Add parallel Print Page Options

Gia đình của Áp-ra-ham

25 Áp-ra-ham lại cưới vợ và kết hôn với Kê-tu-ra. Bà sinh ra Xim-ran, Giốc-san, Mê-đan, Mi-đi-an, Ích-bát, và Su-a. Giốc-san sinh ra Sê-ba và Đê-đan. Dòng dõi của Đê-đan là các dân A-xy-ri, Lê-úc, và Lê-um. Các con của Mi-đi-an là Ê-pha, Ê-phe, Ha-nốc, A-bi-đa, và Ên-đa-a. Tất cả những người đó là dòng dõi của Kê-tu-ra. Áp-ra-ham để lại tất cả tài sản của mình cho Y-sác. Tuy nhiên trước khi qua đời, Áp-ra-ham có chia ít tài sản cho các con của các bà vợ khác rồi cho họ đi qua cư ngụ vùng phía đông, xa khỏi Y-sác.

Áp-ra-ham hưởng thọ 175 tuổi. Ông trút hơi thở cuối cùng và qua đời khi cao tuổi, sau khi sống một cuộc đời mãn nguyện. Các con trai ông là Y-sác và Ích-ma-ên chôn cất ông trong hang Mặc-bê-la trong ruộng của Ép-rôn nằm về phía đông Mam-rê. (Ép-rôn là con của Xô-ha, người Hê-tít.) 10 Áp-ra-ham được chôn cất chung chỗ với Sa-ra, trong cùng thửa ruộng mà ông đã mua từ người Hê-tít. 11 Sau khi Áp-ra-ham qua đời, Thượng Đế ban phước cho con ông là Y-sác. Lúc ấy Y-sác đang sống ở Bê-e La-chai-roi.

12 Sau đây là gia phổ của Ích-ma-ên, con của Áp-ra-ham và Ha-ga (người Ai-Cập, nữ nô lệ của Sa-ra). 13 Tên của các con Ích-ma-ên theo thứ tự sinh ra như sau: Nê-bai-ốt là con trưởng nam, rồi đến Kê-đa, Át-bê-ên, Míp-sam, 14 Mích-ma, Đu-ma, Ma-xa, 15 Ha-đát, Thê-ma, Giê-tua, Na-phích và Kê-đê-ma. 16 Đó là mười hai con trai của Ích-ma-ên và là trưởng tộc. Gia tộc của mỗi người con đều có nơi định cư và địa điểm đóng trại riêng. 17 Ích-ma-ên hưởng thọ một trăm ba mươi bảy tuổi khi trút hơi thở cuối cùng. Ông qua đời và được mai táng. 18 Dòng dõi của người sống trong vùng từ Ha-vi-la cho đến Su-rơ về phía đông Ai-cập kéo dài đến xứ A-xy-ri. Họ thường định cư gần các anh em mình [a].

Gia đình Y-sác

19 Sau đây là dòng dõi Y-sác. Áp-ra-ham sinh một con trai tên Y-sác. 20 Khi Y-sác được 40 tuổi thì kết hôn với Rê-be-ca, người miền Tây Bắc Mê-sô-bô-ta-mi. Nàng là con gái Bê-thu-ên, người A-ram, và là em của La-ban, cũng người A-ram. 21 Vợ của Y-sác không có con nên ông khẩn nguyện cùng CHÚA. Ngài nghe lời khẩn xin của ông, nên Rê-be-ca thụ thai.

22 Khi Rê-be-ca đang mang thai, hai đứa bé trong bụng tranh giành nhau. Nàng hỏi, “Tại sao chuyện nầy lại xảy ra cho tôi?” Nàng cầu nguyện cùng CHÚA thì nhận được lời đáp của Ngài. 23 CHÚA cho nàng biết,

“Hai quốc gia ở trong bụng con,
    hai đám dân sẽ do con mà ra.
Một dân sẽ mạnh hơn dân kia,
    đứa anh sẽ làm tôi cho đứa em.”

