Add parallel Print Page Options

Vua Xi-ru cho phép dân lưu vong hồi hương

Trong năm đầu [a] sau khi lên ngôi vua Ba-tư, CHÚA cảm động lòng Xi-ru nên vua ra chỉ thị toàn quốc để lời CHÚA phán qua nhà tiên tri Giê-rê-mi được thành tựu [b]. Vua viết:

“Xi-ru, vua Ba-tư ra chỉ thị:

CHÚA, Thượng Đế trên trời, đã ban cho ta mọi nước trên đất, và Ngài chỉ định ta xây đền thờ cho Ngài tại Giê-ru-sa-lem trong Giu-đa. Nguyện Thượng Đế ở cùng các ngươi là dân sự Ngài. Các ngươi được tự do trở về Giê-ru-sa-lem xứ Giu-đa để xây đền thờ cho CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en là Đấng ngự ở Giê-ru-sa-lem. Những ai còn ở lại, bất kỳ nơi nào, phải giúp những người muốn hồi hương. Hãy cho họ vàng, bạc, đồ dùng, gia súc, và những lễ vật cho đền thờ của Thượng Đế ở Giê-ru-sa-lem.”

Sau đó các trưởng gia đình của Giu-đa và Bên-gia-min, cùng các thầy tế lễ và người Lê-vi sẵn sàng lên đường về Giê-ru-sa-lem mỗi người tùy theo Thượng Đế thúc giục về Giê-ru-sa-lem để xây lại đền thờ CHÚA. Tất cả các láng giềng đều giúp đỡ họ, cấp cho họ những đồ dùng bằng bạc, vàng, cùng với các vật dụng, gia súc, những tặng vật quí giá, và các vật dâng hiến cho đền thờ. Ngoài ra, vua Xi-ru cũng mang ra các chén bát và chảo thuộc về đền thờ của CHÚA mà vua Nê-bu-cát-nết-xa đã lấy từ Giê-ru-sa-lem rồi để trong đền thờ của thần mình. Xi-ru vua Ba-tư bảo Mít-rê-đít, thủ quỹ mang các vật đó ra và đếm trước mặt Sết-ba-xa, quan trưởng của Giu-đa.

Ông kiểm kê ba mươi cái dĩa vàng, một ngàn dĩa bạc, hai mươi chín cái chảo, 10 ba mươi cái chén vàng, bốn trăm mười chén bạc cùng bộ, và một ngàn món khác.

11 Tổng cộng năm ngàn bốn trăm món đồ bằng vàng và bạc. Sết-ba-xa mang các món đó theo mình khi các tù binh lên đường hồi hương từ Ba-by-lôn về Giê-ru-sa-lem.

Những tù nhân lưu vong hồi hương

Sau đây là danh sách những người trong vùng trở về từ cuộc lưu đày. Họ đã bị Nê-bu-cát-nết-xa, vua Ba-by-lôn bắt đày sang Ba-by-lôn. Họ trở về lại Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, ai về thành nấy. Những người sau đây trở về cùng Xê-ru-ba-bên, Nê-hê-mi, Sê-rai-gia, Rê-ê-lai-gia, Mạc-đô-chê, Binh-san, Bích-vai, Rê-hum và Ba-a-na.

Những người sau đây thuộc dân Ít-ra-en: con cháu Ba-rốt: 2.172 người; con cháu Sê-pha-tia: 372 người; con cháu A-ra: 775 người; con cháu Ba-hát Mô-áp, qua gia đình Giê-sua và Giô-áp: 2.812 người; con cháu Ê-lam: 1.254 người; con cháu Xát-tu: 945 người: con cháu Xác-cai: 760 người; 10 con cháu Ba-ni: 642 người; 11 con cháu Bê-bai: 623 người; 12 con cháu Ác-gác: 1.222 người; 13 con cháu A-đô-ni-cam: 66 người; 14 con cháu Bích-vai: 2.056 người; 15 con cháu A-đinh: 454 người; 16 con cháu A-te, qua gia đình Xê-đê-kia: 98 người; 17 con cháu Bê-xai: 323 người; 18 con cháu Giô-ra: 112 người; 19 con cháu Ha-sum: 223 người; 20 con cháu Ghíp-ba: 95 người;

