Add parallel Print Page Options

Ðây là danh sách các vị trưởng tộc theo gia phả của họ đã rời Ba-by-lôn đi lên với tôi dưới triều đại Vua Ạc-ta-xẹc-xe:

Dòng dõi của Phi-nê-a: Ghẹt-sôm.

Dòng dõi của I-tha-ma: Ða-ni-ên.

Dòng dõi của Ða-vít: Hát-túc.

Dòng dõi của Sê-ca-ni-a, con cháu của Pa-rốt: Xa-cha-ri-a, cùng đi với ông có một trăm năm mươi người nam theo gia phả của họ.

Dòng dõi của Pa-hát Mô-áp: Ê-li-ê-hô-ê-nai con cháu của Xê-ra-hi-a và hai trăm người nam đi với ông.

Dòng dõi của Xát-tu: Sê-ca-ni-a con của Gia-ha-xi-ên và ba trăm người nam đi với ông.

Dòng dõi của A-đin: Ê-bết con của Giô-na-than và năm mươi người nam đi với ông.

Dòng dõi của Ê-lam: Giê-sa-gia con của A-tha-li-a và bảy mươi người nam đi với ông.

Dòng dõi của Sê-pha-ti-a: Xê-ba-đi-a con của Mi-ca-ên và tám mươi người nam đi với ông.

Dòng dõi của Giô-áp: Ô-ba-đi-a con của Giê-hi-ên và hai trăm mười tám người nam đi với ông.

10 Dòng dõi của Ba-ni: Sê-lô-mít con của Giô-si-phi-a và một trăm sáu mươi người nam đi với ông.

11 Dòng dõi của Bê-bai: Xa-cha-ri-a con của Bê-bai và hai mươi tám người nam đi với ông.

12 Dòng dõi của A-xơ-gát: Giô-ha-na con của Hát-ca-tan và một trăm mười người nam đi với ông.

13 Dòng dõi của A-đô-ni-cam: (những người nầy không thể đi cùng một lượt nhưng đến sau) tên của họ là Ê-li-phê-lết, Giê-u-ên, và Sê-ma-gia, và sáu mươi người nam đi với họ.

14 Dòng dõi của Bích-vai: U-thai con của Xác-cua và bảy mươi người nam đi với ông.

Những Người Lê-vi

15 Tôi tập họp họ lại ở bờ sông chảy về hướng A-ha-va, và chúng tôi đóng trại tại đó ba ngày. Khi tôi duyệt qua danh sách những người hồi hương, tôi thấy có dân và các tư tế, nhưng không thấy ai trong con cháu của Lê-vi cả. 16 Do đó tôi sai người đến mời Ê-li-ê-xe, A-ri-ên, Sê-ma-gia, Ên-na-than, Gia-ríp, Ên-na-than, Na-than, Xa-cha-ri-a, và Mê-su-lam, các nhà lãnh đạo, cùng với Giô-gia-ríp và Ên-na-than, hai người thông minh khôn sáng. 17 Tôi nhờ họ đến gặp I-đô người lãnh đạo ở một nơi gọi là Ca-si-phi-a. Tôi dặn họ những lời phải nói với I-đô và bà con dòng họ của ông ấy, những người phục vụ Ðền Thờ đang sống ở Ca-si-phi-a, đại khái là xin họ gởi cho chúng tôi một số người để cùng trở về quê hương lo việc phục vụ nơi Ðền Thờ Ðức Chúa Trời. 18 Nhờ tay nhân lành của Ðức Chúa Trời ở trên chúng tôi, nên họ đã đem về cho chúng tôi một người thông minh khôn sáng thuộc dòng dõi của Mác-li, con cháu của Lê-vi, con của I-sơ-ra-ên tên là Sê-rê-bi-a, cùng với các con trai của ông ấy và bà con dòng họ gồm mười tám người nam. 19 Ngoài ra còn có Ha-sa-bi-a; cùng đi với ông ấy có Giê-sa-gia thuộc dòng dõi của Mê-ra-ri, với bà con dòng họ của ông và các con trai của họ được hai mươi người nam.

Những Người Phục Vụ Ðền Thờ

20 Ngoài ra còn có hai trăm hai mươi người phục vụ Ðền Thờ mà Ða-vít và các triều thần của ông đã biệt riêng họ ra để phụ giúp những người Lê-vi. Tất cả những người đó đều đã được chỉ định đích danh.