24 Đến kỳ Rê-be-ca đẻ sinh đôi. 25 Đứa đầu tiên lọt lòng có màu da đỏ. Vì đa nó màu đỏ hung hung cho nên được đặt tên là Ê-sau [b]. 26 Khi đứa thứ nhì sinh ra thì nó nắm gót chân Ê-sau, nên được đặt tên là Gia-cốp [c]. Lúc hai đứa bé sinh ra, Y-sác đã được 60 tuổi.

27 Lớn lên, Ê-sau trở thành tay thợ săn giỏi, thích ở ngoài đồng. Còn Gia-cốp thì trầm lặng hơn, chỉ hay quanh quẩn bên lều trại. 28 Y-sác yêu Ê-sau vì anh hay mang thịt rừng về. Nhưng Rê-be-ca lại yêu Gia-cốp hơn.

29 Một hôm Gia-cốp đang nấu một món canh. Ê-sau đi săn từ đồng về đói bụng. 30 Ê-sau hỏi Gia-cốp, “Cho anh ăn ít canh đỏ đó đi vì anh đang đói lả.” (Vì thế mà người ta gọi Ê-sau là Ê-đôm. [d])

31 Nhưng Gia-cốp bảo, “Anh hãy bán quyền trưởng nam của anh cho tôi đi!”

32 Ê-sau đáp, “Anh sắp chết đói đây rồi. Anh mà chết thì quyền trưởng nam cũng vô dụng thôi.”

33 Nhưng Gia-cốp bảo, “Anh phải hứa anh sẽ trao quyền tài sản cho tôi trước đã.” Vì thế Ê-sau hứa với Gia-cốp và trao quyền trưởng nam Gia-cốp. 34 Rồi Gia-cốp cho Ê-sau ăn bánh mì và canh đậu. Ăn uống xong, ông ra đi. Ê-sau coi thường quyền trưởng nam của mình.

Y-sác gạt A-bi-mê-léc

26 Lúc đó trong xứ có cơn đói kém ngoài cơn đói kém xảy ra trong đời Áp-ra-ham. Cho nên Y-sác đi xuống thành Ghê-ra thăm A-bi-mê-léc vua dân Phi-li-tin. CHÚA hiện ra cùng Y-sác bảo rằng, “Đừng đi xuống Ai-cập nhưng hãy sống trong xứ ta bảo con. Hãy ở trong xứ nầy, ta sẽ ở cùng và ban phước cho con. Ta sẽ cho con và dòng dõi con đất nầy. Ta sẽ giữ lời thề ta lập cùng Áp-ra-ham, cha con. Ta sẽ làm cho dòng dõi con đông như sao trên trời không ai đếm được, và ta sẽ ban cho chúng nó đất nầy. Nhờ dòng dõi con mà các dân trên đất sẽ được phước. Ta sẽ thực hiện mọi điều đó, vì cha con là Áp-ra-ham đã vâng lời ta. Người đã làm theo điều ta bảo, vâng theo mệnh lệnh cùng lời giáo huấn và giữ luật lệ ta.”

Vậy Y-sác cư ngụ tại Ghê-ra. Rê-be-ca, vợ Y-sác rất đẹp cho nên các người đàn ông ở đó trầm trồ với Y-sác về nàng. Y-sác bảo, “Cô đó là em gái tôi.” Ông sợ không dám nói nàng là vợ mình, vì ngại rằng họ sẽ giết mình để đoạt nàng.

Y-sác sống ở vùng đó khá lâu. Một ngày kia A-bi-mê-léc, vua dân Phi-li-tin nhìn qua cửa sổ thấy Y-sác đang âu yếm Rê-be-ca. A-bi-mê-léc gọi Y-sác hỏi, “Cô nầy là vợ anh, tại sao anh lại bảo là em gái?”

Y-sác đáp, “Tôi sợ rằng vua sẽ giết tôi để đoạt nàng.”

10 A-bi-mê-léc tiếp, “Ngươi đã làm gì cho chúng tôi vậy? Vì một người trong chúng tôi có thể ăn nằm với nàng, rồi tất cả chúng tôi đều mang trọng tội.”

