Add parallel Print Page Options

Gia đình đầu tiên

A-đam ăn ở với vợ là Ê-va. Nàng thụ thai và sinh ra Ca-in [a]. Ê-va nói, “Nhờ CHÚA giúp đỡ tôi tạo ra được một người.” Sau đó, Ê-va sinh ra em của Ca-in là A-bên. A-bên lo chăn nuôi, còn Ca-in thì làm ruộng.

3-4 Ít lâu sau, Ca-in mang hoa lợi do đất sinh sản dâng cho CHÚA. Còn A-bên thì mang những con tốt nhất [b] trong các con đầu lòng của bầy gia súc dâng cho CHÚA.

Ngài nhận lễ vật của A-bên, nhưng Ngài không nhận lễ vật của Ca-in. Vì thế Ca-in lấy làm tức giận, cảm thấy như bị ruồng bỏ. CHÚA hỏi Ca-in, “Tại sao con tức giận? Tại sao con có vẻ bất bình? Nếu con làm đúng, ta đã hẳn chấp nhận con; nhưng nếu con làm sai thì hãy cẩn thận, tội lỗi đang chờ chụp bắt con đó [c]. Tội lỗi rất thèm muốn con nhưng con phải thắng nó.”

Một hôm Ca-in bảo em là A-bên rằng, “Chúng mình hãy ra đồng đi.” [d] Trong khi hai người đang ở ngoài đồng thì Ca-in cãi nhau với A-bên. Ca-in liền xông tới giết A-bên, em mình.

Sau đó CHÚA hỏi Ca-in, “A-bên, em con đâu rồi?”

Ca-in thưa, “Con đâu có biết. Con có nhiệm vụ lo cho em con sao?”

10-11 CHÚA liền bảo, “Con đã làm gì? Huyết của em con từ đất kêu van lên đến ta. 12 Từ nay khi cày ruộng, con sẽ bị nguyền rủa nơi đất mà huyết em con rơi xuống, khi tay con giết em mình. Con sẽ cày bừa vất vả nhưng đất sẽ không sinh hoa lợi nữa. Con sẽ phải đi lang thang trên đất.”

13 Ca-in thưa cùng CHÚA rằng, “Hình phạt nầy quá sức chịu đựng của con! 14 Hôm nay Ngài đuổi con ra khỏi đất và khỏi mặt Ngài. Trong khi con lang thang trên đất, lỡ ai gặp họ sẽ giết con đi.”

15 CHÚA phán cùng Ca-in rằng, “Không sao! Ai giết con, ta sẽ trừng phạt người ấy gấp bảy lần.” Rồi CHÚA đánh dấu trên mình Ca-in để ai gặp người thì không giết.

Gia đình Ca-in

16 Vì thế Ca-in ra khỏi mặt CHÚA và sinh sống ở xứ Nót [e], về phía đông Ê-đen.

17 Người ăn ở với vợ, nàng thụ thai và sinh ra Ê-nóc. Lúc đó Ca-in xây một thành đặt tên là Ê-nóc theo tên con mình. 18 Ê-nóc sinh ra một con tên Y-rát, Y-rát sinh ra một con tên Mê-hu-gia-ên, Mê-hu-gia-ên sinh ra một con tên Mê-tu-sa-ên, Mê-tu-sa-ên sinh ra một con tên La-méc.

19 La-méc cưới hai vợ, một người tên A-đa, người kia tên Xi-la. 20 A-đa sinh Gia-banh, là người đầu tiên sống trong các lều trại và nuôi gia súc. 21 Em của Gia-banh tên Giu-banh, người đầu tiên chơi đờn cầm và sáo. 22 Xi-la sinh Tu-banh Ca-in, người làm các dụng cụ bằng đồng và sắt. Em gái Tu-banh Ca-in là Na-a-ma.

23 La-méc bảo hai vợ mình rằng:

“A-đa và Xi-la hãy nghe đây!
    Các vợ của La-méc hãy lắng nghe lời ta nói.
Ta đã giết một người vì gây thương tích cho ta.
    Đó là một thanh niên đã đánh ta.
24 Nếu kẻ giết Ca-in bị phạt bảy lần
    thì kẻ giết La-méc sẽ bị phạt.”