Kiêng Ăn Cầu Nguyện Xin Ðức Chúa Trời Che Chở

21 Bấy giờ tôi tuyên bố một cuộc kiêng ăn ở tại đó, bên bờ Sông A-ha-va, để chúng tôi hạ mình xuống trước mặt Ðức Chúa Trời và để cầu xin Ngài ban ơn che chở chúng tôi, con cháu chúng tôi, và tài sản của chúng tôi được an toàn trong chuyến hành trình, 22 vì tôi cảm thấy hổ thẹn khi phải xin vua cho một đoàn bộ binh và kỵ binh hộ tống để bảo vệ chúng tôi khỏi bị quân thù tấn công dọc đường. Số là tôi đã thưa với nhà vua rằng tay của Ðức Chúa Trời sẽ ban phước cho tất cả những ai tìm kiếm Ngài, nhưng quyền năng và cơn thịnh nộ của Ngài sẽ giáng xuống tất cả những kẻ lìa bỏ Ngài. 23 Vậy chúng tôi kiêng ăn và cầu nguyện xin Ðức Chúa Trời ban cho chúng tôi điều chúng tôi cầu xin, và Ngài đã nhậm lời cầu nguyện của chúng tôi.

Trao Các Của Dâng cho Các Tư Tế

24 Sau đó tôi mời mười hai vị trưởng tế đến gặp tôi; đó là quý ông Sê-rê-bi-a và Ha-sa-bi-a, cùng mười anh em của hai ông ấy. 25 Tôi cân cho họ số bạc, số vàng, và các món đồ mà vua, các mưu sĩ của vua, các đại quan của vua, và toàn dân ở đó đã dâng cho Ðền Thờ Ðức Chúa Trời của chúng tôi. 26 Tôi cân và trao vào tay họ hai mươi hai ngàn một trăm ký[a] bạc, các bửu vật bằng bạc cân nặng ba ngàn bốn trăm ký,[b] và ba ngàn bốn trăm ký[c] vàng, 27 hai mươi cái bát vàng trị giá một ngàn a-đạc-côn,[d] hai món đồ bằng đồng đánh bóng rất quý chẳng kém gì vàng. 28 Tôi nói với họ, “Quý vị và các món đồ nầy đều đã được biệt riêng ra thánh cho Chúa. Bạc và vàng là những lễ vật lạc ý mà người ta đã dâng lên Chúa, Ðức Chúa Trời của tổ tiên quý vị. 29 Quý vị phải canh giữ chúng cẩn thận cho đến khi cân lại cho các vị trưởng tế, những người Lê-vi, và các vị trưởng tộc của dân I-sơ-ra-ên tại Giê-ru-sa-lem trong các kho báu ở Ðền Thờ Chúa.”

30 Vậy các tư tế và những người Lê-vi nhận lấy bạc, vàng, và các món đồ đã cân, để đem chúng đến Ðền Thờ Ðức Chúa Trời của chúng tôi ở Giê-ru-sa-lem.

Hành Trình Trở Về Giê-ru-sa-lem

31 Ngày mười hai tháng giêng, chúng tôi lên đường rời khỏi bờ Sông A-ha-va để trở về Giê-ru-sa-lem. Tay của Ðức Chúa Trời ở trên chúng tôi. Ngài đã bảo vệ chúng tôi khỏi quân thù và khỏi bọn cướp phục kích ở dọc đường. 32 Cuối cùng chúng tôi đã về đến Giê-ru-sa-lem bình an và nghỉ ngơi ở đó ba ngày. 33 Ngày thứ tư, tại Ðền Thờ Ðức Chúa Trời, chúng tôi đã cân bạc, vàng, và các món đồ, và trao vào tay của Tư Tế Mê-rê-mốt con của U-ri-gia và Ê-lê-a-xa con của Phi-nê-a, người có mặt với ông tại đó. Ngoài ra còn có hai người Lê-vi là Giô-xa-bát con của Giê-sua và Nô-a-đi-a con của Bin-nui cũng có mặt ở đó và tiếp nhận các món đồ với họ. 34 Số lượng và trọng lượng đều được chuyển giao đầy đủ. Một biên bản bàn giao đã ghi rõ tổng số trọng lượng lúc bấy giờ.