11 A-bi-mê-léc liền cảnh cáo mọi người, “Ai đụng đến người nầy hay vợ người sẽ bị xử tử.”

Y-sác trở nên giàu có

12 Y-sác trồng trọt trong vùng đó, và năm ấy ông trúng mùa. Thượng Đế ban phước cho ông rất nhiều, 13 nên ông trở nên giàu có. Ông tạo ra nhiều của cải đến nỗi trở nên giàu sụ. 14 Y-sác có nhiều nô lệ và gia súc nên người Phi-li-tin ganh tức với ông. 15 Chúng lấp các giếng nước mà những tôi tớ của Áp-ra-ham, cha Y-sác, đã đào. Họ đào giếng nầy trong khi Áp-ra-ham còn sống. Người Phi-li-tin lấy đất lấp các giếng ấy lại. 16 A-bi-mê-léc bảo Y-sác, “Thôi, anh hãy ra khỏi xứ chúng tôi đi, vì anh đã trở nên hùng mạnh hơn chúng tôi.”

17 Vì thế Y-sác rời vùng ấy, dựng lều và định cư trong thung lũng Ghê-ra. 18 Trước đó khá lâu Áp-ra-ham đã cho đào nhiều giếng nước, nhưng sau khi ông qua đời người Phi-li-tin lấy đất lấp tất cả các giếng đó. Nên Y-sác cho đào các giếng đó lại và đặt tên như trước đây cha mình đã đặt. 19 Các người đầy tớ Y-sác đào một cái giếng trong thung lũng thì tìm được nước ngọt [e]. 20 Nhưng bọn chăn chiên ở Ghê-ra tranh dành với họ và bảo, “Giếng nầy của tụi tao.” Nên Y-sác gọi giếng đó là Ê-séc [f], vì chúng nó tranh dành với ông.

21 Rồi những người đầy tớ ông đào một giếng khác. Chúng cũng tranh giành nữa, nên Y-sác gọi giếng đó là giếng Sít-na [g].

22 Ông bỏ đó và đào một cái giếng khác nữa. Lần nầy không ai tranh dành, nên ông gọi giếng đó là Rê-hô-bốt [h]. Y-sác bảo, “Bây giờ CHÚA đã dành chỗ cho chúng ta, nên chúng ta sẽ phát đạt trong xứ nầy.”

23 Từ đó Y-sác dời qua Bê-e-sê-ba. 24 Đêm ấy, CHÚA hiện ra cùng ông và bảo, “Ta là Thượng Đế của Áp-ra-ham, cha con. Đừng sợ vì ta ở cùng con. Ta sẽ ban phước và cho con đông con cháu, vì cớ đầy tớ ta là Áp-ra-ham.” 25 Vậy Y-sác xây một bàn thờ và thờ lạy CHÚA tại đó. Ông cũng cho dựng lều tại đây. Các người đầy tớ ông đào một cái giếng.

26 A-bi-mê-léc từ Ghê-ra đến thăm Y-sác. Ông mang theo A-hu-giác, cố vấn của mình và Phi-côn, tư lệnh quân đội.

27 Y-sác hỏi họ, “Các ông đến thăm tôi làm gì? Các ông đã ganh ghét và đuổi tôi ra khỏi xứ các ông rồi mà.”

28 Họ đáp, “Bây giờ chúng tôi biết CHÚA ở cùng anh. Chúng ta hãy thề nguyền cùng nhau và lập ước giữa chúng tôi và anh. 29 Chúng tôi không làm hại gì cho anh, nên anh cũng sẽ không làm hại chúng tôi. Chúng tôi đối xử tốt với anh và để anh đi ra bình yên. Bây giờ CHÚA đã ban phước cho anh.”

30 Y-sác thết đãi họ, mọi người ăn uống vui vẻ. 31 Sáng sớm hôm sau họ thề nguyện cùng nhau. Y-sác tiễn họ lên đường rồi họ ra đi bình yên.

32 Hôm đó các người đầy tớ đến báo cáo về giếng họ đã đào, Họ báo, “Chúng tôi đã thấy nước trong giếng.” 33 Cho nên Y-sác gọi giếng ấy là Si-ba [i] và thành đó gọi là Bê-e-sê-ba cho đến ngày nay.