A-đam và Ê-va sinh thêm con nữa

25 A-đam lại ăn ở với vợ là Ê-va, nàng sinh một con trai đặt tên là Sết [f]. Ê-va bảo, “Thượng Đế đã ban cho tôi một con trai nữa thế cho A-bên mà Ca-in đã giết.” 26 Sết sinh ra một con trai đặt tên là Ê-nóc. Từ đó người ta bắt đầu thờ lạy CHÚA [g].

Gia phổ của gia đình A-đam

Sau đây là gia phổ của A-đam. Khi Thượng Đế dựng nên loài người, Ngài tạo dựng họ giống như hình ảnh của Ngài. Ngài dựng nên người đàn ông và đàn bà. Ngày đó Ngài ban phúc cho họ và gọi họ là loài người.

Khi A-đam được 130 tuổi thì sinh một con trai nữa giống mình và đặt tên là Sết. Sau khi Sết ra đời thì A-đam sống thêm 800 năm nữa, sinh con trai con gái. Vậy A-đam sống được 930 tuổi, rồi qua đời.

Khi Sết được 105 tuổi thì sinh một con trai tên Ê-nóc. Sau khi Ê-nóc sinh ra, Sết sống thêm 807 năm nữa, người sinh con trai con gái. Vậy Sết sống được 912 năm rồi qua đời.

Lúc Ê-nóc được 90 tuổi thì sinh một con trai tên Kê-nan. 10 Sau khi Kê-nan ra đời, Ê-nóc sống thêm 815 năm nữa, sinh con trai con gái. 11 Vậy Ê-nóc sống được 905 tuổi rồi qua đời.

12 Khi Kê-nan được 70 tuổi thì sinh một con trai tên Ma-ha-la-lên. 13 Sau khi Ma-ha-la-lên ra đời, Kê-nan sống thêm 840 năm nữa sinh con trai con gái. 14 Vậy Kê-nan sống được 910 tuổi rồi qua đời.

15 Khi Ma-ha-la-lên được 65 tuổi thì sinh một con trai đặt tên là Gia-rết. 16 Sau khi sinh Gia-rết, Ma-ha-la-lên sống thêm 830 năm nữa, sinh con trai con gái. 17 Vậy Ma-ha-la-lên sống được 895 tuổi rồi qua đời.

18 Khi Gia-rết được 162 tuổi sinh một con trai tên Ê-nóc. 19 Sau khi sinh Ê-nóc, Gia-rết sống được 800 năm nữa sinh con trai con gái. 20 Vậy Gia-rết sống được 962 tuổi rồi qua đời.

21 Khi được 65 tuổi, Ê-nóc sinh ra một con trai tên Mê-tu-sê-la. 22 Sau khi Mê-tu-sê-la ra đời, Ê-nóc đồng đi với Thượng Đế trong 130 năm, ông sinh con trai con gái. 23 Vậy Ê-nóc sống được 365 năm. 24 Ê-nóc đi với Thượng Đế; không ai thấy ông nữa vì Thượng Đế đã mang ông đi [h].

25 Khi được 187 tuổi, Mê-tu-sê-la sinh một con trai tên La-méc. 26 Sau khi La-méc ra đời, Mê-tu-sê-la sống thêm 782 năm nữa, sinh con trai con gái. 27 Vậy Mê-tu-sê-la sống được tổng cộng 969 tuổi rồi qua đời.

28 Khi được 182 tuổi, La-méc sinh một con trai 29 đặt tên là Nô-ê [i] và nói rằng, “Đứa con nầy sẽ an ủi chúng ta trong công việc nhọc nhằn khi cày bừa, vì đất đã bị CHÚA nguyền rủa.”

30 Sau khi Nô-ê ra đời, La-méc sống thêm 595 năm nữa, sinh con trai con gái. 31 Vậy La-méc hưởng thọ tổng cộng 777 tuổi rồi qua đời.

32 Khi được 500 tuổi, Nô-ê sinh Sem, Cham và Gia-phết.

Con người trở nên độc ác

Dân số trên đất càng ngày càng tăng, con gái sinh ra cũng nhiều. Khi các con trai Thượng Đế thấy các cô gái đó xinh đẹp thì chọn làm vợ.

CHÚA phán, “Thần linh ta sẽ không thể nào ở cùng [j] loài người mãi được vì loài người chỉ là xác thịt. Chúng nó chỉ sống đến 120 tuổi thôi.”

Dân Nê-phi-lim sống trên đất trong thời kỳ đó và những thời kỳ sau. Đó là thời kỳ mà con trai Thượng Đế ăn ở với con gái loài người và sinh ra con cái. Chúng nổi tiếng và trở thành những chiến sĩ anh dũng thời xưa.

