Add parallel Print Page Options

Chống đối việc tái thiết

Khi những kẻ thù của dân Giu-đa và Bên-gia-min nghe rằng những tù binh vừa hồi hương đang xây lại đền thờ của CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en, thì họ đến gặp Xê-ru-ba-bên và các trưởng gia đình và nói, “Chúng tôi sẽ giúp đỡ các anh xây cất vì chúng tôi cũng như các anh, muốn thờ phụng Thượng Đế các anh. Chúng tôi đã dâng của lễ cho Ngài từ thời Ê-sa-hát-đôn, vua A-xy-ri là người đã mang chúng tôi đến đây.”

Nhưng Xê-ru-ba-bên, Giê-sua, và các lãnh tụ Ít-ra-en đáp, “Các anh không cần giúp đỡ chúng tôi xây đền thờ của Thượng Đế chúng tôi. Chúng tôi sẽ tự mình xây đền thờ đó cho CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en theo như Xi-ru, vua Ba-tư truyền dặn chúng tôi.”

Sau đó những người sống quanh họ tìm cách làm nản lòng dân Giu-đa khiến cho họ sợ không dám xây cất. Các kẻ thù của họ thuê những người khác làm trì hoãn chương trình xây cất trong thời Xi-ru vua Ba-tư. Việc đó kéo dài đến thời Đa-ri-út lên ngôi vua Ba-tư.

Những sự chống đối về sau

Khi Xét-xe [a] mới lên ngôi, những người đó viết một thư phản đối dân Giu-đa và Giê-ru-sa-lem.

Khi Ạc-ta-xét-xe lên ngôi vua Ba-tư thì Bích-lam, Mít-rê-đít, Ta-biên, và những đồng lõa của chúng viết một thư cho vua. Thư đó viết bằng tiếng A-ram và được dịch ra [b].

Rê-hum, quan tổng trấn, và Sim-sai, thư ký quan tổng trấn viết một thư chống Giê-ru-sa-lem cho vua. Thư viết như sau:

Thư nầy do Rê-hum, quan tổng trấn, Sim-sai, thư ký, và các đồng nghiệp: các quan án cùng những viên chức cao cấp cai quản những người đã trở về từ Tri-bô-li, Ba-tư, Ê-réc, và Ba-by-lôn, người Ê-lam ở Su-sa, 10 cùng những người mà vua A-su-ba-ni-banh cao cả vĩ đại đã trục xuất ra khỏi xứ họ và cho định cư tại thành Xa-ma-ri cùng những nơi khác thuộc vùng Xuyên Ơ-phơ-rát.

11 Đây là bản sao bức thư họ gởi cho vua Ạt-ta-xét-xe:

“Các đầy tớ vua sống trong vùng Xuyên Ơ-phơ-rát, kính gởi vua.

12 Thưa vua, vua biết những người Do-thái từ vua trở về cùng chúng tôi đã đi đến Giê-ru-sa-lem để xây lại thành gian ác bất tuân nầy. Họ đang xây lại vách [c] và nền của các tòa nhà.

13 Bây giờ, thưa vua, nên biết rằng nếu Giê-ru-sa-lem được xây, vách nó được sửa chữa lại thì Giê-ru-sa-lem sẽ không còn đóng món thuế nào nữa. Rồi số thu của chính phủ sẽ sụt xuống. 14 Vì chúng tôi phải trung thành với chính phủ, chúng tôi không muốn vua bị người ta xem thường cho nên chúng tôi viết thư nầy để ngài biết. 15 Chúng tôi đề nghị ngài cho sưu tầm sử liệu của các vua tiền nhiệm. Ngài sẽ thấy rằng thành Giê-ru-sa-lem bất phục tùng và gây rối cho các vua cùng các vùng do nước Ba-tư kiểm soát. Từ lâu lắm rồi nó là chỗ khỏi xướng sự bất tuân. Vì thế mà nó bị tiêu hủy. 16 Thưa vua, chúng tôi muốn vua biết rằng nếu thành nầy được tái thiết, vách được sửa chữa lại thì vua không còn gì ở phía Xuyên Ơ-phơ-rát bên nầy cả.”

17 Vua gởi thư phúc đáp như sau:

“Gởi Rê-hum, quan tổng trấn, và Sim-sai, thư ký cùng các đồng nghiệp sống ở Xa-ma-ri cùng những người sống ở các nơi khác trong vùng Xuyên Ơ-phơ-rát.

Chào thăm các ngươi.

18 Bức thư các ngươi gởi cho ta đã được phiên dịch và đọc cho ta nghe. 19 Ta ra lệnh sưu tầm sử liệu và việc đó đã được thực hiện. Ta thấy rằng thành Giê-ru-sa-lem có một lịch sử phản nghịch với các vua và là một địa điểm gây rối. 20 Giê-ru-sa-lem trước kia có các vua hùng mạnh cai trị toàn vùng Xuyên Ơ-phơ-rát, và người ta phải đóng đủ loại thuế cho nó. 21 Bây giờ hãy ra lệnh cho các người đó ngưng công tác. Thành Giê-ru-sa-lem không được phép xây lại cho đến khi có lệnh ta. 22 Các ngươi phải thi hành lệnh nầy vì nếu chúng tiếp tục, chính phủ sẽ bị thiệt hại.”