Ê-sau cưới vợ

34 Khi Ê-sau được 40 tuổi thì lấy hai vợ người Hê-tít tên là Giu-đít con của Bê-e-ri và Bát-sê-ma con của Ê-lôn. 35 Hai nàng dâu đó làm phiền lòng Y-sác và Rê-be-ca không ít.

Footnotes

  1. Sáng Thế 25:18 Họ thường định cư gần các anh em mình Câu nầy cũng có nghĩa “Họ thường tấn công anh em mình.”
  2. Sáng Thế 25:25 Ê-sau Nghĩa là “nhiều lông.”
  3. Sáng Thế 25:26 Gia-cốp Nghĩa là “nắm gót.” Cũng còn có nghĩa là “đứa đi theo sau” hay “ranh mãnh.”
  4. Sáng Thế 25:30 Ê-đôm Nghĩa là “đỏ.”
  5. Sáng Thế 26:19 nước ngọt Hay “một mạch nước ngầm.”
  6. Sáng Thế 26:20 Ê-séc Nghĩa là “tranh giành” hay “cãi nhau.”
  7. Sáng Thế 26:21 Sít-na Nghĩa là “ganh ghét” hay “thù địch.”
  8. Sáng Thế 26:22 Rê-hô-bốt Nghĩa là “khoảng trống” hay “giao điểm.”
  9. Sáng Thế 26:33 Si-ba Theo tiếng Hê-bơ-rơ nghĩa là “bảy” hay “lời thề.”

Áp-ra-ham Cưới Kê-tu-ra

25 Áp-ra-ham cưới một người vợ khác tên là Kê-tu-ra. Bà sinh cho ông Xim-ran, Giốc-san, Mê-đan, Mi-đi-an, Ích-bách, và Su-a. Giốc-san sinh Sê-ba và Ðê-đan. Các con trai của Ðê-đan là tổ phụ các tộc họ A-su-rim, Lê-tu-sim, và Lê-um-mim. Các con trai của Mi-đi-an là Ê-pha, Ê-phe, Ha-nốc, A-bi-đa, và Ên-đa-a. Tất cả những người ấy là con cháu của Kê-tu-ra. Áp-ra-ham cho tất cả những gì ông có cho I-sác. Nhưng đối với những con do các vợ kế của ông sinh ra thì khi còn sống ông cho họ của cải, rồi bảo họ dọn về hướng đông, cách xa I-sác, là con vợ chánh, mà lập nghiệp.

Áp-ra-ham Qua Ðời

Áp-ra-ham hưởng thọ một trăm bảy mươi lăm tuổi. Áp-ra-ham trút hơi thở cuối cùng và qua đời trong tuổi già. Ông là một người cao niên trường thọ, hưởng trọn tuổi thọ của ông, và được quy về với tổ tiên ông. Hai con trai ông là I-sác và Ích-ma-ên chôn cất ông trong hang Mạch-pê-la, trong cánh đồng của Ép-rôn con trai Xô-ha người Hít-ti, phía đông của Mam-rê. 10 Cánh đồng đó Áp-ra-ham đã mua của dân Hít-ti. Áp-ra-ham được chôn tại đó với Sa-ra vợ ông. 11 Sau khi Áp-ra-ham qua đời, Ðức Chúa Trời ban phước cho I-sác con trai ông. I-sác định cư tại vùng Giếng La-khai Roi.

Dòng Dõi Ích-ma-ên

12 Ðây là dòng dõi của Ích-ma-ên con trai Áp-ra-ham do Ha-ga, người Ai-cập, nữ tỳ của Sa-ra, sinh cho Áp-ra-ham. 13 Ðây là tên các con trai của Ích-ma-ên, theo thứ tự từ lớn đến nhỏ: Nê-ba-giốt con đầu lòng của Ích-ma-ên, kế đến là Kê-đa, Át-bê-ên, Míp-sam, 14 Mích-ma, Ðu-ma, Mát-sa, 15 Ha-đát, Tê-ma, Giê-tua, Na-phích, và Kê-đê-ma. 16 Ðó là các con trai của Ích-ma-ên và đó là tên của họ, theo làng xã và theo địa danh họ dựng trại, tức mười hai thủ lãnh các chi tộc của họ.