CHÚA thấy loài người trên đất rất độc ác, còn tư tưởng của họ lúc nào cũng xấu xa. Ngài hối hận đã dựng ra con người trên đất, nên rất buồn lòng. CHÚA bảo, “Ta sẽ tiêu diệt loài người mà ta đã tạo dựng trên đất. Ta sẽ tiêu diệt mọi loài thú vật và mọi loài bò sát, mọi loài chim trời, vì ta rất hối hận đã tạo dựng ra chúng.” Nhưng Nô-ê sống đẹp lòng CHÚA.

Nô-ê và trận lụt lớn

Sau đây là gia phổ của Nô-ê. Nô-ê là người nhân đức, chân thật nhất trong thời đại ông. Nô-ê đồng đi với Thượng Đế. 10 Ông có ba con trai: Sem, Cham và Gia-phết.

11 Dân cư trên đất làm những điều Thượng Đế cho là độc ác. Đâu đâu cũng thấy điều bạo ngược. 12 Khi Thượng Đế thấy loài người đã làm hư hoại đất vì họ chỉ chuyên làm ác,

13 thì Ngài phán cùng Nô-ê rằng, “Vì đất đã đầy dẫy điều bạo ngược do con người tạo ra, nên ta sẽ tiêu diệt mọi sinh vật khỏi đất. 14 Con hãy đóng một chiếc tàu bằng gỗ bách [k] cho con. Hãy làm nhiều phòng trong tàu rồi lấy nhựa chai trét bên trong và bên ngoài. 15 Tàu sẽ có kích thước như sau: dài 150 thước, rộng 25 thước, cao 15 thước. 16 Hãy làm một cửa sổ quanh nóc tàu cao 5 tấc tính từ mép của nóc xuống. Trổ một cửa lớn bên hông tàu. Bên trong tàu chia làm ba từng: từng trên, từng giữa và từng dưới.

17 Ta sẽ mang nước lụt đến trên đất để tiêu diệt tất cả các sinh vật sống dưới bầu trời, toàn thể các sinh vật có hơi sống. Mọi loài trên đất đều sẽ chết hết. 18 Nhưng ta sẽ lập giao ước với con. Các con trai con, vợ con, các nàng dâu con sẽ đi vào tàu. 19 Ngoài ra con phải mang vào tàu mỗi sinh vật một cặp, trống và mái. Hãy nuôi sống các loài ấy. 20 Loài chim, thú vật, động vật bò sát, mỗi loài một cặp sẽ đến với con để sống còn.

21 Con cũng phải thu góp các loại thực phẩm để dự trữ trên tàu dùng làm thức ăn cho con và các loài sinh vật.”

22 Nô-ê làm đúng theo lời Thượng Đế truyền dặn.

Trận lụt lớn bắt đầu

Sau đó CHÚA bảo Nô-ê, “Ta nhận thấy con là người tốt nhất trong thời đại nầy, nên con và cả gia đình hãy đi vào tàu. Mỗi loài thú sạch, hãy mang theo bảy cặp, mỗi loại một đực một cái; còn thú không sạch thì mang theo một cặp, một đực một cái. Loài chim trời thì đem theo bảy cặp, một trống một mái, để cho các loài nầy tồn tại trên đất sau khi trận lụt chấm dứt. Bảy hôm nữa ta sẽ cho mưa xuống đất. Mưa sẽ đổ xuống trong bốn mươi ngày bốn mươi đêm. Ta sẽ tiêu diệt khỏi mặt đất tất cả mọi sinh vật mà ta đã dựng nên.” Nô-ê làm đúng theo như lời CHÚA truyền dặn.

Khi trận lụt xảy ra thì Nô-ê được sáu trăm tuổi. Nô-ê và vợ cùng các con trai và con dâu đi vào tàu để tránh nước lụt. Các loài thú sạch, không sạch, các loài chim và các loài bò sát đều đi đến cùng Nô-ê để vào tàu từng cặp, trống mái, đực cái theo như Thượng Đế truyền dặn ông. 10 Bảy ngày sau đó nước lụt tràn tới.