21 Sau đây là những người thuộc thị trấn Bết-lê-hem: 123 người; 22 thị trấn Nê-tô-pha: 56 người; 23 thị trấn A-na-thốt: 128 người; 24 thị trấn Ách-ma-vết: 42 người; 25 thị trấn Ki-ri-át Giê-a-rim, Kê-phi-ra, và Bê-ê-rốt: 743 người; 26 thị trấn Ra-ma và Ghê-ba: 621 người; 27 thị trấn Mích-mát: 122 người; 28 thị trấn Bê-tên và A-hi: 223 người; 29 thị trấn Nê-bô: 52 người; 30 thị trấn Mác-bích: 156 người; 31 thị trấn Ê-lam khác: 1.254 người; 32 thị trấn Ha-rim: 320 người; 33 thị trấn Lốt, Ha-đích, và Ô-nô: 725 người; 34 thị trấn Giê-ri-cô: 345 người; 35 thị trấn Sê-na-a: 3.630 người;

36 Những người sau đây là các thầy tế lễ: con cháu Giê-đai-gia, qua gia đình Giê-sua: 973 người; 37 con cháu Im-mê: 1.052 người; 38 con cháu Ba-sua: 1.247 người; 39 con cháu Ha-rim: 1.017 người;

40 Sau đây là người Lê-vi: con cháu Giê-sua và Cát-miên, qua gia đình Hô-đa-via: 74 người;

41 Sau đây là các ca sĩ: con cháu A-sáp: 128 người;

42 Sau đây là những người giữ cửa của đền thờ: con cháu Sa-lum, A-te, Thanh-môn, Ác-cúp, Ha-ti-ta, và Sô-bai: 139 người;

43 Sau đây là những người giúp việc trong đền thờ: con cháu Xi-ha, Ha-su-pha, Ta-ba-ốt, 44 Kê-rô, Si-a-ha, Ba-đôn, 45 Lê-ba-na, Ha-ga-ba, Ác-cúp, 46 Ha-gáp, Sanh-mai, Ha-nan, 47 Ghi-đên, Ga-ha, Rê-a-gia, 48 Rê-xin, Nê-cô-đa, Ga-xam, 49 U-xa, Ba-sê-a, Bê-sai, 50 Át-na, Mê-u-nim, Nê-phu-xim, 51 Bác-búc, Ha-cu-pha, Ha-sua, 52 Ba-lút, Mê-hi-đa, Hát-sa, 53 Bác-cô, Xi-xê-ra, Thê-ma, 54 Nê-xia, và Ha-ti-pha.

55 Sau đây là con cháu của các tôi tớ Sô-lô-môn: con cháu Sô-tai, Hát-xô-phê-rết; Bê-ru-đa, 56 Gia-a-la, Đác-côn, Ghít-đên, 57 Sê-pha-tia, Hát-tin, Bô-kê-rết Ha-xê-ba-im, và A-mi.

58 Các người giúp việc trong đền thờ và con cháu của các tôi tớ Sô-lô-môn tổng cộng là 392 người;

59 Một số người đến Giê-ru-sa-lem từ các thị trấn Tê-Ma-la, Tê-Ha-sa, Kê-rúp, Ách-đan, và Im-mê, nhưng họ không chứng minh được tổ tiên mình là người Ít-ra-en. 60 Họ là con cháu Đê-lai-gia, Tô-bia, và Nê-cô-đa gồm 652 người;

61 Ngoài ra các thầy tế lễ sau đây: con cháu Hô-bai-gia, Hác-cô, và Bát-xi-lai, người lấy con gái của Bát-xi-lai từ Ghi-lê-át và mang tên gia đình vợ mình. 62 Họ tra cứu gia phổ nhưng không thấy tên cho nên không được làm chức tế lễ vì họ bị xem như không tinh sạch. 63 Quan tổng trấn không cho phép họ ăn những món đã được dâng cho Thượng Đế cho đến khi một thầy tế lễ dùng U-rim và Thu-mim để giải quyết vấn đề nầy.

64 Tổng số người hồi hương là: 42.360 người. 65 Trong số đó không tính 7.337 tôi trai tớ gái và 200 nam nữ ca sĩ cùng đi với họ. 66 Họ có 736 con ngựa, 245 con la, 67 435 con lạc đà, và 6.720 con lừa.