17 Ích-ma-ên hưởng thọ một trăm ba mươi bảy tuổi. Ông trút hơi thở cuối cùng và qua đời, rồi được quy về với tổ tiên ông. 18 Các con cháu ông định cư từ miền Ha-vi-la cho đến Su-rơ, tức cả vùng trước khi đến Ai-cập, nếu đi về hướng Át-su-rơ. Ông đã qua đời trước sự hiện diện của tất cả người thân của ông.[a]

Ê-sau và Gia-cốp Ðược Sinh Ra

19 Ðây là dòng dõi của I-sác con trai Áp-ra-ham: Áp-ra-ham sinh I-sác. 20 Khi I-sác được bốn mươi tuổi, ông cưới Rê-be-ca con gái Bê-thu-ên, người A-ram ở Pa-đan A-ram. Nàng là em gái của La-ban người A-ram. 21 I-sác cầu nguyện với Chúa cho vợ ông, vì vợ ông hiếm muộn. Chúa nhậm lời cầu nguyện của ông, nên Rê-be-ca vợ ông mang thai. 22 Các thai nhi trong dạ bà cứ đạp nhau, đến nỗi bà bảo, “Nếu cứ như thế nầy thì làm sao tôi chịu nổi?” Rồi bà cầu hỏi Chúa. 23 Chúa trả lời bà,

“Hai quốc gia đang ở trong dạ ngươi,
Hai dân tộc sẽ từ bụng ngươi thành hình;
Một dân sẽ mạnh hơn dân kia,
Ðứa lớn sẽ phục vụ đứa nhỏ.”

24 Ðến ngày bà sinh nở, người ta cho biết bà sẽ sinh đôi. 25 Ðứa bé ra trước da đỏ hồng, cả người đều đầy lông như một áo tơi bằng lông, vì thế người ta đặt tên nó là Ê-sau.[b] 26 Liền đó em nó cũng sinh ra, tay nắm gót của Ê-sau; nên người ta đặt tên nó là Gia-cốp.[c] I-sác được sáu mươi tuổi khi vợ ông sinh hai con trai nầy cho ông.

27 Khi hai đứa trẻ lớn lên, Ê-sau trở thành một thợ săn tài giỏi, suốt ngày dong ruổi ngoài đồng, còn Gia-cốp thì trầm tĩnh, sống quanh quẩn trong lều. 28 I-sác thương Ê-sau hơn vì ông thích ăn thịt rừng, nhưng Rê-be-ca thương Gia-cốp hơn.

Ê-sau Bán Quyền Trưởng Tử

29 Một ngày kia Gia-cốp đang nấu cháo đậu đỏ; Ê-sau ở ngoài đồng về và đang đói bụng. 30 Ê-sau nói với Gia-cốp, “Em cho anh ăn cháo gì đo đỏ đó đi, vì anh đói quá rồi.” Bởi thế người ta gọi Ê-sau là Ê-đôm.[d]

31 Gia-cốp đáp, “Nếu anh muốn ăn thì hôm nay anh bán quyền trưởng tử của anh cho em đi.”

32 Ê-sau đáp, “Nầy, anh đói sắp chết đến nơi rồi; quyền trưởng tử có giúp gì được cho anh chăng?”

33 Gia-cốp nói, “Nếu vậy thì trước hết anh hãy thề đi.” Ê-sau bèn thề và bán quyền trưởng tử của chàng cho Gia-cốp. 34 Bấy giờ Gia-cốp mới cho Ê-sau ăn bánh và cháo đậu đỏ. Ê-sau ăn và uống, rồi đứng dậy và đi. Như vậy Ê-sau đã khinh thường quyền trưởng tử của chàng.