Công tác tái thiết bị tạm ngưng

23 Một bản sao thư vua gởi được đọc cho Rê-hum, và Sê-sai, thư ký và những người khác. Rồi họ vội vàng đi đến dân Do-thái ở Giê-ru-sa-lem và buộc họ ngưng công tác xây cất.

24 Vì thế công tác của đền thờ Thượng Đế ở Giê-ru-sa-lem bị ngưng lại [d] cho đến năm thứ hai [e] khi vua Đa-ri-út lên ngôi vua Ba-tư.

Thư của Tát-tê-nai gởi Đa-ri-út

Các nhà tiên tri A-gai [f] và Xa-cha-ri, con của Y-đô [g], nhân danh Thượng Đế của Ít-ra-en là Đấng cai quản họ, nói tiên tri về dân Do-thái ở Giu-đa và Giu-đa, Rồi Xê-ru-ba-bên, con Sê-anh-tiên, và Giê-sua, con Giô-xa-đác khởi công xây lại đền thờ Thượng Đế ở Giê-ru-sa-lem. Các nhà tiên tri của Thượng Đế có ở đó phụ giúp họ.

Lúc đó, Tát-tê-nai, quan tổng trấn vùng Xuyên Ơ-phơ-rát, Sê-tha-Bô-xê-nai cùng các đồng nghiệp chúng đến cùng người Do-thái hỏi, “Ai cho phép các anh xây lại đền thờ và sửa chữa các vách nầy?” Chúng cũng hỏi, “Tên của những người làm việc trong toà nhà nầy là ai?” Nhưng Thượng Đế của họ trông nom các bô lão của người Giu-đa. Các thợ thuyền không bị gián đoạn công tác cho đến khi báo cáo được gởi về Đa-ri-út và được vua phúc đáp lại.

Đây là bản sao bức thơ do Tát-tê-nai, quan tổng trấn vùng Xuyên Ơ-phơ-rát, Sê-tha-Bô-xê-nai, và những viên chức cao cấp khác thuộc vùng Xuyên Ơ-phơ-rát gởi cho vua Đa-ri-út. Sau đây là nội dung của bản phúc trình họ gởi cho vua:

Kính vua Đa-ri-út.

Nguyện vua hưởng thái bình.

Thưa vua Đa-ri-út, chúng tôi muốn vua biết rằng chúng tôi đã đi thăm khu vực Giu-đa nơi có đền thờ của Thượng Đế cao cả. Người ta đang dùng các tảng đá to để xây đền thờ đó, và dùng gỗ để dựng vách. Họ làm việc rất cực nhọc và xây cất rất nhanh chóng.

Chúng tôi hỏi các bô lão, “Ai cho phép các anh xây lại đền thờ và các vách nầy?” 10 Chúng tôi hỏi tên họ và ghi lại tên của những người lãnh đạo họ để vua rõ.

11 Họ trả lời cho chúng tôi như sau:

“Chúng tôi là tôi tớ của Thượng Đế của trời đất. Chúng tôi đang xây lại đền thờ mà một vì vua lớn của Ít-ra-en đã xây và hoàn tất cách đây nhiều năm. 12 Nhưng tổ tiên chúng tôi chọc giận Thượng Đế trên trời cho nên Ngài trao họ cho Nê-bu-cát-nết-xa, vua Ba-by-lôn, người tiêu hủy đền thờ nầy và bắt họ làm tù binh đày sang Ba-by-lôn.

13 Sau đó, năm đầu tiên vừa lên ngôi, Xi-ru, vua Ba-by-lôn ra chỉ thị đặc biệt cho phép xây lại đền thờ nầy. 14 Vua Xi-ru mang những chén bát cùng chảo bằng vàng và bạc đã lấy từ đền thờ Thượng Đế ra khỏi đền thờ ở Ba-by-lôn. Nê-bu-cát-nết-xa đã lấy những thứ đó khỏi đền thờ ở Giê-ru-sa-lem và để trong đền thờ ở Ba-by-lôn. Vua Xi-ru trả lại các món đó cho Sết-ba-xa, quan tổng trấn do vua bổ nhiệm.”

15 Xi-ru bảo ông, “Hãy lấy các chén bát và chảo bằng vàng và bạc nầy đem để lại trong đền thờ tại Giê-ru-sa-lem và xây lại đền thờ Thượng Đế trên nền cũ của nó.” 16 Vậy Sết-ba-xa trở về và đặt nền của đền thờ Thượng Đế tại Giê-ru-sa-lem. Từ ngày đó đến nay công tác vẫn tiến hành nhưng chưa hoàn tất.

17 Bây giờ, nếu đẹp ý vua, xin cho sưu tầm sử ký hoàng gia tại Ba-by-lôn. Xem thử vua Xi-ru có ra chỉ thị cho phép xây lại đền thờ nầy ở Giê-ru-sa-lem không. Rồi xin vua cho chúng tôi biết quyết định của vua.

Sắc lệnh của vua Đa-ri-út

Vậy vua Đa-ri-út ra lệnh sưu tầm sử liệu lưu trữ trong ngân khố ở Ba-by-lôn. Người ta tìm được một cuộn giấy ở Éc-ba-ta-na, thủ đô Ba-tư. Sau đây là những bút lục ghi trên đó.