68 Khi đến đền thờ của CHÚA tại Giê-ru-sa-lem thì một số trưởng gia đình dâng hiến của cải để xây lại đền thờ Thượng Đế trên địa điểm cũ. 69 Họ dâng hết sức theo khả năng vào ngân khố để tái thiết đền thờ: khoảng 1.100 cân [c] vàng, 6.000 cân [d] bạc, và 100 bộ áo cho các thầy tế lễ.

70 Tất cả các người Ít-ra-en định cư trong các thị trấn quê quán mình. Các thầy tế lễ, người Lê-vi, các ca sĩ, người giữ cửa, người giúp việc trong đền thờ, cùng với những người khác đều định cư trong thị trấn mình.

Xây lại bàn thờ

Vào tháng bảy [e] sau khi dân Ít-ra-en đã định cư tại các thị trấn nhà của mình thì họ họp nhau lại tại Giê-ru-sa-lem. Giê-sua con Giô-xa-đác và các thầy tế lễ đồng nghiệp cùng với Xê-ru-ba-bên, con của Sê-anh-tiên bắt đầu xây lại bàn thờ Thượng Đế của Ít-ra-en để dâng của lễ thiêu theo như lời chỉ dạy của Mô-se, người của Thượng Đế. Mặc dù còn sợ các dân tộc xung quanh, họ vẫn xây lại đền thờ tại chỗ cũ. Rồi họ dâng của lễ thiêu trên đó cho CHÚA mỗi sáng mỗi chiều. Sau đó họ vâng theo lời đã được ghi chép và cử hành Lễ Lều Tạm. Họ dâng đúng số sinh tế mỗi ngày cho cuộc lễ. Sau Lễ Lều Tạm, họ dâng sinh tế đều đặn mỗi ngày cũng như sinh tế vào ngày Trăng Mới và mọi buổi lễ theo như CHÚA truyền dặn. Ngoài ra cũng có những lễ vật đặc biệt cho CHÚA. Vào ngày đầu tiên tháng bảy, họ bắt đầu dâng của lễ thiêu cho CHÚA, tuy nhiên người ta chưa đặt nền cho đền thờ CHÚA.

Xây lại đền thờ

Rồi họ trao tiền cho thợ nề và thợ mộc. Họ cũng dùng thực phẩm, rượu và dầu ô-liu trả công cho dân cư thành Xi-đôn và Tia để các thành ấy thả trôi các khúc gỗ hương nam từ Li-băng xuống thành Giốp-ba trên bờ biển. Xi-ru, vua Ba-tư đã cho phép làm việc đó.

Vào tháng hai [f] năm thứ hai sau khi họ đến đền thờ của Thượng Đế tại Giê-ru-sa-lem thì Xê-ru-ba-bên, con Sê-anh-tiên, Giê-sua con Giô-xa-đác, các thầy tế lễ đồng nghiệp, các người Lê-vi cùng những người đã trở về Giê-ru-sa-lem từ cuộc lưu đày bắt tay vào việc. Họ chọn những người Lê-vi từ hai mươi tuổi trở lên để lo việc xây cất đền thờ CHÚA. Những người sau đây chịu trách nhiệm xây cất đền thờ của Thượng Đế: Giê-sua cùng các con trai và anh em ông, Cát-miên cùng các con trai là con cháu Hô-đa-via; các con trai Hê-na-đát, các con trai và anh em họ. Tất cả đều là người Lê-vi.

10 Những thợ xây cất đặt xong nền của đền thờ CHÚA. Rồi các thầy tế lễ mặc đồng phục đứng cầm kèn, các người Lê-vi, các con trai A-sáp, cũng đứng cầm chập chỏa. Họ đứng vào vị trí và ca ngợi CHÚA theo như Đa-vít, vua Ít-ra-en đã căn dặn. 11 Họ hát những bài ca đối đáp [g] và cảm tạ CHÚA như sau:

“Ngài nhân từ,
    tình yêu Ngài cho Ít-ra-en còn đến đời đời.”

Rồi toàn dân reo mừng, “Chúc tụng CHÚA! Nền của đền thờ đã được đặt xong.”