11 Nước lụt xảy ra khi Nô-ê được sáu trăm tuổi. Ngày mười bảy tháng hai năm đó, các suối ngầm sâu dưới biển vỡ ra, các cổng chận nước trên trời mở ra, đổ mưa ào xuống. 12 Mưa lũ đổ xuống ròng rã bốn mươi ngày bốn mươi đêm. 13 Ngày hôm ấy Nô-ê, vợ, các con trai: Sem, Cham và Gia-phết, cùng các người vợ của họ, đi vào tàu. 14 Các loại thú hoang và gia súc, các động vật bò sát cùng các loại chim đều đi vào tàu. 15 Các sinh vật có hơi sống đều đi đến cùng Nô-ê, vào tàu từng cặp một. 16 Mỗi cặp thú vật gồm một trống một mái, một đực một cái đều đến theo như Thượng Đế truyền dặn Nô-ê. Rồi CHÚA đóng cửa tàu lại.

17 Nước ngập mặt đất trong bốn mươi ngày. Khi nước dâng thì nâng bổng tàu lên khỏi mặt đất. 18 Mực nước tiếp tục dâng lên, con tàu nổi trên nước khỏi mặt đất. 19 Nước dâng cao đến nỗi các ngọn núi cao nhất dưới bầu trời cũng bị phủ lấp. 20 Nước dâng cao hơn các đỉnh núi đến bảy thước.

21 Mọi loài bò sát đều chết hết kể cả các loài chim, các loài gia súc, loài dã thú, các sinh vật tràn đầy mặt đất và luôn cả loài người nữa. 22 Thế là mọi loài có hơi sống trên mặt đất đều chết hết. 23 Thượng Đế tiêu diệt các sinh vật khỏi mặt đất: Loài người, thú vật, bò sát, chim trời. Chỉ có Nô-ê và những loài nào cùng ở với ông trong tàu là còn sống thôi. 24 Nước ngập phủ đất trong 150 ngày.

Footnotes

  1. Sáng Thế 4:1 Ca-in Từ nầy trong tiếng Hê-bơ-rơ nghe như “Tôi đã sinh đẻ.”
  2. Sáng Thế 4:3 mang những con tốt nhất Nghĩa đen, “Người chọn vài con chiên đầu lòng, nhất là phần mỡ của chúng.”
  3. Sáng Thế 4:7 tội lỗi … con đó Hay “nếu con không làm điều phải thì tội lỗi đang ngồi chờ nơi cửa của con. Nó muốn bắt con nhưng con phải thắng nó.”
  4. Sáng Thế 4:8 Chúng mình … đồng đi Câu “Chúng ta hãy ra ngoài đồng đi” không có trong các bản cổ Hê-bơ-rơ nhưng có trong các bản cổ Hi-lạp hay A-ram và trong các sách của người Xa-ma-ri.
  5. Sáng Thế 4:16 Nót Từ nầy trong tiếng Hê-bơ-rơ nghe như “đi lang thang.”
  6. Sáng Thế 4:25 Sết Từ nầy trong tiếng Hê-bơ-rơ nghe như “cho.”
  7. Sáng Thế 4:26 Từ đó … thờ lạy CHÚA Nguyên văn, “người ta bắt đầu kêu cầu danh Gia-vê.”
  8. Sáng Thế 5:24 Ê-nóc … ông đi Hay “Ê-nóc sống vừa lòng Chúa. Ê-nóc biến mất vì Thượng Đế mang ông đi.”
  9. Sáng Thế 5:29 Nô-ê Chữ nầy trong tiếng Hê-bơ-rơ nghe như “nghỉ ngơi.”
  10. Sáng Thế 6:3 ở cùng Hay “cạnh tranh với” hoặc “thi đua với.”
  11. Sáng Thế 6:14 gỗ bách Nguyên văn, “gỗ cây Gô-phe.” Không rõ đây là loại cây gì.

Ca-in Giết A-bên

A-đam biết Ê-va vợ ông; bà thọ thai và sinh Ca-in. Bà nói, “Nhờ Chúa giúp đỡ, tôi đã sinh được một người.” Sau đó bà sinh A-bên em trai Ca-in. A-bên làm nghề chăn chiên, còn Ca-in làm nghề nông. Một ngày kia Ca-in đem dâng lên Chúa hoa quả của ruộng vườn do ông canh tác. Về phần A-bên, ông dâng các con chiên đầu lòng trong bầy của ông cùng với mỡ của chúng. Chúa đoái đến A-bên và nhậm lễ vật của ông, nhưng Ngài không đoái đến Ca-in và lễ vật của ông ấy. Vì thế Ca-in rất giận và gằm nét mặt. Chúa phán với Ca-in, “Tại sao ngươi giận, và tại sao ngươi gằm nét mặt? Nếu ngươi có thái độ tốt, Ta há không nhậm lễ vật của ngươi sao? Còn nếu ngươi có thái độ không tốt, tội lỗi đang nằm rình trước cửa ngươi. Nó đang thèm ngươi, nhưng ngươi phải chế ngự nó.”