Lưu ý: Vua Xi-ru ra sắc lệnh về đền thờ Thượng Đế ở Giê-ru-sa-lem vào năm đầu tiên sau khi lên ngôi. Chỉ thị đó như sau:

“Đền thờ được phép xây lại để làm nơi dâng của lễ. Cho phép đặt nền; chiều cao đền thờ là ba mươi mốt thước [h], rộng ba mươi mốt thước. Có ba lớp đá lớn [i] rồi một lớp gỗ. Phí tổn do ngân khố nhà vua đài thọ. Những vật dụng bằng vàng và bạc từ đền thờ Thượng Đế phải được trả lại và đặt vào vị trí cũ. Nê-bu-cát-nết-xa đã lấy những món đó từ đền thờ ở Giê-ru-sa-lem, mang qua Ba-by-lôn nhưng những món đó phải được đặt lại trong đền thờ Thượng Đế ở Giê-ru-sa-lem.”

“Bây giờ, Tát-tê-nai, quan tổng trấn vùng Xuyên Ơ-phơ-rát, Sê-tha-Bô-xê-nai, và các viên chức vùng đó hãy giang ra. Không được phá khuấy công tác của đền thờ Thượng Đế. Hãy để thống đốc của người Do-thái và các bô lão Do-thái xây lại đền thờ nầy trên nền cũ.

Ngoài ra ta ra lệnh cho ngươi làm như sau cho các bô lão Do-thái đang xây lại đền thờ: Phí tổn xây cất phải hoàn toàn do ngân khố hoàng gia đài thọ, lấy từ thuế thu được ở vùng Xuyên Ơ-phơ-rát. Ngươi hãy thi hành lệnh nầy để công tác không bị ngưng trệ. Hãy cung cấp cho những người đó bất cứ thứ gì họ cần: bò tơ đực, chiên đực hay chiên con để làm của lễ thiêu cho Thượng Đế trên trời, lúa mì, muối, rượu, hay dầu ô-liu. Hãy cung cấp cho các thầy tế lễ ở Giê-ru-sa-lem bất cứ thứ gì họ yêu cầu mỗi ngày không được chậm trễ. 10 Như thế để họ dâng của lễ làm vui lòng Thượng Đế trên trời và cũng để họ cầu nguyện cho mạng sống của vua và các hoàng tử.

11 Ngoài ra, ta cũng ra lệnh nầy: Nếu ai thay đổi lệnh nầy thì phải rút một cây đà ra khỏi nhà nó và đâm xuyên qua người nó. Vì tội ác nó, nhà nó phải biến thành đống cây vụn. 12 Thượng Đế đã chọn Giê-ru-sa-lem làm nơi người ta thờ phụng Ngài. Nguyện Ngài trừng phạt vua nào hay người nào tìm cách thay đổi lệnh nầy hay hủy phá đền thờ nầy.

Ta, Đa-ri-út, ra lệnh nầy. Phải thi hành lệnh nầy mau chóng và cẩn thận.”

Hoàn tất công tác xây cất và lễ khánh thành đền thờ

13 Vì thế, Tát-tê-nai, quan tổng trấn vùng Xuyên Ơ-phơ-rát, Sê-thê-Bô-xê-nai, và các đồng nghiệp họ vội vàng thi hành lệnh vua Đa-ri-út một cách cẩn thận. 14 Các bô lão Do-thái tiếp tục công tác xây cất và thành công vì lời giảng dạy của nhà tiên tri A-gai, và Xa-cha-ri, một con cháu của Y-đô. Họ hoàn tất công tác xây đền thờ theo như Thượng Đế của Ít-ra-en truyền dặn và theo sắc lệnh của các vua Xi-ru, Đa-ri-út, và Ạc-ta-xét-xe của Ba-tư. 15 Đền thờ được hoàn tất vào ngày ba tháng A-đa [j], năm thứ sáu đời vua Đa-ri-út. [k]

16 Rồi dân Ít-ra-en hân hoan kỷ niệm và dâng hiến đền thờ cho Thượng Đế để tôn kính Ngài. Mọi người đều vui vẻ: các thầy tế lễ, người Lê-vi, và toàn thể dân Giu-đa trở về từ cuộc lưu đày. 17 Họ dâng đền thờ cho Thượng Đế bằng một trăm con bò đực, hai trăm con chiên đực, bốn trăm con chiên con làm của lễ. Và để làm của lễ chuộc tội cho toàn dân Ít-ra-en, họ dâng mười hai con chiên đực, mỗi con đại diện cho một chi tộc trong Ít-ra-en. 18 Sau đó họ chia các thầy tế lễ và người Lê-vi ra hai nhóm riêng biệt. Mỗi nhóm phục vụ Thượng Đế ở đền thờ ở Giê-ru-sa-lem theo thời gian ấn định như sách Mô-se đã ghi.

Kỷ niệm Lễ Vượt Qua

19 [l] Những người Do-thái hồi hương từ cuộc lưu đày cử hành Lễ Vượt Qua vào ngày mười bốn tháng giêng [m]. 20 Các thầy tế lễ và người Lê-vi đã dọn mình thanh sạch. Sau đó người Lê-vi giết các con chiên con dùng cho Lễ Vượt Qua cho toàn thể dân chúng đã trở về từ cuộc lưu đày, cho thân nhân của họ là các thầy tế lễ, và cho chính mình. 21 Vậy toàn dân Ít-ra-en đã trở về từ cuộc lưu đày ăn con chiên của Lễ Vượt Qua. Dân chúng đã từ bỏ những lối sống không tinh sạch của các lân bang ngoại quốc để thờ phụng CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en. 22 Trong bảy ngày họ vui mừng kỷ niệm Lễ Bánh Không Men. CHÚA đã khiến họ vui mừng bằng cách thay đổi lòng của vua A-xy-ri [n] để vua giúp họ trong công tác xây cất đền thờ Thượng Đế của Ít-ra-en.