12 Tuy nhiên các thầy tế lễ già nua, những người Lê-vi cùng các trưởng gia đình đã thấy đền thờ đầu tiên liền khóc lớn khi họ nhìn thấy nền của đền thờ nầy. Hầu hết dân chúng vui mừng hò reo. 13 Họ reo hò lớn đến nỗi ở xa cũng nghe. Không ai phân biệt được tiếng reo hò vui vẻ và tiếng khóc thảm sầu.

Footnotes

  1. Ê-xơ-ra 1:1 năm đầu Tức năm 538 trước Công nguyên.
  2. Ê-xơ-ra 1:1 để lời CHÚA … thành tựu Xem Giê 25:12-14.
  3. Ê-xơ-ra 2:69 1.100 cân Nguyên văn, “61.000 đồng đắc-ma” (khoảng 526 kí-lô).
  4. Ê-xơ-ra 2:69 6.000 cân Nguyên văn, “5.000 đồng mi-na” (khoảng 3.450 kí-lô).
  5. Ê-xơ-ra 3:1 tháng bảy Tức tháng 7 lịch Do-thái, khoảng tháng 9-10 dương lịch, khoảng năm 538 trước Công nguyên.
  6. Ê-xơ-ra 3:8 tháng hai Tức tháng 2 lịch Do-thái, khoảng tháng 4-5 dương lịch, năm 536 trước công nguyên.
  7. Ê-xơ-ra 3:11 bài ca đối đáp Những bài ca nầy được hát làm 2 phần. Một nhóm người Lê-vi hát phần đầu, và nhóm kia là dân chúng đáp lại bằng cách hát phần thứ nhì. Rất có thể những bài ca nầy trích trong Thi 111-118 và Thi 136.

Chấm Dứt Cuộc Lưu Ðày

Vào năm thứ nhất[a] của triều đại Sy-ru vua Ba-tư, để lời Chúa đã phán qua miệng Giê-rê-mi được ứng nghiệm,[b] Chúa cảm động lòng[c] Sy-ru vua Ba-tư khiến ông ban hành một chiếu chỉ trong khắp đế quốc của ông. Chiếu chỉ ấy viết rằng,

“Sy-ru vua Ba-tư truyền thế nầy: Chúa, Ðức Chúa Trời trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc trên đất. Ngài đã truyền cho ta phải xây cho Ngài một Ðền Thờ ở Giê-ru-sa-lem trong xứ Giu-đa. Vậy ai trong các ngươi là con dân Ngài, nguyền xin Ðức Chúa Trời của người ấy ở với người ấy. Người ấy hãy đi lên Giê-ru-sa-lem ở Giu-đa để xây một Ðền Thờ cho Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên; Ngài là Ðức Chúa Trời ngự tại Giê-ru-sa-lem. Những ai ở các nơi có người bị lưu đày còn sống sót hãy lấy bạc, vàng, của cải, và súc vật của mình giúp đỡ những người ấy, ngoài các của lễ lạc ý dâng cho Ðền Thờ Ðức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem.”

Bấy giờ các trưởng tộc của Giu-đa và Bên-gia-min, các tư tế và những người Lê-vi, những người đã được Ðức Chúa Trời giục lòng, bèn đứng dậy và trở về để xây dựng Ðền Thờ cho Chúa ở Giê-ru-sa-lem. Tất cả những người chung quanh họ đều ủng hộ họ bằng các vật dụng bằng bạc và bằng vàng, của cải, súc vật, và các bửu vật, ngoài các của lễ lạc ý họ gởi dâng. Ngoài ra Vua Sy-ru cũng lấy ra các vật dụng thuộc về Ðền Thờ Chúa mà Nê-bu-cát-nê-xa đã lấy từ Giê-ru-sa-lem đem về đặt trong đền thờ các thần ông ấy; Sy-ru vua Ba-tư truyền cho Quan Thủ Kho Mít-rê-đa đem các vật dụng ấy ra, kiểm kê, và trao tất cả cho Sết-ba-xa thủ lãnh của dân Do-thái. Ðây là số lượng các vật dụng ấy: ba mươi chén vàng, một ngàn chén bạc, hai mươi chín con dao, 10 ba mươi bát vàng, bốn trăm mười bát bạc hạng thường, và một ngàn vật dụng khác. 11 Tổng cộng được năm ngàn bốn trăm vật dụng bằng vàng và bằng bạc. Sết-ba-xa đem tất cả các vật dụng ấy và dẫn theo những người được phóng thích khỏi trình trạng lưu đày từ giã Ba-by-lôn trở về Giê-ru-sa-lem.