Ca-in nói với A-bên em ông, “Chúng ta hãy ra ngoài đồng.”[a] Ðang khi hai người ở ngoài đồng Ca-in xông vào A-bên em ông và giết chết ông ấy. Chúa hỏi Ca-in, “A-bên, em ngươi đâu?”

Ông đáp, “Tôi không biết; bộ tôi là người giữ em tôi sao?”

10 Chúa phán, “Ngươi đã làm gì? Tiếng của máu em ngươi từ dưới đất kêu thấu đến Ta. 11 Bây giờ đất sẽ nguyền rủa ngươi, đất đã mở miệng nhận lấy máu của em ngươi do tay ngươi làm đổ ra. 12 Khi ngươi canh tác, đất sẽ không sinh hoa lợi cho ngươi nữa. Ngươi sẽ thành một kẻ trốn tránh và một kẻ đi lang thang khắp đất.”

13 Ca-in thưa với Chúa, “Hình phạt dành cho tôi nặng quá, tôi mang không nổi! 14 Ngày nay Ngài đuổi tôi ra khỏi xứ nầy. Tôi sẽ phải trốn khỏi mặt Ngài suốt đời. Tôi phải làm một kẻ trốn tránh và kẻ đi lang thang khắp đất; rồi nếu ai gặp tôi, người ấy có thể giết tôi.”

15 Chúa phán với ông, “Không đâu. Nếu ai giết Ca-in, kẻ ấy sẽ bị báo thù bảy lần.” Chúa đánh dấu trên người Ca-in, để ai gặp ông sẽ không giết ông. 16 Ca-in ra đi khỏi mặt Chúa và định cư ở xứ Nốt,[b] về phía đông của Ê-đen.

Nền Văn Minh Cổ Ðại

17 Ca-in biết vợ ông; nàng thọ thai và sinh Ê-nóc. Ca-in xây một thành và đặt tên là Ê-nóc, theo tên của Ê-nóc con trai ông. 18 Ê-nóc sinh một con trai tên I-rát. I-rát sinh Mê-hu-gia-ên. Mê-hu-gia-ên sinh Mê-thu-sa-ên. Mê-thu-sa-ên sinh La-méc. 19 La-méc cưới hai vợ, một bà tên A-đa, còn bà kia tên Xinh-la. 20 A-đa sinh Gia-banh. Ông ấy là tổ phụ của những người sống trong lều trại và chăn bầy súc vật. 21 Em trai ông ấy tên Giu-banh. Ông nầy là tổ phụ của những người đánh đàn và thổi kèn. 22 Xinh-la sinh Tu-banh Ca-in, người chế tạo các dụng cụ bằng đồng và bằng sắt. Em gái của Tu-banh Ca-in là Na-a-ma. 23 La-méc nói với hai vợ của ông,

“Hỡi A-đa và Xinh-la, hãy nghe anh nói;
Nầy, hai vợ của La-méc, hãy nghe lời anh trình bày,
Anh đã giết một người gây cho anh bị thương,
Tức một người trai trẻ đã đánh anh.
24 Nếu Ca-in được báo thù bảy lần,
La-méc sẽ được báo thù bảy mươi bảy lần.”

25 A-đam biết vợ ông nữa; bà sinh cho ông một con trai và đặt tên là Sết, vì bà nói, “Ðức Chúa Trời đã cho tôi một con trai khác, để thay thế A-bên, vì nó đã bị Ca-in giết.” 26 Sết cũng sinh một con trai, ông đặt tên con trai ông là Ê-nốt. Ðến lúc ấy người ta mới bắt đầu kêu cầu danh Chúa.

Dòng Dõi A-đam Ðến Ðời Con Cháu Nô-ê

Ðây là gia phả của dòng dõi A-đam. Khi Ðức Chúa Trời dựng nên loài người, Ngài dựng nên họ theo hình ảnh của Ðức Chúa Trời. Ngài dựng nên người nam và người nữ. Ngài ban phước cho họ, và trong ngày Ngài dựng nên họ, Ngài gọi họ là “Loài Người.”[c]

Khi A-đam sống được một trăm ba mươi tuổi, ông sinh một con trai, hình dạng giống như ông, gương mặt giống hệt ông; ông đặt tên cho con trai đó là Sết. Sau khi sinh Sết, A-đam sống thêm tám trăm năm, sinh các con trai và các con gái. Như vậy A-đam hưởng thọ chín trăm ba mươi tuổi, rồi qua đời.