Footnotes

  1. Ê-xơ-ra 4:6 Xét-xe Vua Ba-tư, trị vì khoảng năm 485–465 trước Công nguyên.
  2. Ê-xơ-ra 4:7 Thư đó … dịch ra Hay “Thư được viết bằng ngôn ngữ địa phương nhưng dùng chữ viết A-ram và được dịch ra tiếng A-ram” nghĩa là học giả dùng chữ viết A-ram hiện đại chứ không phải loại chữ viết xưa mà xứ Giu-đa lúc ấy đang sử dụng.
  3. Ê-xơ-ra 4:12 xây lại vách Đây là cách bảo vệ thành phố. Những người nầy muốn cho nhà vua nghĩ rằng các người Do-thái đang chuẩn bị phản nghịch lại vua.
  4. Ê-xơ-ra 4:24 Vì thế … ngưng lại Đây muốn nói đến thời đại vua Xét-xe khi công tác tái thiết đền thờ bị đình chỉ chứ không phải thời đại vua Ạc-ta-xét-xe khi công tác sửa chữa vách thành Giê-ru-sa-lem bị ngưng.
  5. Ê-xơ-ra 4:24 năm thứ hai Tức năm 520 trước Công nguyên.
  6. Ê-xơ-ra 5:1 A-gai Xem A-gai 1:1.
  7. Ê-xơ-ra 5:1 Xa-cha-ri, con của Y-đô Xem Xa 1:1.
  8. Ê-xơ-ra 6:3 ba mươi mốt thước Thước Nguyên văn, “60 cu-bít.”
  9. Ê-xơ-ra 6:4 đá lớn Hay “đá cẩm thạch.”
  10. Ê-xơ-ra 6:15 ngày ba tháng A-đa Theo lịch Do-thái tức khoảng tháng 2-3 dương lịch. Vài bản cổ ghi “ngày 23 tháng A-đa.”
  11. Ê-xơ-ra 6:15 năm thứ sáu đời vua Đa-ri-út Tức khoảng 515 trước Công nguyên.
  12. Ê-xơ-ra 6:19 Những người … Ở đây ngôn ngữ nguyên thủy A-ram được chuyển sang tiếng Hê-bơ-rơ.
  13. Ê-xơ-ra 6:19 tháng giêng Theo lịch Do-thái tức khoảng tháng 3-4 dương lịch, năm 515 trước Công nguyên.
  14. Ê-xơ-ra 6:22 vua A-xy-ri Đây có lẽ là vua Đa-ri-út của Ba-tư.

Sự Chống Ðối Công Cuộc Xây Dựng Lại Ðền Thờ

Khi những kẻ thù của người Giu-đa và người Bên-gia-min nghe rằng những người bị lưu đày nay đã trở về và đã khởi công xây lại Ðền Thờ Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, chúng đến gặp Xê-ru-ba-bên và các vị trưởng tộc và nói với họ, “Xin cho chúng tôi cùng xây dựng Ðền Thờ với quý vị, vì chúng tôi cũng thờ phượng Ðức Chúa Trời của quý vị như quý vị. Chúng tôi đã dâng các của tế lễ lên Ngài kể từ ngày Ê-sạc-hát-đôn[a] vua A-sy-ri đem chúng tôi đến định cư ở đây.”

Nhưng Xê-ru-ba-bên, Giê-sua, và tất cả các vị trưởng tộc của người I-sơ-ra-ên đáp với họ, “Quý vị sẽ không dự phần gì trong việc xây lại Ðền Thờ cho Ðức Chúa Trời của chúng tôi, nhưng chỉ chúng tôi sẽ xây dựng lại Ðền Thờ cho Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, như Sy-ru[b] vua Ba-tư đã truyền cho chúng tôi.”

Bấy giờ dân đã cư ngụ sẵn trong xứ lấy làm bất mãn về quyết định của người Do-thái, vì thế chúng quyết tâm làm cho họ phải lo sợ trong việc tái xây dựng Ðền Thờ. Chúng hối lộ các mưu sĩ để bọn đó ton hót với vua hầu làm ngưng công cuộc tái xây dựng. Do đó công việc đã bị đình trệ suốt triều đại của Sy-ru vua Ba-tư mãi đến triều đại của Ða-ri-út[c] vua Ba-tư.

Chi Tiết về Nỗ Lực Cản Trở Việc Xây Dựng Lại Ðền Thờ

Vào triều đại của A-ha-suê-ru,[d] trong năm ông vừa mới đăng quang, chúng làm một bản cáo trạng gởi lên vu cáo dân Do-thái và Giê-ru-sa-lem.

Trong thời của Ạc-ta-xẹc-xe:[e] Bích-lam, Mít-rê-đát, Ta-bê-ên, và đồng bọn của chúng đã viết một bản cáo trạng tâu với Ạc-ta-xẹc-xe vua Ba-tư. Bản cáo trạng ấy được viết bằng tiếng A-ram và dịch ra từ tiếng A-ram.