Danh Sách Những Người Hồi Hương

(Nê 7:4-72)

Sau đây là những người đã từ các tỉnh ở nơi lưu đày trở về. Họ là những người đã bị bắt đem đi lưu đày, tức bị Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn bắt đem sang Ba-by-lôn để lưu đày,[d] và được trở về Giê-ru-sa-lem và Giu-đa, ai về thành nấy. Cùng trở về với Xê-ru-ba-bên có Giê-sua, Nê-hê-mi-a, Sê-ra-gia, Rê-ê-lai-a, Mạc-đô-chê, Bin-san, Mít-pa, Bích-vai, Rê-hum, và Ba-a-nát.

Ðây là số những người hồi hương trong dân I-sơ-ra-ên:

Con cháu của Pa-rốt, hai ngàn một trăm bảy mươi hai người.

Con cháu của Sê-pha-ti-a, ba trăm bảy mươi hai người.

Con cháu của A-ra, bảy trăm bảy mươi lăm người.[e]

Con cháu của Pa-hát Mô-áp, tức con cháu của Giê-sua và Giô-áp, hai ngàn tám trăm mười hai người.[f]

Con cháu của Ê-lam, một ngàn hai trăm năm mươi bốn người.

Con cháu của Xát-tu, chín trăm bốn mươi lăm người.[g]

Con cháu của Xác-cai, bảy trăm sáu mươi người.