Khi Sết sống được một trăm lẻ năm tuổi, ông sinh Ê-nốt. Sau khi sinh Ê-nốt, Sết sống thêm tám trăm lẻ bảy năm, sinh các con trai và các con gái. Như vậy Sết hưởng thọ chín trăm mười hai tuổi, rồi qua đời.

Khi Ê-nốt sống được chín mươi tuổi, ông sinh Kê-nan. 10 Sau khi sinh Kê-nan, Ê-nốt sống thêm tám trăm mười lăm năm, sinh các con trai và các con gái. 11 Như vậy Ê-nốt hưởng thọ chín trăm lẻ năm tuổi, rồi qua đời.

12 Khi Kê-nan sống được bảy mươi tuổi, ông sinh Ma-ha-la-lên. 13 Sau khi Kê-nan sinh Ma-ha-la-lên, ông sống thêm tám trăm bốn mươi năm, sinh các con trai và các con gái. 14 Như vậy Kê-nan hưởng thọ chín trăm mười tuổi, rồi qua đời.

15 Khi Ma-ha-la-lên sống được sáu mươi lăm tuổi, ông sinh Gia-rết. 16 Sau khi sinh Gia-rết, Ma-ha-la-lên sống thêm tám trăm ba mươi năm, sinh các con trai và các con gái. 17 Như vậy Ma-ha-la-lên hưởng thọ tám trăm chín mươi lăm tuổi, rồi qua đời.

18 Khi Gia-rết sống được một trăm sáu mươi hai tuổi, ông sinh Ê-nóc. 19 Sau khi sinh Ê-nóc, Gia-rết sống thêm tám trăm năm, sinh các con trai và các con gái. 20 Như vậy Gia-rết hưởng thọ chín trăm sáu mươi hai tuổi, rồi qua đời.

21 Khi Ê-nóc sống được sáu mươi lăm tuổi, ông sinh Mê-thu-sê-la. 22 Sau khi sinh Mê-thu-sê-la, Ê-nóc đi với Ðức Chúa Trời trong ba trăm năm, và sinh các con trai và các con gái. 23 Như vậy Ê-nóc sống ở đời chỉ ba trăm sáu mươi lăm năm. 24 Ê-nóc đi với Ðức Chúa Trời, rồi biệt tích, vì Ðức Chúa Trời đã cất ông đi.

25 Khi Mê-thu-sê-la sống được một trăm tám mươi bảy tuổi, ông sinh La-méc. 26 Sau khi sinh La-méc, Mê-thu-sê-la sống thêm bảy trăm tám mươi hai năm, sinh các con trai và các con gái. 27 Như vậy Mê-thu-sê-la hưởng thọ chín trăm sáu mươi chín tuổi, rồi qua đời.

28 Khi La-méc sống được một trăm tám mươi hai tuổi, ông sinh một con trai. 29 Ông đặt tên cho con trai đó là Nô-ê và bảo rằng, “Từ trong đất đã bị Chúa nguyền rủa, đứa trẻ nầy sẽ đem đến chúng ta niềm an ủi cho công lao khó nhọc của chúng ta và cho công sức vất vả của đôi tay chúng ta.” 30 Sau khi sinh Nô-ê, La-méc sống thêm năm trăm chín mươi lăm năm, sinh các con trai và các con gái. 31 Như vậy La-méc hưởng thọ bảy trăm bảy mươi bảy tuổi, rồi qua đời.

32 Còn Nô-ê, khi được năm trăm tuổi, Nô-ê sinh Sem, Cham, và Gia-phết.

Tội Lỗi của Nhân Loại

Khi ấy loài người bắt đầu gia tăng nhiều trên mặt đất; họ sinh các con gái. Các con trai Ðức Chúa Trời[d] thấy các con gái loài người xinh đẹp; họ thích cô nào, họ lấy cô ấy làm vợ. Bấy giờ Chúa phán, “Thần linh Ta sẽ không ở trong loài người mãi mãi nữa, vì chúng chỉ là loài xác thịt. Ðời chúng sẽ chỉ chừng một trăm hai mươi tuổi mà thôi.”