Rê-hum tổng trấn và Sim-sai thư ký đã viết một văn thư tố cáo Giê-ru-sa-lem gởi lên Vua Ạc-ta-xẹc-xe với nội dung như sau:

“Rê-hum tổng trấn, Sim-sai thư ký, các quan đồng liêu, các thẩm phán, các khâm sai, các viên chức chính quyền, các nhà lãnh đạo người Ba-tư, các nhà lãnh đạo người Ê-rết, các nhà lãnh đạo người Ba-by-lôn, các nhà lãnh đạo dân Su-san tức dân Ê-lam, 10 và toàn thể các dân mà ngài Ốt-náp-pa vĩ đại và lừng danh đã trục xuất và đem đến định cư trong các thành ở Sa-ma-ri và trong các miền của tỉnh Bên Kia Sông,[f] đồng tấu:” 11 (và đây là bản sao cáo trạng chúng đã gởi):

“Tâu Vua Ạc-ta-xẹc-xe:

Các tôi tớ của hoàng thượng, tức các dân sống trong tỉnh Bên Kia Sông kính lời chào thăm hoàng thượng. Bây giờ 12 chúng thần xin kính trình để hoàng thượng được kính tường:

Bọn Do-thái rời khỏi hoàng thượng đã đến với chúng thần và chúng đã về tới Giê-ru-sa-lem. Hiện nay chúng đang xây dựng lại cái thành phản loạn và gian ác ấy. Chúng sắp sửa xây xong các tường thành và đang xây sửa các nền móng của Ðền Thờ. 13 Kính tâu để hoàng thượng được tường rằng: nếu thành ấy được xây lại xong và các tường thành của nó được hoàn tất, thì chúng sẽ không nộp triều cống, không đóng thuế, và không nộp thuế lưu thông cho hoàng thượng nữa. Như vậy công quỹ của hoàng thượng sẽ bị thiệt thòi. 14 Nay vì chúng thần được hưởng lộc của hoàng thượng,[g] chúng thần không nỡ nhìn thấy hoàng thượng phải bị thiệt hại, vì thế chúng thần đồng kính gởi bản báo cáo nầy lên hoàng thượng. 15 Kính xin hoàng thượng cho lục lại trong văn khố của các tiên vương. Chúng thần tin rằng các văn kiện ấy sẽ cho hoàng thượng thấy rõ thành ấy quả là một thành phản loạn, đã gây nhiều phiền phức cho các tiên vương và các tỉnh, một thành có lịch sử chuyên môn dấy loạn, vì thế nó đã bị hủy diệt. 16 Chúng thần xin quả quyết với hoàng thượng rằng một khi thành ấy được xây lại xong, và các tường thành của nó được hoàn tất, hoàng thượng sẽ bị mất hết cả tỉnh Bên Kia Sông.”

17 Thế là vua ban một sắc lệnh để trả lời:

“Gởi Rê-hum tổng trấn, Sim-sai thư ký, và tất cả các quan chức ở Sa-ma-ri và các miền khác trong tỉnh Bên Kia Sông:

Chào tất cả.

18 Bức thư các ngươi gởi đến ta đã được dịch ra và đọc rõ trước mặt ta. 19 Ta đã truyền cho lục trong văn khố và đã thấy thành ấy quả là thành có thành tích phản loạn chống lại các tiên vương. Thành ấy đúng là cái nôi của sự phản loạn và dấy nghịch. 20 Giê-ru-sa-lem đã từng có các vua hùng cường trị vì ở đó. Dân trong các miền của tỉnh Bên Kia Sông đã từng nộp triều cống, đóng thuế, và nộp thuế lưu thông cho các vua ấy. 21 Nay các ngươi hãy truyền lịnh của ta cho những người ấy rằng chúng phải đình chỉ ngay công việc tái thiết, để thành ấy không được xây dựng lại cho đến khi ta có quyết định mới. 22 Các ngươi khá cẩn thận và chớ lơ đễnh thi hành việc nầy. Tại sao các ngươi để cho vua bị thiệt hại thêm?”

23 Khi bản sao sắc lệnh của vua được đọc cho Rê-hum tổng trấn, Sim-sai thư ký, và bè lũ của chúng, chúng vội vàng kéo đến Giê-ru-sa-lem để gặp người Do-thái và dùng quyền lực cùng vũ lực bắt buộc họ phải đình chỉ ngay công cuộc tái thiết. 24 Vậy công cuộc tái thiết Ðền Thờ Ðức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem đã bị ngưng trệ. Việc ấy đã bị gián đoạn mãi cho đến năm thứ hai[h] của triều đại Ða-ri-út vua Ba-tư.

Ðền Thờ Ðược Tiếp Tục Xây Dựng

Lúc ấy Tiên Tri Ha-gai[i] và Tiên Tri Xa-cha-ri[j] thuộc dòng dõi của I-đô đã nhân danh Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, Ðấng ngự trên họ, để nói tiên tri động viên người Do-thái. Bấy giờ Xê-ru-ba-bên con của Sê-anh-ti-ên và Giê-sua con của Giô-xa-đắc đứng dậy tiếp tục xây dựng lại Nhà Ðức Chúa Trời ở Giê-ru-sa-lem. Họ có các vị tiên tri của Ðức Chúa Trời hỗ trợ.

Lúc đó Tát-tê-nai tổng trấn của tỉnh Bên Kia Sông, cùng với Sê-tha Bô-xê-nia, và đồng bọn của chúng đến nói với họ, “Ai cho phép các ông xây lại Ðền Thờ nầy và tái thiết bức tường nầy?” Chúng cũng hỏi họ, “Ai là những người chủ xướng việc xây dựng nầy?” Nhưng mắt Ðức Chúa Trời của họ đoái xem họ, tức các vị trưởng lão của dân Do-thái, nên họ không chịu bỏ dở công cuộc tái thiết cho đến khi họ gởi bản tường trình tâu với Ða-ri-út và nhận được văn thư phúc đáp của vua bày tỏ quyết định rõ ràng về việc ấy.