10 Con cháu của Ba-ni, sáu trăm bốn mươi hai người.

11 Con cháu của Bê-bai, sáu trăm hai mươi ba người.[h]

12 Con cháu của A-xơ-gát, một ngàn hai trăm hai mươi hai người.[i]

13 Con cháu của A-đô-ni-cam, sáu trăm sáu mươi sáu người.[j]

14 Con cháu của Bích-vai, hai ngàn năm mươi sáu người.[k]

15 Con cháu của A-đin, bốn trăm năm mươi bốn người.[l]

16 Con cháu của A-te, gia tộc của Hê-xê-ki-a, chín mươi tám người.

17 Con cháu của Bê-xai, ba trăm hai mươi ba người.[m]

18 Con cháu của Giô-ra, một trăm mười hai người.

19 Con cháu của Ha-sum, hai trăm hai mươi ba người.

20 Con cháu của Ghi-ba, chín mươi lăm người.

21 Con cháu của Bết-lê-hem, một trăm hai mươi ba người.

22 Dân Nê-tô-pha, năm mươi sáu người.

23 Dân A-na-thốt, một trăm hai mươi tám người.

24 Con cháu của A-ma-vết, bốn mươi hai người.

25 Con cháu của Ki-ri-át A-rim, Kê-phi-ra, và Bê-e-rốt, bảy trăm bốn mươi ba người.

26 Con cháu của Ra-ma và Ghê-ba, sáu trăm hai mươi mốt người.

27 Dân Mích-mác, một trăm hai mươi hai người.

28 Dân Bê-tên và Ai, hai trăm hai mươi ba người.[n]

29 Con cháu của Nê-bô, năm mươi hai người.

30 Con cháu của Mắc-bích, một trăm năm mươi sáu người.

31 Con cháu của Ê-lam khác, một ngàn hai trăm năm mươi bốn người.

32 Con cháu của Ha-rim, ba trăm hai mươi người.

33 Con cháu của Lô, Ha-đi, và Ô-nô, bảy trăm hai mươi lăm người.[o]

34 Con cháu của Giê-ri-cô, ba trăm bốn mươi lăm người.

35 Con cháu của Sê-na-a, ba ngàn sáu trăm ba mươi người.[p]

36 Về các tư tế: con cháu của Giê-đa-gia, gia tộc của Giê-sua, chín trăm bảy mươi ba người.

37 Con cháu của Im-me, một ngàn năm mươi hai người.

38 Con cháu của Pát-khua, một ngàn hai trăm bốn mươi bảy người.

39 Con cháu của Ha-rim, một ngàn mười bảy người.

40 Những người Lê-vi: con cháu của Giê-sua và Cát-mi-ên, gia tộc của Hô-đê-va, bảy mươi bốn người.

41 Những người ca hát thờ phượng: con cháu của A-sáp, một trăm hai mươi tám người.[q]

42 Con cháu của những người canh cửa: con cháu của Sanh-lum, con cháu của A-te, con cháu của Tanh-môn, con cháu của Ạc-cúp, con cháu của Ha-ti-ta, con cháu của Sô-bai, một trăm ba mươi chín người.[r]

43 Những người phục vụ tại Ðền Thờ: con cháu của Xi-ha, con cháu của Ha-su-pha, con cháu của Ta-ba-ốt, 44 con cháu của Kê-rô, con cháu của Si-a-ha,[s] con cháu của Pa-đôn, 45 con cháu của Lê-ba-na, con cháu của Ha-ga-ba, con cháu của Ạc-cúp, 46 con cháu của Ha-gáp, con cháu của Sam-lai, con cháu của Ha-nan, 47 con cháu của Ghít-đên, con cháu của Ga-ha, con cháu của Rê-a-gia, 48 con cháu của Rê-xin, con cháu của Nê-cô-đa, con cháu của Ga-xam, 49 con cháu của U-xa, con cháu của Pa-sê-a, con cháu của Bê-sai, 50 con cháu của Át-na, con cháu của Mê-u-nim, con cháu của Nê-phi-sim, 51 con cháu của Bác-búc, con cháu của Ha-cu-pha, con cháu của Hạc-hưa, 52 con cháu của Ba-xơ-lút, con cháu của Mê-hi-đa, con cháu của Hạc-sa, 53 con cháu của Ba-cốt, con cháu của Si-sê-ra, con cháu của Tê-ma, 54 con cháu của Nê-xi-a, con cháu của Ha-ti-pha.

55 Con cháu của các tôi tớ Sa-lô-môn: con cháu của Sô-tai, con cháu của Hạc-sô-phê-rết, con cháu của Pê-ru-đa,[t] 56 con cháu của Gia-a-la, con cháu của Ðạc-côn, con cháu của Ghít-đên, 57 con cháu của Sê-pha-ti-a, con cháu của Hát-tin, con cháu của Pô-kê-rết Ha-xê-ba-im, con cháu A-mi.[u]

58 Tất cả những người phục vụ ở Ðền Thờ và con cháu của các tôi tớ Sa-lô-môn là ba trăm chín mươi hai người.

59 Có những người từ Tên Mê-la, Tên Hạc-sa, Kê-rúp, Át-đôn, và Im-me cùng đi lên, nhưng vì họ không thể chứng minh được tổ tiên của họ hoặc liên hệ huyết thống trong gia tộc của họ, nên người ta không thể xác định họ có phải là người I-sơ-ra-ên chính thống hay không.

60 Con cháu của Ðê-la-gia, con cháu của Tô-bi-a, con cháu của Nê-cô-đa, sáu trăm năm mươi hai người.[v]

61 Con cháu của các tư tế: con cháu của Hô-ba-gia, con cháu của Hắc-cô, con cháu của Ba-xi-lai. (Ông nầy là người đã cưới một trong các con gái của Ba-xi-lai người Ghi-lê-át làm vợ, và ông đã đổi họ để theo họ vợ.) 62 Những người ấy đã truy lục gia phả của họ, nhưng họ không tìm thấy gia tộc của họ được liệt kê trong đó, nên họ bị loại ra khỏi hàng tư tế và bị xem là không được tinh ròng để thi hành chức vụ thánh. 63 Do đó quan tổng trấn truyền cho họ không được ăn các món ăn cực thánh cho đến khi được một tư tế đứng ra dùng u-rim và thu-mim để xác quyết.

64 Tổng cộng cả hội chúng được bốn mươi hai ngàn ba trăm sáu mươi người, 65 không kể bảy ngàn ba trăm ba mươi bảy tôi trai và tớ gái. Trong vòng họ cũng có hai trăm người,[w] cả nam lẫn nữ, là thành viên của ca đoàn thờ phượng.