35 Sau đó con cháu những người từ chốn lưu đày trở về đã dâng các của lễ thiêu lên Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên: mười hai con bò đực cho toàn dân I-sơ-ra-ên, chín mươi sáu con chiên đực, bảy mươi bảy con chiên con, và mười hai con dê đực để làm các của lễ chuộc tội. Tất cả đều đã được dâng lên Chúa dưới hình thức của lễ thiêu.

36 Kế đó họ trao cho các thủ hiến và các tổng trấn của tỉnh Bên Kia Sông sắc lệnh của vua. Những người ấy bèn giúp đỡ dân và Ðền Thờ Ðức Chúa Trời.

Phản Ðối Những Cuộc Hôn Nhân Dị Chủng và Dị Giáo

Sau các việc đó một số người lãnh đạo đến với tôi và nói, “Nhiều người I-sơ-ra-ên, kể cả các tư tế và những người Lê-vi đã không giữ mình cách biệt với các dân đã sống sẵn trong xứ, đặc biệt là đối với các thói tục gớm ghiếc trong tín ngưỡng của dân Ca-na-an, dân Hít-ti, dân Pê-ri-xi, dân Giê-bu-si, dân Am-môn, dân Mô-áp, dân Ai-cập, và dân A-mô-ri, vì họ đã cưới các phụ nữ của các dân đó cho họ và cho các con trai của họ. Họ đã làm cho dòng dõi thánh trở thành hỗn tạp. Hơn nữa những người lãnh đạo và các quan chức lại là những người dẫn đầu trong việc vi phạm ấy.”

Bài Cầu Nguyện của Ê-xơ-ra

Khi nghe như thế tôi xé rách chiếc áo dài trong và áo choàng bên ngoài tôi đang mặc. Tôi bức tóc bức râu và ngồi thẫn thờ trong nỗi bàng hoàng đau khổ. Những ai có lòng kính sợ lời Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên đều tụ lại quanh tôi, vì sự vi phạm của những người từ chốn lưu đày trở về đã quá tệ. Tôi cứ ngồi thẫn thờ trong nỗi bàng hoàng đau khổ như thế cho đến giờ dâng của lễ chiều tàn. Ðến giờ dâng của lễ chiều tàn, tôi đứng dậy khỏi chỗ tôi đã ngồi kiêng ăn sầu thảm, với chiếc áo dài trong và áo choàng bên ngoài vẫn còn bị xé rách, tôi quỳ xuống và đưa hai tay hướng về Chúa, Ðức Chúa Trời của tôi. Tôi cầu nguyện rằng:

“Lạy Ðức Chúa Trời của con, con thật xấu hổ và ngượng ngùng khi ngước mặt hướng về Ngài, Ðức Chúa Trời của con, vì tội của chúng con đã ngập quá đầu và lỗi của chúng con đã chất cao đến tận trời. Từ thời tổ tiên của chúng con cho đến ngày nay, chúng con đã phạm tội quá nhiều. Vì tội của chúng con mà các vua chúng con và các tư tế của chúng con đã bị trao vào tay các vua các dân ngoại. Người thì bị giết bằng gươm; kẻ thì bị bắt đem đi lưu đày; người thì bị tước đoạt tất cả; kẻ thì bị làm nhục, như chúng con phải chịu ngày nay. Nhưng bây giờ Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng con, đã ban cho chúng con được hưởng ân huệ trong một thời gian ngắn. Ngài đã giữ lại một số người sống sót và cho họ được trở về. Ngài đã làm cho chúng con như một cái đinh được đóng chặt trong nơi thánh của Ngài. Ðức Chúa Trời của chúng con đã làm cho đôi mắt của chúng con sáng rực lên trở lại. Ngài đã cho chúng con được một khoảnh khắc hồi sinh giữa lúc sống trong thân phận nô lệ bị lưu đày. Thật vậy chúng con chỉ là những kẻ nô lệ bị lưu đày, nhưng trong cảnh nô lệ bị lưu đày ấy Ngài đã không bỏ chúng con, Ngài đã cho chúng con được thương xót trước mặt các vua Ba-tư để họ cho chúng con được hồi sinh, hầu trở về xây dựng lại Ðền Thờ Ðức Chúa Trời, sửa lại những nơi đổ nát, và ban cho chúng con một bức tường bảo vệ ở Giu-đa và Giê-ru-sa-lem. 10 Nhưng bây giờ, lạy Ðức Chúa Trời của chúng con, sau việc nầy chúng con còn có thể nói được gì đây? Vì chúng con đã lìa bỏ các điều răn của Ngài, 11 mà Ngài đã truyền qua các tôi tớ Ngài là các vị tiên tri rằng:

‘Xứ các ngươi sẽ vào hưởng nhận là một xứ không sạch, vì các dân trong xứ ấy đã làm cho nó ra ô uế bằng các thói tục gớm ghiếc trong tín ngưỡng của chúng. Chúng đã làm cho nó đầy dẫy sự ô uế từ đầu nầy đến đầu kia. 12 Vậy bây giờ các ngươi chớ gả các con gái của các ngươi cho chúng và cũng chớ cưới các con gái của chúng cho các con trai các ngươi. Ðừng bao giờ nhờ chúng để được yên ổn bình an hoặc nhờ chúng để làm ăn thịnh đạt. Các ngươi chớ làm như thế, hầu các ngươi sẽ được hùng cường, ăn lấy hoa màu trong xứ, và để xứ ấy lại làm sản nghiệp cho con cháu các ngươi mãi mãi.’

13 Những gì đã xảy ra cho chúng con là hậu quả của các tội nặng và các lỗi lầm nghiêm trọng của chúng con, mặc dù Ngài, Ðức Chúa Trời của chúng con, đã phạt chúng con nhẹ hơn những gì chúng con đáng phải chịu; đã thế Ngài còn cho chúng con một số người được sống sót và trở về như thế nầy. 14 Bây giờ lẽ nào chúng con lại tái phạm các điều răn của Ngài, lẽ nào chúng con lại cưới gả lộn xộn với các dân trong xứ vốn sống theo các thói tục gớm ghiếc trong tín ngưỡng của họ sao? Chẳng lẽ Ngài sẽ không thèm giận chúng con, để rồi một lúc nào đó Ngài sẽ nổi cơn thịnh nộ mà tiêu diệt chúng con, hầu không ai thoát khỏi hay sống sót sao? 15 Lạy Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, Ngài lúc nào cũng đúng. Nhờ Ngài chúng con còn sống sót và về được đây như đã có ngày nay. Giờ đây chúng con xin phủ phục trước mặt Ngài với tội lỗi ngút ngàn, mà đúng ra với tội lỗi nặng nề như thế nầy, không ai trong chúng con được phép ở trước thánh nhan Ngài mà cầu xin như vậy.”

Dân Chúng Ðáp Ứng

10 Bấy giờ trong khi Ê-xơ-ra cầu nguyện, tức trong khi ông xưng tội, khóc lóc, và phủ phục trước Ðền Thờ Ðức Chúa Trời, một đoàn dân I-sơ-ra-ên rất đông gồm đàn ông, đàn bà, và trẻ em tụ lại quanh ông; dân chúng cũng khóc lóc một cách đắng cay thảm thiết với ông. Bấy giờ Sê-ca-ni-a con của Giê-hi-ên, một trong các con cháu của Ê-lam, cất tiếng và nói với Ê-xơ-ra, “Chúng tôi đã phạm tội với Ðức Chúa Trời chúng ta. Chúng tôi đã cưới những phụ nữ không tin thờ Ngài của các dân trong xứ làm vợ. Dù việc nầy có trầm trọng thật, nhưng bây giờ vẫn còn hy vọng cho dân I-sơ-ra-ên. Vậy bây giờ xin chúng ta hãy lập một giao ước với Ðức Chúa Trời chúng ta, mà chấm dứt mối liên hệ gia đình với những người vợ dị chủng và dị giáo và các con cái do họ sinh ra theo như ý kiến của ông và của những người run sợ trước mạng lịnh của Ðức Chúa Trời chúng ta. Chúng ta cứ chiếu theo Luật Pháp mà thi hành. Xin ông đứng dậy vì việc nầy phải do ông quyết định mới được. Chúng tôi sẽ một lòng ủng hộ ông. Xin ông hãy can đảm và thực hiện điều ấy.”

Bấy giờ Ê-xơ-ra đứng dậy và yêu cầu các vị trưởng tế, những người Lê-vi, và toàn dân I-sơ-ra-ên tuyên thệ sẽ làm theo những lời đã đề nghị. Họ bèn thề sẽ làm theo như thế.