I-sác và A-bi-mê-léc

26 Lúc ấy trong xứ xảy ra một nạn đói, ngoài nạn đói đã xảy ra trước kia trong thời Áp-ra-ham. I-sác dọn đến Ghê-ra, và xin A-bi-mê-léc vua dân Phi-li-tin cho tạm trú. Chúa hiện ra với ông và phán, “Ðừng xuống Ai-cập, nhưng hãy ở trong xứ Ta sẽ chỉ cho. Hãy sống trong xứ nầy như một kiều dân. Ta sẽ ở với ngươi và ban phước cho ngươi, vì Ta sẽ ban cho ngươi và dòng dõi ngươi tất cả những vùng đất nầy. Ta sẽ làm trọn lời thề Ta đã thề với Áp-ra-ham cha ngươi. Ta sẽ làm cho dòng dõi ngươi đông như sao trên trời và sẽ ban cho dòng dõi ngươi tất cả vùng đất nầy. Rồi mọi dân tộc trên thế gian sẽ nhờ dòng dõi ngươi mà được phước, vì Áp-ra-ham đã vâng lời Ta và gìn giữ các mạng lịnh, điều răn, quy tắc, và luật lệ Ta.”

Vậy I-sác cứ ở tại Ghê-ra. Khi những đàn ông địa phương đến trầm trồ với ông về vợ ông, ông bảo, “Nàng là em gái tôi,” mà không dám nói, “Nàng là vợ tôi,” vì ông nghĩ, “Nếu mình nói nàng là vợ mình, bọn đàn ông địa phương chắc sẽ giết mình để cướp Rê-be-ca, vì nàng là một phụ nữ rất đẹp.”

Sau khi I-sác đã ở đó khá lâu, một ngày kia A-bi-mê-léc vua người Phi-li-tin tình cờ nhìn qua cửa sổ và trông thấy I-sác đang âu yếm Rê-be-ca vợ ông. A-bi-mê-léc liền cho triệu I-sác đến và nói, “Thì ra nàng là vợ ông! Tại sao ông lại bảo, ‘Nàng là em gái tôi’?”

I-sác nói với ông, “Bởi vì tôi nghĩ tôi có thể bị mất mạng vì cớ nàng.”

10 A-bi-mê-léc nói, “Ông đã làm gì cho chúng tôi thế? Lỡ có người nào trong dân đến ăn nằm với vợ ông, thì ông đã làm cho chúng tôi phải mang tội.” 11 Vì vậy A-bi-mê-léc truyền lịnh cho toàn dân của ông, “Hễ ai đụng đến người đàn ông nầy và vợ của ông ấy sẽ bị xử tử.”

I-sác Ðược Chúa Ban Phước

12 I-sác gieo trồng trong xứ ấy và năm đó ông thu hoạch được gấp trăm lần, vì Chúa ban phước cho ông. 13 Ông trở nên giàu có; của cải cứ mỗi ngày một gia tăng, đến độ ông trở thành một người rất giàu có. 14 Ông có nhiều đàn chiên, đàn bò, và rất đông đầy tớ, đến nỗi người Phi-li-tin sinh lòng ganh ghét ông. 15 Những giếng nước do các đầy tớ của Áp-ra-ham cha ông đã đào trước kia đều bị người Phi-li-tin lấp đất cho tắt nghẽn. 16 Ðã thế A-bi-mê-léc còn nói với I-sác, “Ông hãy dọn ra khỏi xứ chúng tôi, vì ông đã trở nên giàu mạnh hơn chúng tôi.”

17 I-sác bèn rời khỏi xứ đó, đến dựng lều trong Thung Lũng Ghê-ra và định cư ở đó. 18 I-sác cho đào lại các giếng đã được đào trong thời Áp-ra-ham cha ông, tức những giếng đã bị người Phi-li-tin lấp đất sau khi cha ông qua đời. Ông lấy tên mà cha ông đã đặt cho các giếng đó để gọi chúng.

19 Các đầy tớ của I-sác đào thêm một giếng nữa trong thung lũng, và gặp được một giếng có nước mạch. 20 Nhưng bọn chăn bầy của dân địa phương ở Ghê-ra đến gây sự và bảo, “Mạch nước nầy là của chúng tôi.” Ông bèn đặt tên cho giếng ấy là Ê-xéc,[e] vì chúng đã giành giựt của ông. 21 Kế đó các đầy tớ của ông đào một giếng khác, và ông cũng bị người ta đến tranh giành nữa. Ông đặt tên cho giếng ấy là Sít-na.[f] 22 Ông bỏ chỗ đó và đi đào một giếng khác. Ðến giếng nầy thì ông không bị người ta đến tranh giành, nên ông đặt tên giếng đó là Rê-hô-bốt,[g] và nói, “Bây giờ Chúa ban cho chúng ta một nơi rộng rãi thênh thang. Chúng ta sẽ thịnh vượng trong đất nầy.”