66 Họ có bảy trăm ba mươi sáu con ngựa, hai trăm bốn mươi lăm con la, 67 bốn trăm ba mươi lăm con lạc đà, và sáu ngàn bảy trăm hai mươi con lừa.

68 Khi về đến Ðền Thờ Chúa ở Giê-ru-sa-lem, một số vị trưởng gia tộc đã tự động quyên góp một số tiền và lập quỹ tái thiết Ðền Thờ Ðức Chúa Trời ở vị trí cũ. 69 Tùy theo khả năng của mỗi người, họ đã dâng vào quỹ tái thiết sáu mươi mốt ngàn miếng[x] vàng, năm ngàn thỏi[y] bạc, và một trăm bộ lễ phục cho các tư tế.

70 Vậy các tư tế, những người Lê-vi, những người ca hát, những người canh cửa, và những người phục vụ ở Ðền Thờ đều định cư trong các thị trấn của họ quanh thủ đô, còn tất cả những người I-sơ-ra-ên còn lại đều trở về định cư trong các thành của họ khắp nơi trong xứ.

Tái Lập Sự Thờ Phượng CHÚA

Ðến tháng bảy,[z] sau khi dân hồi cư đã ổn định cuộc sống trong các thành của họ, dân chúng tập họp về Giê-ru-sa-lem như một người. Bấy giờ Giê-sua con của Giô-xa-đắc với bà con dòng họ cùng làm tư tế với ông, và Xê-ru-ba-bên con của Sê-anh-ti-ên và bà con dòng họ ông ấy hiệp nhau xây dựng lại bàn thờ Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, để có thể dâng các của lễ thiêu trên đó, như đã quy định trong luật pháp của Môi-se người của Ðức Chúa Trời. Họ xây dựng lại bàn thờ trên nền cũ của nó. Mặc dù họ sợ các dân tộc chung quanh, họ vẫn dâng các của lễ thiêu lên Chúa, cả lễ buổi sáng lẫn lễ lúc chiều tàn. Họ giữ Lễ Lều Tạm như đã quy định. Họ dâng của lễ thiêu hằng ngày theo số lượng luật lệ đã quy định, như bổn phận phải làm mỗi ngày. Sau đó họ dâng các của lễ thiêu hằng tuần, các của lễ thiêu vào mỗi kỳ trăng mới và vào mỗi đại lễ mà Chúa đã biệt riêng ra thánh hằng năm. Ngoài ra họ cũng dâng các của lễ vào những dịp đặc biệt, khi ai được cảm động tự ý muốn dâng hiến một của lễ cho Chúa. Họ bắt đầu dâng các của lễ thiêu cho Chúa vào ngày mồng một tháng bảy. Lúc đó nền của Ðền Thờ Chúa vẫn chưa được xây dựng lại.

Xây Lại Ðền Thờ

Bấy giờ họ trả tiền cho các thợ hồ và các thợ mộc, cùng thức ăn, thức uống, và dầu cho dân Si-đôn và dân Ty-rơ, để chúng đốn gỗ bá-hương ở Li-băng, đem xuống biển, thả bè trôi xuống Giốp-pa, theo như sắc lệnh của Sy-ru vua Ba-tư đã cấp cho.

Vậy bắt đầu từ tháng hai của năm thứ hai[aa] kể từ khi họ hồi hương về đến Ðền Thờ Ðức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-ba-bên con của Sê-anh-ti-ên, và Giê-sua con của Giô-xa-đắc, cùng với đồng bào của họ, tức các tư tế, những người Lê-vi, và tất cả những người từ chốn lưu đày trở về đã khởi công xây lại nền Ðền Thờ. Họ lập những người Lê-vi từ hai mươi tuổi trở lên[ab] chịu trách nhiệm trông coi công việc xây cất Ðền Thờ Chúa. Vậy Giê-sua, các con của ông, bà con dòng họ của ông, Cát-mi-ên và các con của ông, con cháu của Giê-hu-đa, con cháu của Hê-na-đát, các con của họ, và bà con dòng họ của họ là những người Lê-vi cùng nhau đứng dậy đảm trách việc giám thị các thợ xây dựng Nhà Ðức Chúa Trời.