Ê-xơ-ra trỗi dậy, rời khỏi chỗ ông đã quỳ ở trước Ðền Thờ Ðức Chúa Trời, và đi đến văn phòng của Giê-hô-ha-nan con của Ê-li-a-síp. Ông ở trong phòng đó suốt đêm, không ăn và không uống gì cả, vì ông quá buồn bã về lòng bất trung của những người bị lưu đày đã hồi hương.

Sau đó họ ra một thông cáo và phổ biến khắp xứ Giu-đa và Giê-ru-sa-lem, để kêu gọi tất cả những người đã từ chốn lưu đày trở về phải tập họp về Giê-ru-sa-lem gấp. Trong vòng ba ngày, theo lịnh của các nhà lãnh đạo và các vị trưởng lão, nếu ai không tới, tài sản người ấy sẽ bị tịch thu, và người ấy sẽ bị loại ra khỏi cộng đồng những người từ chốn lưu đày trở về.

Vậy chỉ trong ba ngày, toàn dân sống trong miền Giu-đa và miền Bên-gia-min đã tụ họp đông đủ về Giê-ru-sa-lem. Ðó là ngày hai mươi tháng chín. Mọi người đều ngồi ở trước quảng trường của Ðền Thờ Ðức Chúa Trời. Ai nấy đều run cầm cập vì việc ấy và cũng vì ướt lạnh do trời mưa tầm tã. 10 Bấy giờ Tư Tế Ê-xơ-ra đứng ra và nói với họ, “Anh em đã phạm tội vì đã cưới những người vợ dị chủng và dị giáo. Bây giờ anh em đã làm cho tội lỗi của I-sơ-ra-ên đã trở nên nặng hơn lúc trước. 11 Vậy bây giờ hãy xưng tội với Chúa, Ðức Chúa Trời của tổ tiên anh em, và làm theo ý Ngài. Hãy đoạn tuyệt với các dân trong xứ và hãy chấm dứt mối liên hệ gia đình với những người vợ dị chủng và dị giáo.”

12 Bấy giờ toàn thể hội chúng đáp lời và nói lớn tiếng, “Vâng! Chúng tôi sẽ làm như điều ông nói.” 13 Kế đó họ nói, “Rất nhiều người đã dính líu vào việc nầy, hơn nữa bây giờ là mùa mưa. Chúng ta không thể cứ đứng ngoài trời mà giải quyết việc nầy ngay hôm nay được. Ngoài ra việc nầy cũng không thể giải quyết được trong một hai ngày, vì chúng ta đã phạm tội quá trầm trọng trong việc nầy. 14 Bây giờ chúng ta hãy ủy quyền cho các vị lãnh đạo, để họ quyết định việc nầy cho toàn thể hội chúng. Những ai đã cưới vợ ngoại bang sẽ theo hẹn kỳ đến gặp các vị trưởng lão và các thẩm phán trong thành của mình, để được họ giải quyết thỏa đáng, hầu cơn thịnh nộ bừng bừng của Ðức Chúa Trời chúng ta sẽ quay khỏi chúng ta trong việc nầy.”

15 Chỉ có Giô-na-than con của A-sa-hên và Gia-xê-gia con của Tích-va phản đối quyết định đó, và họ được hai người Lê-vi là Mê-su-lam và Sa-bê-thai ủng hộ. 16 Thế là những người từ chốn lưu đày trở về đã cương quyết thực thi đề nghị ấy.

Tư tế Ê-xơ-ra chỉ định các vị trưởng gia tộc, người nào theo chi tộc nấy; tất cả đều được chỉ định đích danh. Ngày mồng một tháng mười, họ bắt đầu ngồi xuống giải quyết vấn đề. 17 Ðến ngày mồng một tháng giêng năm sau, họ đã giải quyết xong mọi trường hợp của những người cưới vợ dị chủng và dị giáo.

18 Trong vòng các tư tế, những người sau đây đã cưới vợ dị chủng và dị giáo:

Trong các con cháu của Giê-sua con của Giô-xa-đắc và các anh em ông ấy có Ma-a-sê-gia, Ê-li-ê-xe, Gia-ríp, và Ghê-đa-li-a. 19 Tất cả những người ấy đều đưa tay tuyên thệ sẽ chấm dứt mối liên hệ gia đình với những người vợ dị chủng và dị giáo, và vì cớ lỗi của họ, mỗi người sẽ dâng một con chiên đực trong bầy của họ để làm của lễ tạ lỗi.