Thuở ấy trên mặt đất có những người khổng lồ,[e] về sau vẫn còn có những người ấy, vì khi các con trai Ðức Chúa Trời đến với các con gái loài người, các bà ấy sinh con cho họ. Ðó là những anh hùng thời xưa, những người nổi danh một thời.

Bấy giờ Chúa thấy tội ác của loài người quá nhiều trên mặt đất. Lòng người nào cũng mải mê toan tính những chuyện xấu xa tội lỗi. Chúa lấy làm ân hận vì đã dựng nên loài người trên mặt đất. Lòng Ngài buồn bã âu sầu. Vì thế Chúa phán, “Ta sẽ xóa sạch loài người Ta đã dựng nên khỏi mặt đất – loài người, loài súc vật, loài bò sát, và luôn cả loài chim bay trên trời. Ta lấy làm ân hận vì đã dựng nên chúng.” Nhưng Nô-ê lại được ơn trước mặt Chúa.

Ðức Chúa Trời Ra Lịnh cho Nô-ê

Ðây là dòng dõi của Nô-ê. Nô-ê là một người công chính; so với những người đồng thời với ông, ông là một người trọn vẹn. Nô-ê bước đi với Ðức Chúa Trời. 10 Nô-ê sinh được ba con trai là Sem, Cham, và Gia-phết.

11 Khi ấy thế giới đã trở nên băng hoại trước mặt Ðức Chúa Trời, và mặt đất đầy dẫy những bạo ngược. 12 Ðức Chúa Trời nhìn vào thế giới, này, nó đã băng hoại quá mức, và đường lối của mọi loài xác thịt đều sa đọa trên mặt đất. 13 Ðức Chúa Trời phán với Nô-ê, “Ta quyết định xóa sạch mọi loài xác thịt, vì do chúng mà đất đã dẫy đầy bạo ngược. Nầy, Ta sẽ xóa sạch chúng cùng với những gì trên mặt đất. 14 Hãy đóng cho ngươi một chiếc tàu bằng gỗ trét nhựa chai. Hãy đóng chiếc tàu có nhiều phòng, rồi lấy nhựa đen trét cả trong lẫn ngoài. 15 Hãy đóng chiếc tàu ấy như thế nầy: chiều dài của tàu một trăm năm mươi mét,[f] chiều rộng hai mươi lăm mét,[g] và chiều cao mười lăm mét.[h] 16 Hãy làm một cái mui cao nửa mét[i] phủ lên trên. Ngươi hãy đặt cửa tàu ở bên hông. Ngươi hãy đóng cho tàu có tầng dưới, tầng giữa, và tầng trên. 17 Còn Ta, Ta sẽ đem nước lụt đến phủ trên mặt đất, để xóa sạch mọi loài xác thịt có hơi thở ở dưới trời; rồi mọi loài trên mặt đất sẽ chết hết. 18 Nhưng Ta sẽ lập một giao ước với ngươi. Ngươi sẽ vào tàu – ngươi, các con trai ngươi, vợ ngươi, và vợ của các con trai ngươi. 19 Ngươi sẽ mang vào tàu các sinh vật của mọi loài xác thịt, mỗi thứ một cặp, để giữ chúng được sống còn với ngươi; mỗi thứ phải có một con đực và một con cái. 20 Các chim trời tùy theo loại, các súc vật tùy theo loại, các sinh vật bò sát mặt đất tùy theo loại, mỗi thứ hai con sẽ đến với ngươi, để ngươi giữ chúng được sống còn. 21 Ngươi cũng hãy đem theo với ngươi mọi thứ có thể ăn được, để dùng làm thực phẩm. Hãy tích trữ chúng trong tàu. Những thứ ấy sẽ được dùng làm thực phẩm cho ngươi và cho các sinh vật ấy.” 22 Nô-ê làm y như vậy. Ông làm theo mọi điều Ðức Chúa Trời đã truyền cho ông.