10 Khi các thợ xây dựng bắt đầu xây lại nền của Ðền Thờ Chúa, các tư tế mặc lễ phục đứng tại vị trí của họ thổi kèn vang lừng để tôn ngợi Chúa, những người Lê-vi con cháu của A-sáp dùng chũm chọe họa theo như Ða-vít vua I-sơ-ra-ên đã chỉ dẫn, 11 trong khi đó ca đoàn ca hát đối đáp với nhau để dâng lời chúc tụng và tạ ơn Chúa, “vì Ngài thật tốt, vì tình thương của Ngài đối với dân I-sơ-ra-ên còn đến đời đời.” Toàn dân đáp lại bằng tiếng reo hò vang dội, để dâng lên lòng biết ơn Chúa, vì nền Ðền Thờ Chúa đã được khởi công xây dựng lại. 12 Nhiều vị tư tế cao niên, các bô lão người Lê-vi, và các cụ trưởng thượng trong các gia tộc –tức những vị cao tuổi đã từng thấy Ðền Thờ trước kia trên nền của nó– đã bật khóc lớn tiếng khi thấy Ðền Thờ được khởi công xây lại; họ khóc to giữa tiếng reo mừng vang dội của đoàn dân đông đảo. 13 Vì thế người ta không thể phân biệt được tiếng reo hò vì vui mừng hay tiếng khóc to vì vui mừng, bởi dân chúng đã reo hò lớn tiếng và tiếng reo hò đã vang vọng thật xa.

Footnotes

  1. Ê-xơ-ra 1:1 Khoảng 538 T.C.
  2. Ê-xơ-ra 1:1 Giê 25:11-12; 29:10. Năm 605 T.C. dân Do-thái bị bắt đem lưu đày; năm 536 T.C. họ bắt đầu hồi hương; khoảng 70 năm
  3. Ê-xơ-ra 1:1 nt: dấy động tâm linh
  4. Ê-xơ-ra 2:1 Khoảng 605 T.C.
  5. Ê-xơ-ra 2:5 Nêh 7:10 ghi 652 người
  6. Ê-xơ-ra 2:6 Nêh 7:11 ghi 2818 người
  7. Ê-xơ-ra 2:8 Nêh 7:13 ghi 845 người
  8. Ê-xơ-ra 2:11 Nêh 7:16 ghi 628 người
  9. Ê-xơ-ra 2:12 Nêh 7:17 ghi 2322 người
  10. Ê-xơ-ra 2:13 Nêh 7:18 ghi 667 người
  11. Ê-xơ-ra 2:14 Nêh 7:19 ghi 2067 người
  12. Ê-xơ-ra 2:15 Nêh 7:20 ghi 655 người
  13. Ê-xơ-ra 2:17 Nêh 7:23 ghi 324 người
  14. Ê-xơ-ra 2:28 Nêh 7:32 ghi 123 người
  15. Ê-xơ-ra 2:33 Nêh 7:37 ghi 721 người
  16. Ê-xơ-ra 2:35 Nêh 7:38 ghi 3930 người
  17. Ê-xơ-ra 2:41 Nêh 7:44 ghi 148 người
  18. Ê-xơ-ra 2:42 Nêh 7:45 ghi 138 người
  19. Ê-xơ-ra 2:44 Nêh 7:47 ghi Si-a
  20. Ê-xơ-ra 2:55 Nêh 7:57 ghi Pê-ri-đa
  21. Ê-xơ-ra 2:57 Nêh 7:59 ghi A-môn
  22. Ê-xơ-ra 2:60 Nêh 7:62 ghi 642 người
  23. Ê-xơ-ra 2:65 Nêh 7:67 ghi 245 người
  24. Ê-xơ-ra 2:69 nt: đạc-kê-môn, đơn vị tiền tệ thời xưa
  25. Ê-xơ-ra 2:69 nt: ma-nê, đơn vị tiền tệ thời xưa
  26. Ê-xơ-ra 3:1 Khoảng 537 T.C.
  27. Ê-xơ-ra 3:8 Khoảng 536 T.C.
  28. Ê-xơ-ra 3:8 Giảm tuổi vì ít người. Dân 4:3, 30 tuổi; Dân 8:24, sụt xuống 25 tuổi; ở đây chỉ còn 20 tuổi