Chúa Hứa Ban Phước cho I-sác

23 Sau đó I-sác bỏ chỗ ấy và dọn lên Bê-e Sê-ba. 24 Ðêm đó Chúa hiện ra với ông và phán, “Ta là Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham cha ngươi. Ðừng sợ, vì Ta ở với ngươi. Vì cớ Áp-ra-ham tôi tớ Ta, Ta sẽ ban phước cho ngươi và làm dòng dõi ngươi sinh sôi nảy nở ra nhiều.” 25 I-sác xây một bàn thờ tại đó và kêu cầu danh Chúa. Ông dựng lều để ở tại đó, và các đầy tớ của I-sác cũng đào một giếng ở đó.

Giao Ước giữa I-sác và A-bi-mê-léc

26 Bấy giờ A-bi-mê-léc từ Ghê-ra đến thăm I-sác, có A-hu-xát cố vấn[h] của ông, và Phi-côn chỉ huy trưởng quân đội của ông, cùng đi theo. 27 I-sác nói, “Quý vị đã ghét tôi và đuổi tôi ra khỏi xứ của quý vị; bây giờ quý vị còn tìm đến tôi làm gì?”

28 Họ đáp, “Chúng tôi đã thấy rõ Chúa ở với ông, nên chúng tôi đã bàn với nhau rằng giữa chúng ta phải có một lời thề với nhau, tức giữa ông và chúng tôi. Chúng tôi muốn lập một giao ước với ông, 29 để ông sẽ không làm hại chúng tôi, giống như chúng tôi đã không đụng chạm gì đến ông, mà chỉ lấy lòng tốt đối với ông, và đã để ông ra đi bình an. Bây giờ ông là người được Chúa ban phước.”

30 I-sác làm một bữa tiệc thết đãi họ, và họ ăn uống với nhau. 31 Sáng hôm sau họ dậy sớm, hai bên thề với nhau, rồi I-sác tiễn họ lên đường, và họ đã ra đi bình an.

32 Cũng ngày hôm đó các đầy tớ của I-sác đến báo tin cho ông về cái giếng họ đang đào, “Chúng tôi đã đào trúng mạch nước.” 33 Ông bèn đặt tên cho giếng đó là Sê-ba. Vì thế thành đó mang tên là Bê-e Sê-ba cho đến ngày nay.

Ê-sau Lập Gia Ðình

34 Khi Ê-sau được bốn mươi tuổi, chàng cưới Giu-đi con gái Bê-e-ri người Hít-ti, và Ba-sê-mát con gái Ê-lôn người Hít-ti, làm vợ. 35 Hai người phụ nữ ấy đã làm cho I-sác và Rê-be-ca đau lòng không lời nào tả xiết.

Footnotes

  1. Sáng Thế 25:18 ctd: Ông đã định cư đối diện với tất cả các em ông
  2. Sáng Thế 25:25 Chữ “Ê-sau” (aysawv) phát âm cũng gần với chữ “nhiều lông” hay “lông lá” (sayawr) trong tiếng Hebrew
  3. Sáng Thế 25:26 Chữ “Gia-cốp” (yahakobe) phát âm na ná như chữ “gót chân” (awkabe) trong tiếng Hebrew
  4. Sáng Thế 25:30 Ê-đôm nghĩa là đo đỏ
  5. Sáng Thế 26:20 Ê-xéc nghĩa là gây gỗ, giành giựt
  6. Sáng Thế 26:21 Sít-na nghĩa là tranh giành
  7. Sáng Thế 26:22 Rê-hô-bốt nghĩa là nơi rộng rãi thênh thang
  8. Sáng Thế 26:26 nt: một người trong các bạn của vua