Cơn Ðại Hồng Thủy

Bấy giờ Chúa truyền cho Nô-ê, “Ngươi hãy vào tàu, ngươi và mọi người trong gia đình ngươi, vì Ta thấy rằng giữa thế hệ nầy chỉ có ngươi là ngay lành trước mặt Ta. Hãy đem theo ngươi bảy cặp mọi thứ thú vật thanh sạch, có đực có cái; còn những thú vật không thanh sạch mỗi thứ một cặp, có đực có cái. Các chim trời cũng vậy, mỗi thứ bảy cặp, có trống có mái, để bảo tồn mạng sống của chúng trên khắp mặt đất. Vì trong bảy ngày nữa Ta sẽ cho mưa xuống đất trong bốn mươi ngày và bốn mươi đêm, rồi Ta sẽ xóa sạch khỏi mặt đất mọi sinh vật Ta đã dựng nên.” Nô-ê làm theo mọi điều Chúa đã truyền cho ông.

Nô-ê được sáu trăm tuổi khi nước lụt tràn trên mặt đất. Nô-ê với các con trai ông, vợ ông, và vợ của các con trai ông đều vào trong tàu để tránh lụt. Các thú vật thanh sạch, các thú vật không thanh sạch, các chim trời, và mọi sinh vật bò sát trên đất, từng đôi từng cặp, đực và cái, cùng vào tàu với Nô-ê, như Ðức Chúa Trời đã truyền cho Nô-ê. 10 Sau bảy ngày, nước lụt bắt đầu tuôn tràn trên mặt đất.

11 Vào ngày mười bảy, tháng hai, năm sáu trăm của đời Nô-ê, trong chính ngày ấy, mọi nguồn nước của các đại vực thẳm vỡ tung, các cửa sổ trên trời mở toang. 12 Mưa tuôn đổ xuống đất bốn mươi ngày và bốn mươi đêm. 13 Trong chính ngày ấy, Nô-ê cùng các con trai ông là Sem, Cham, và Gia-phết, vợ của Nô-ê, và ba người vợ của các con trai ông vào trong tàu. 14 Họ và mọi thứ thú rừng tùy theo loại, mọi thứ gia súc tùy theo loại, mọi thứ sinh vật bò sát mặt đất tùy theo loại, mọi thứ chim trời tùy theo loại, tức mọi thứ chim và mọi loài vật có cánh. 15 Mọi loài xác thịt có sinh khí đều vào trong tàu với Nô-ê, từng đôi từng cặp. 16 Sau khi tất cả sinh vật của mọi loài xác thịt, có đực có cái, đã vào trong tàu, theo như Ðức Chúa Trời đã truyền cho Nô-ê, Chúa đóng cửa tàu lại, để ông ở bên trong.

17 Nước lụt tuôn đổ liên tục bốn mươi ngày trên đất. Mặt nước dâng cao, nâng chiếc tàu lên, khiến tàu nổi cao trên mặt đất. 18 Mặt nước cứ tiếp tục dâng cao và gia tăng nhiều vô kể trên đất. Chiếc tàu nổi bồng bềnh trên mặt nước. 19 Nước cứ tiếp tục dâng cao khủng khiếp trên đất, đến nỗi tất cả các ngọn núi cao ở dưới trời đều bị nước phủ ngập. 20 Nước dâng cao hơn các ngọn núi, khiến chúng chìm sâu bảy mét rưỡi[j] dưới mặt nước. 21 Mọi loài xác thịt di động trên đất đều chết hết, nào chim trời, gia súc, thú rừng, mọi sinh vật bò lúc nhúc trên đất, và mọi người. 22 Tất cả loài vật sống trên cạn và có sinh khí trong lỗ mũi đều chết hết. 23 Ngài xóa sạch mọi sinh vật trên mặt đất, từ loài người đến thú vật, từ loài bò sát đến các giống chim bay trên trời. Chúng thảy đều bị xóa sạch khỏi mặt đất, chỉ còn lại Nô-ê cùng những người và những thú vật ở trong tàu với ông. 24 Mặt nước cứ dâng cao trên đất như vậy suốt một trăm năm mươi ngày.

Footnotes

  1. Sáng Thế 4:8 Các bản sao cổ có câu nầy, MT không có
  2. Sáng Thế 4:16 Nốt trong Hebrew có nghĩa là Lang Thang
  3. Sáng Thế 5:2 nt: A-đam
  4. Sáng Thế 6:2 ctd: các con trai của các thần
  5. Sáng Thế 6:4 nt: nephilim
  6. Sáng Thế 6:15 nt: 300 cubits
  7. Sáng Thế 6:15 nt: 50 cubits
  8. Sáng Thế 6:15 nt: 30 cubits
  9. Sáng Thế 6:16 nt: 1 cubit
  10. Sáng Thế 7:20 nt: 15 cubits