20 Trong con cháu của Im-me có Hê-na-ni và Xê-ba-đi-a.

21 Trong con cháu của Ha-rim có Mê-a-sê-gia, Ê-li-gia, Sê-ma-gia, Giê-hi-ên, và U-xi-a.

22 Trong con cháu của Pát-khua có Ê-li-ô-ê-nai, Ma-a-sê-gia, Ích-ma-ên, Nê-tha-nên, Giô-xa-bát, và Ê-la-sa.

23 Trong vòng những người Lê-vi có Giô-xa-bát, Si-mê-i, Kê-la-gia (cũng có tên khác là Lê-li-ta), Pê-tha-hi-a, Giu-đa, và Ê-li-ê-xe.

24 Trong vòng những người ca hát thờ phượng có Ê-li-a-síp.

Trong vòng những người canh cửa Ðền Thờ có Sanh-lum, Tê-lem, và U-ri.

25 Trong vòng những người I-sơ-ra-ên khác:

Trong con cháu của Pa-rốt có Ra-mi-a, I-xi-a, Manh-ki-gia, Mi-gia-min, Ê-lê-a-xa, Manh-ki-gia, và Bê-na-gia.

26 Trong con cháu của Ê-lam có Mát-ta-ni-a, Xa-cha-ri-a, Giê-hi-ên, Áp-đi, Giê-rê-mốt, và Ê-li-gia.

27 Trong con cháu của Xát-tu có Ê-li-ô-ê-nai, Ê-li-a-síp, Mát-ta-ni-a, Giê-rê-mốt, Xa-bát, và A-xi-xa.

28 Trong con cháu của Bê-bai có Giê-hô-ha-nan, Ha-na-ni-a, Xáp-bai, và Át-lai.

29 Trong con cháu của Ba-ni có Mê-su-lam, Manh-lúc, A-đa-gia, Gia-súp, Sê-anh, và Giê-rê-mốt.

30 Trong con cháu của Pa-hát Mô-áp có Át-na, Kê-lanh, Bê-na-gia, Ma-a-sê-gia, Mát-ta-ni-a, Bê-xa-lên, Bin-nui, và Ma-na-se.

31 Trong con cháu của Ha-rim có Ê-li-ê-xe, I-si-gia, Manh-ki-gia, Sê-ma-gia, Si-mê-ôn, 32 Bên-gia-min, Manh-lúc, và Sê-ma-ri-a.

33 Trong con cháu của Ha-sum có Mát-tê-nai, Mát-ta-ta, Xa-bát, Ê-li-phê-lết, Giê-rê-mai, Ma-na-se, và Si-mê-i.

34 Trong con cháu của Ba-ni có Ma-a-đai, Am-ram, U-ên, 35 Bê-na-gia, Bê-đê-gia, Kê-lu-hi, 36 Va-ni-a, Mê-rê-mốt, Ê-li-a-síp, 37 Mát-ta-ni-a, Mát-tê-nai, và Gia-a-su.

38 Trong con cháu của Bin-nui có Si-mê-i, 39 Sê-lê-mi-a, Na-than, A-đa-gia, 40 Mác-na-đê-bai, Sa-sai, Sa-rai, 41 A-xa-rên, Sê-lê-mi-a, Sê-ma-ri-a, 42 Sanh-lum, A-ma-ri-a, và Giô-sép.

43 Trong con cháu của Nê-bô có Giê-i-ên, Mát-ti-thi-a, Xa-bát, Xê-bi-na, Giáp-đai, Giô-ên, và Bê-na-gia.

44 Tất cả những người ấy đều cưới các phụ nữ dị chủng và dị giáo làm vợ. Một số người trong vòng họ đã có con với các phụ nữ đó.

Footnotes

  1. Ê-xơ-ra 8:26 nt: 650 ta-lâng bạc (kikkar)
  2. Ê-xơ-ra 8:26 nt: 100 ta-lâng bạc
  3. Ê-xơ-ra 8:26 nt: 100 ta-lâng bạc
  4. Ê-xơ-ra 8:27 nt: 1.000 a-đạc-côn, đơn vị tiền tệ thời xưa