nơi. 19 Lãnh thổ của dân Ca-na-an kéo dài từ Si-đôn; về hướng Ghê-ra thì đến tận miền Ga-xa, còn về hướng Sô-đôm, Gô-mô-ra, Át-ma, và Xê-boi-im thì đến tận miền La-sa. 20 Ðó là dòng dõi của Cham, theo các gia tộc, các ngôn ngữ, các xứ sở, và các quốc gia của họ.

21 Sem cũng vậy, ông là tổ phụ của các con cháu của Ê-be. Anh cả của Gia-phết cũng sinh được các con. 22 Dòng dõi của Sem là Ê-lam, Át-sua, Ạc-pác-sát, Lút, và A-ram. 23 Dòng dõi của A-ram là U-xơ, Hun, Ghê-the, và Mách. 24 Ạc-pác-sát sinh Sê-la; Sê-la sinh Ê-be. 25 Ê-be sinh được hai con trai; một người tên Pê-léc,[f] vì trong thời của ông đất đai bị phân chia, còn em trai ông tên Giốc-tan. 26 Giốc-tan sinh An-mô-đác, Sê-lép, Ha-xa-ma-vết, Giê-ra, 27 Ha-đô-ram, U-xanh, Ðiết-la, 28 Ô-banh, A-bi-ma-ên, Sê-ba, 29 Ô-phia, Ha-vi-la, và Giô-báp. Tất cả những người ấy là con cháu của Giốc-tan. 30 Lãnh thổ họ ở chạy từ Mê-sa trải dài về hướng Sê-pha, là miền đồi núi phía đông. 31 Ðó là dòng dõi của Sem, theo các gia tộc, các ngôn ngữ, các xứ sở, và các quốc gia của họ.

32 Trên đây là các dòng dõi của các con trai Nô-ê, theo gia phả của họ, trong các dân tộc của họ. Sau cơn đại hồng thủy, những người ấy đã phân tán và trở thành những quốc gia khắp mặt đất.

Tháp Ba-bên

11 Thuở ấy cả thế giới chỉ có một ngôn ngữ và mọi người đều nói một thứ tiếng. Từ phương đông họ lan dần ra khắp nơi; họ đến một đồng bằng trong xứ Si-na, và quyết định định cư tại đó. Họ bảo nhau, “Hãy đến, chúng ta hãy đúc gạch và nung chúng trong lửa thật kỹ.” Họ lấy gạch thay cho đá và dùng nhựa đen thế cho hồ. Họ nói, “Hãy đến, hãy xây cho chúng ta một thành và một ngọn tháp có đỉnh cao đến tận trời. Hãy làm rạng danh chúng ta, kẻo chúng ta bị tản lạc khắp mặt đất.”

Chúa ngự xuống xem cái thành và ngọn tháp do con cái loài người đang xây cất. Bấy giờ Chúa phán, “Nầy, cả nhân loại đều là một dân, và chúng nói một ngôn ngữ. Ðây mới chỉ là việc chúng khởi sự làm. Từ nay chẳng có gì chúng trù tính mà sẽ không thực hiện được. Hãy đến, Chúng Ta hãy xuống và làm rối loạn ngôn ngữ của chúng, để chúng không thể hiểu tiếng nói của nhau.”

Vậy Chúa đã làm cho họ phải từ đó tản mát khắp mặt đất, và họ đành phải ngưng công cuộc xây dựng thành. Vì thế người ta gọi thành ấy là Ba-bên, vì nơi đó Chúa đã làm lộn xộn ngôn ngữ của mọi người trên đất, và từ đó Chúa đã phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất.

Dòng Dõi Sem

(1 Sử 1:24-27)

10 Ðây là dòng dõi của Sem: Hai năm sau cơn đại hồng thủy, Sem được một trăm tuổi và sinh Ạc-pác-sát. 11 Sau khi sinh Ạc-pác-sát, Sem sống thêm năm trăm năm nữa, sinh các con trai và các con gái.

12 Khi Ạc-pác-sát được ba mươi lăm tuổi, ông sinh Sê-la. 13 Sau khi sinh Sê-la, Ạc-pác-sát sống thêm bốn trăm lẻ ba năm nữa, sinh các con trai và các con gái.

14 Khi Sê-la được ba mươi tuổi, ông sinh Ê-be. 15 Sau khi sinh Ê-be, Sê-la sống thêm bốn trăm lẻ ba năm nữa, sinh các con trai và các con gái.

16 Khi Ê-be được ba mươi bốn tuổi, ông sinh Pê-léc. 17 Sau khi sinh Pê-léc, Ê-be sống thêm bốn trăm ba mươi năm nữa, sinh các con trai và các con gái.

18 Khi Pê-léc được ba mươi tuổi, ông sinh Rê-u. 19 Sau khi sinh Rê-u, Pê-léc sống thêm hai trăm lẻ chín năm nữa, sinh các con trai và các con gái.

20 Khi Rê-u được ba mươi hai tuổi, ông sinh Sê-rúc. 21 Sau khi sinh Sê-rúc, Rê-u sống thêm hai trăm lẻ bảy năm nữa, sinh các con trai và các con gái.

22 Khi Sê-rúc được ba mươi tuổi, ông sinh Na-hô. 23 Sau khi sinh Na-hô, Sê-rúc sống thêm hai trăm năm nữa, sinh các con trai và các con gái.

24 Khi Na-hô được hai mươi chín tuổi, ông sinh Tê-ra. 25 Sau khi sinh Tê-ra, Na-hô sống thêm một trăm mười chín năm nữa, sinh các con trai và các con gái.

26 Khi Tê-ra được bảy mươi tuổi, ông sinh Áp-ram, Na-hô, và Ha-ran.

Dòng Dõi Tê-ra

27 Ðây là dòng dõi của Tê-ra: Tê-ra sinh Áp-ram, Na-hô, và Ha-ran. Ha-ran sinh Lót. 28 Ha-ran qua đời trước Tê-ra cha của ông, tại quê hương của ông ở U-rơ, trong xứ của người Canh-đê. 29 Áp-ram và Na-hô đều cưới vợ. Vợ của Áp-ram tên Sa-rai, còn vợ của Na-hô tên Minh-ca con gái của Ha-ran. Ha-ran là cha của Minh-ca và Ích-ca. 30 Sa-rai hiếm muộn và không con.

31 Tê-ra dẫn Áp-ram con trai của ông, Lót cháu nội của ông, tức con trai của Ha-ran, và Sa-rai vợ của Áp-ram, tức dâu của ông, ra khỏi U-rơ, xứ của người Canh-đê, để đến xứ Ca-na-an. Nhưng khi đến Cha-ran, họ định cư tại đó. 32 Tê-ra hưởng thọ hai trăm lẻ năm tuổi, rồi qua đời tại Cha-ran.

Footnotes

  1. Sáng Thế 9:4 ctd: các ngươi không được ăn thịt sống, tức là ăn thịt luôn với máu tươi
  2. Sáng Thế 10:4 ctd: Tây-ban-nha
  3. Sáng Thế 10:4 ctd: Chíp-rơ
  4. Sáng Thế 10:4 nt: Ðô-đa-nim (xt: 1 Sử 1:7) hay Rhodes, một đảo lớn trong Ðịa Trung Hải, thuộc tây nam Thổ-nhĩ-kỳ ngày nay
  5. Sáng Thế 10:6 nt: Mít-ra-im
  6. Sáng Thế 10:25 nghĩa là “phân chia”