Ðây là bản sao bức thư của Tát-tê-nai tổng trấn của tỉnh Bên Kia Sông, cùng với Sê-tha Bô-xê-nia, và đồng bọn của chúng trong tỉnh Bên Kia Sông gởi cho Vua Ða-ri-út. Chúng gởi cho vua một bức thư, nội dung như sau:

“Kính gởi Vua Ða-ri-út:

Kính chúc hoàng thượng được an khang thịnh vượng. Chúng thần xin kính tâu để hoàng thượng được kính tường rằng: Chúng thần đã đến tỉnh Giu-đa, đến Ðền Thờ Ðức Chúa Trời vĩ đại. Dân ở đó đang xây cất Ðền Thờ ấy bằng những khối đá lớn. Các cây đà đã được đặt trên đầu tường. Công việc xây cất ấy được thực hiện một cách rất cần mẫn và đang tiến hành cách tốt đẹp trong tay họ. Chúng thần đã hỏi các trưởng lão của họ và nói với họ thế nầy, ‘Ai cho phép các ông xây lại Ðền Thờ nầy và tái thiết bức tường nầy?’ 10 Chúng thần cũng hỏi họ, ‘Ai là những người chủ xướng việc xây dựng nầy?’ để chúng thần có tên những người cầm đầu của họ mà báo cáo. 11 Nhưng họ đã trả lời với chúng thần như thế nầy, ‘Chúng tôi là tôi tớ của Ðức Chúa Trời, Chủ Tể của trời và đất. Chúng tôi chỉ tái thiết ngôi đền nầy, vốn đã được xây dựng nhiều năm về trước, do một vua vĩ đại của I-sơ-ra-ên đã xây cất và hoàn tất. 12 Nhưng sau đó vì tổ tiên chúng tôi đã chọc giận Ðức Chúa Trời trên trời, nên Ngài đã trao chúng tôi vào tay Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn người Canh-đê. Vua ấy đã phá tan ngôi đền nầy, và bắt dân trong xứ đem lưu đày ở Ba-by-lôn. 13 Nhưng trong năm đầu của Sy-ru vua Ba-by-lôn, Vua Sy-ru đã ban một sắc lệnh truyền xây lại Ðền Thờ Ðức Chúa Trời. 14 Ngay cả các khí dụng bằng vàng và bằng bạc của Ðền Thờ Ðức Chúa Trời mà Nê-bu-cát-nê-xa đã lấy ra khỏi Ðền Thờ ở Giê-ru-sa-lem và đem về để trong đền thờ ở Ba-by-lôn cũng đã được Vua Sy-ru lấy ra khỏi đền thờ ở Ba-by-lôn và trao cho một người tên là Sết-ba-xa, người mà vua ấy đã lập làm tổng trấn. 15 Vua ấy đã nói với ông ta, “Hãy lấy các khí dụng nầy và đi, đem để chúng trong Ðền Thờ ở tại Giê-ru-sa-lem. Hãy xây dựng lại Ðền Thờ Ðức Chúa Trời trên chỗ cũ của đền ấy.” 16 Vì thế Sết-ba-xa đã đến và xây dựng lại nền của Ðền Thờ ở Giê-ru-sa-lem. Từ đó đến nay, công việc xây cất ấy vẫn còn diễn tiến, nhưng chưa hoàn tất.’

17 Vậy bây giờ nếu đẹp lòng hoàng thượng, kính xin hoàng thượng cho truy lục trong văn khố của triều đình tại Ba-by-lôn để xem Vua Sy-ru có thật sự ra sắc lệnh xây lại Ðền Thờ Ðức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem hay không. Sau đó kính xin hoàng thượng cho chúng thần một văn thư xác nhận ý chỉ của hoàng thượng về việc nầy.”

Sắc Lệnh của Ða-ri-út

Vậy Vua Ða-ri-út ra lịnh truy lục trong các kho văn khố, nơi các bửu vật được cất giữ ở Ba-by-lôn. Người ta tìm thấy ở Ðiện Éc-ba-ta-na trong tỉnh Mê-đi-a một cuộn sách, trong đó có viết thế nầy:

“Hồ sơ:

‘Năm thứ nhất của Vua Sy-ru, Vua Sy-ru ban hành một sắc lệnh:

Về Ðền Thờ Ðức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem:

Hãy xây dựng đền ấy lại để làm nơi dâng các con vật hiến tế. Hãy xây dựng nền đền ấy thật vững chắc. Chiều cao của đền sẽ ba mươi mét và chiều rộng sẽ ba mươi mét.[k] Ðền sẽ có ba hàng đá khối và một hàng gỗ mới làm đà ngang. Mọi chi phí sẽ được trang trải từ ngân quỹ của triều đình. Ngoài ra tất cả các khí dụng bằng vàng và bằng bạc trong Ðền Thờ Ðức Chúa Trời mà Nê-bu-cát-nê-xa đã lấy trong Ðền Thờ tại Giê-ru-sa-lem và mang về Ba-by-lôn phải được trả lại, và phải đem về chỗ cũ của chúng trong Ðền Thờ ở Giê-ru-sa-lem; món nào trả về chỗ nấy trong Ðền Thờ Ðức Chúa Trời.’

Vậy bây giờ, hỡi Tát-tê-nai tổng trấn của tỉnh Bên Kia Sông, cùng Sê-tha Bô-xê-nia, và các quan đồng liêu của các ngươi trong tỉnh Bên Kia Sông: Hãy dang xa khỏi nơi đó. Chớ can thiệp vào việc xây lại Ðền Thờ Ðức Chúa Trời. Hãy để tổng trấn của người Do-thái và các trưởng lão của người Do-thái xây lại Ðền Thờ Ðức Chúa Trời trên chỗ cũ của nó.

Ngoài ra ta ban lịnh nầy cho các ngươi, để các ngươi biết phải làm gì với các trưởng lão của dân Do-thái trong việc xây lại Ðền Thờ Ðức Chúa Trời:

Các ngươi hãy lấy tiền thuế nộp cho triều đình của tỉnh Bên Kia Sông trả các chi phí cho những người ấy. Các ngươi khá làm việc ấy ngay, để công việc xây cất Ðền Thờ ấy không bị chậm trễ. Ngoài ra những gì các tư tế ở Giê-ru-sa-lem cần có để làm các của lễ thiêu dâng lên Ðức Chúa Trời trên trời như các bò đực tơ, các chiên đực, các chiên con, hoặc lúa mì, muối, rượu, và dầu, thì các ngươi khá cung cấp cho đầy đủ mỗi ngày, chớ để bị thiếu, 10 hầu họ có thể dâng các của lễ có mùi thơm lên Ðức Chúa Trời trên trời và cầu nguyện cho vua và các hoàng tử được an khang trường thọ.

11 Ngoài ra ta cũng ban lịnh nầy: Bất cứ kẻ nào vi phạm sắc lệnh nầy, hãy lấy một cây đà trong nhà nó, dựng lên, và treo cổ nó trên đó; và vì cớ nó dám vi phạm sắc lệnh nầy, hãy biến nhà nó thành ra một chỗ đổ phân.

12 Cầu xin Ðức Chúa Trời, Ðấng đã chọn đặt danh Ngài tại Giê-ru-sa-lem[l] lật đổ mọi vua và mọi nước nào dám thay đổi sắc lệnh nầy và dám phá hủy Ðền Thờ Ðức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem.

Ta, Ða-ri-út, ban hành sắc lệnh nầy. Các ngươi khá cần mẫn mà thi hành.”

Hoàn Tất Công Trình Xây Dựng Lại Ðền Thờ

13 Bấy giờ Tát-tê-nai tổng trấn của tỉnh Bên Kia Sông, cùng Sê-tha Bô-xê-nia, và các quan đồng liêu của họ trong tỉnh Bên Kia Sông bèn thi hành một cách chu đáo sắc lệnh của vua đã ban ra. 14 Các trưởng lão của người Do-thái đã tái thiết và thành công dưới sự giảng dạy[m] của Tiên Tri Ha-gai và Xa-cha-ri một người trong dòng dõi của I-đô. Họ hoàn tất chương trình xây cất theo lịnh Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên và theo sắc lệnh của Sy-ru, Ða-ri-út, và Ạc-ta-xẹc-xe vua Ba-tư. 15 Vậy Ðền Thờ ấy đã được xây lại xong vào ngày mồng ba tháng A-đa năm thứ sáu[n] của triều đại Ða-ri-út.

Lễ Khánh Thành Ðền Thờ

16 Sau đó dân I-sơ-ra-ên, gồm các tư tế, những người Lê-vi, và dân lưu đày trở về đã tổ chức lễ khánh thành[o] Ðền Thờ Ðức Chúa Trời một cách vui mừng. 17 Ðể cử hành lễ khánh thành Ðền Thờ Ðức Chúa Trời, họ dâng một trăm con bò đực, hai trăm con chiên đực, và bốn trăm con chiên con để làm của lễ chuộc tội cho toàn dân I-sơ-ra-ên. Họ cũng dâng mười hai con dê đực, mỗi con cho một chi tộc của dân I-sơ-ra-ên. 18 Họ lập các tư tế vào các phẩm trật của họ và những người Lê-vi vào các chức vụ của họ, để đảm trách việc thờ phượng Ðức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem, theo những gì đã viết trong Sách của Môi-se.

Cử Hành Lễ Vượt Qua

19 Ngày mười bốn tháng giêng,[p] dân lưu đày trở về đã cử hành Lễ Vượt Qua. 20 Các tư tế và những người Lê-vi thanh tẩy chính họ và tất cả đều được thanh sạch theo nghi thức tôn giáo. Những người Lê-vi giết con vật hiến tế của Lễ Vượt Qua cho toàn dân lưu đày trở về, cho bà con dòng họ của họ là các tư tế, và cho chính họ.

21 Vậy dân I-sơ-ra-ên trở về từ chốn lưu đày đã ăn thịt con vật hiến tế. Họ đã ăn thịt con vật ấy với những người đã tự ý tách rời khỏi cách thờ phượng cúng bái bất khiết của các dân sống trong xứ hầu tìm kiếm Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên. 22 Họ đã hân hoan cử hành Lễ Bánh Không Men bảy ngày, vì Chúa đã ban cho lòng họ tràn đầy niềm vui vì Ngài đã thay đổi lòng của vua A-sy-ri đối với họ. Ông ấy đã giúp đỡ họ trong việc tái xây dựng Ðền Thờ Ðức Chúa Trời, Thần[q] của dân I-sơ-ra-ên.

Footnotes

  1. Ê-xơ-ra 4:2 Ê-sạc-hát-đôn (681-669 T.C.)
  2. Ê-xơ-ra 4:3 Sy-ru (559-530 T.C.)
  3. Ê-xơ-ra 4:5 Ða-ri-út I (522-486 T.C.)
  4. Ê-xơ-ra 4:6 Cũng gọi là Xẹc-xe (486-465 T.C.)
  5. Ê-xơ-ra 4:7 Tức Aïc-ta-xẹc-xe I (465-424 T.C.)
  6. Ê-xơ-ra 4:10 Sông Ơ-phơ-rát
  7. Ê-xơ-ra 4:14 nt: được hưởng muối của hoàng cung
  8. Ê-xơ-ra 4:24 Khoảng 520-519 T.C.
  9. Ê-xơ-ra 5:1 Bắt đầu từ 29-8-520 T.C. (Ha-gai 1:1) cho đến 18-12-520 T.C. (Ha-gai 2:1, 10, 20)
  10. Ê-xơ-ra 5:1 Khoảng tháng 10-11 năm 520 T.C. (Xac 1:1)
  11. Ê-xơ-ra 6:3 nt: cao 60 cubits, rộng 60 cubits (ammah)
  12. Ê-xơ-ra 6:12 nt: tại đó
  13. Ê-xơ-ra 6:14 nt: nói tiên tri
  14. Ê-xơ-ra 6:15 Tức ngày 12 tháng 3 năm 516 T.C.
  15. Ê-xơ-ra 6:16 nt: Khanukka (tiếng A-ram) (nguồn gốc của Lễ Hanukkah của người Do-thái ngày nay. Năm 165 T.C. người Do-thái giành lại độc lập khỏi quân ngoại xâm, họ thanh tẩy Ðền Thờ và tái dâng hiến (khanukka) Ðền Thờ một lần nữa. Từ đó lễ ấy trở thành một quốc lễ.)
  16. Ê-xơ-ra 6:19 Tức ngày 21 tháng 4 năm 516 T.C.
  17. Ê-xơ-ra 6:22 ctd: Ðức Chúa Trời (Elohim)

Dân Ít-ra-en bị lưu đày

137 Chúng tôi ngồi bên các sông Ba-by-lôn và khóc khi tưởng nhớ đến Giê-ru-sa-lem.
Chúng tôi treo đờn cầm trên cây dương liễu gần đó.
Những kẻ bắt chúng tôi làm tù binh bảo chúng tôi hát;
    Kẻ thù chúng tôi muốn nghe bài ca vui.
    Chúng bảo,
    “Hãy hát cho chúng ta nghe một bài về Giê-ru-sa-lem đi!”
Nhưng chúng tôi làm sao hát về Chúa được trong khi chúng tôi đang bị lưu đày ở nước người?
Giê-ru-sa-lem ơi, nếu ta quên ngươi,
    nguyện tay phải ta mất khả năng đi.
Nếu ta không còn nhớ ngươi nữa
    hay nếu ta không nghĩ đến ngươi như là niềm vui nhất của ta
    thì nguyện lưỡi ta kẹt dính nơi vòm họng.

Lạy Chúa, xin hãy nhớ lại điều dân Ê-đôm làm trong ngày Giê-ru-sa-lem thất thủ.
    Chúng bảo, “Hãy phá sập nó đi!
    Hãy phá sập cho đến tận nền nó đi!”
Hỡi dân Ba-by-lôn,
    các ngươi sẽ bị tiêu diệt.
Những kẻ báo trả các ngươi về điều các ngươi làm cho chúng ta sẽ vui mừng.
Chúng sẽ bắt con nhỏ các ngươi ném vào tảng đá.

Lòng Buồn Thảm của Những Người Bị Lưu Ðày

Chúng tôi ngồi bên bờ sông ở Ba-by-lôn;
Chúng tôi nhớ đến Si-ôn và khóc.
Chúng tôi treo cây đàn của mình trên cành liễu bên sông,
Vì những kẻ đem chúng tôi lưu đày bắt chúng tôi phải hát;
Những kẻ hành hạ chúng tôi bắt chúng tôi phải ca;
Chúng bảo, “Hãy hát cho chúng tôi nghe những bài ca của Si-ôn.”
Nơi đất khách quê người,
Làm sao chúng tôi có thể hát được bài ca tôn ngợi Chúa?

Hỡi Giê-ru-sa-lem, nếu ta quên ngươi,
Nguyện tay phải ta quên tài năng của nó.
Nếu ta không còn nhớ đến ngươi,
Nếu ta không thích Giê-ru-sa-lem hơn điều gì vui nhất của ta,
Nguyện lưỡi ta dính cứng vào hốc miệng ta.

Chúa ôi, xin nhớ lại những lời dân Ê-đôm đã nói trong ngày Giê-ru-sa-lem bị thất thủ,
Chúng bảo, “Hãy phá hủy nó. Hãy san bằng nó thành bình địa.”
Hỡi con gái của Ba-by-lôn, kẻ sẽ bị tiêu diệt,
Phước cho người nào báo trả ngươi, về những đau khổ ngươi gây cho chúng ta.
Phước cho người nào bắt các con thơ của ngươi,
Và đập chúng vào các gành đá!