Add parallel Print Page Options

Cửa Đông bên ngoài

44 Rồi người đưa tôi vào cửa Đông bên ngoài của khu vực đền thờ nhưng cửa đó bị đóng chặt. CHÚA bảo tôi, “Cửa nầy sẽ đóng luôn luôn, không bao giờ mở ra. Không ai được phép đi qua vì CHÚA là Thượng Đế của Ít-ra-en đã đi qua đó cho nên phải đóng lại. Chỉ có quan trưởng mới có thể ngồi nơi cửa và ăn trước mặt CHÚA. Người phải đi vào qua vòm cửa và ra cũng qua lối đó.”

Nơi Thánh của đền thờ

Rồi người mang tôi qua cổng Bắc bên ngoài đến phía trước đền thờ. Khi tôi đang nhìn thì thấy vinh quang CHÚA đầy khắp đền thờ, nên tôi cúi sát xuống đất.

CHÚA bảo tôi, “Hỡi con người, hãy để ý đây. Hãy lấy mắt mà nhìn, lấy tai mà nghe. Hãy nghe thấy mọi điều ta bảo ngươi về các qui tắc và giáo huấn về đền thờ CHÚA. Hãy để ý đến cửa vào đền thờ và các cửa ra khỏi khu vực đền thờ. Rồi hãy nói cho những kẻ không chịu vâng lời. Hãy bảo dân Ít-ra-en: CHÚA là Thượng Đế phán: Hỡi Ít-ra-en, hãy ngưng các hành vi ta ghét! Các ngươi mang những người ngoại quốc chưa được cắt dương bì về thân xác và tấm lòng vào Nơi Thánh ta. Các ngươi làm ô uế đền thờ ta khi dâng cho ta thức ăn, mỡ, và huyết. Các ngươi phá giao ước ta bằng những hành vi mà ta ghét. Các ngươi tự mình không chăm lo những vật thánh ta mà lại để những người ngoại quốc lo cho đền thờ ta. Cho nên CHÚA là Thượng Đế phán: Những người ngoại quốc chưa được cắt dương bì về thân xác và tấm lòng không được phép vào đền thờ ta. Không có một người ngoại quốc nào sống ở giữa dân Ít-ra-en có thể vào đền thờ ta cả.

10 Nhưng những người Lê-vi không vâng lời ta khi Ít-ra-en bỏ ta đi theo các thần tượng nên phải bị trừng phạt vì tội lỗi mình. 11 Những người Lê-vi đó sẽ làm tôi tớ phục vụ trong Nơi Thánh ta. Họ phải canh các cửa của đền thờ và phục vụ trong khu vực đền thờ. Họ được phép giết các con thú dùng cho của lễ thiêu và các sinh tế cho dân chúng. Họ được phép đứng trước mặt dân chúng để phục vụ họ. 12 Còn về phần những người Lê-vi nào đã giúp dân chúng bái lạy các thần tượng và xui cho dân Ít-ra-en phạm tội thì ta cam kết như sau: Họ sẽ bị trừng phạt vì tội lỗi mình, CHÚA là Thượng Đế phán vậy. 13 Họ sẽ không được phép đến gần ta để làm thầy tế lễ hay đến gần bất cứ vật thánh hay các của lễ chí thánh nào của ta. Họ sẽ mang sự sỉ nhục mình về những điều gớm ghiếc họ làm. 14 Ta sẽ để cho chúng lo khu vực đền thờ và mọi việc phải làm trong khu vực đó.

15 Nhưng các thầy tế lễ và người Lê-vi cùng con cháu Xa-đốc đã phục vụ Nơi Thánh ta khi dân Ít-ra-en từ bỏ ta thì được phép đến gần phục vụ ta. Họ được phép đứng trước mặt ta để dâng cho ta mỡ và huyết.” CHÚA là Thượng Đế phán vậy. 16 Chỉ có họ là những người được phép vào Nơi Thánh ta. Chỉ có họ mới được đến gần bàn phục vụ ta và làm những việc ta giao cho. 17 Khi vào các cổng của sân trong, họ phải mặc áo dài bằng vải gai mịn. Họ không nên mặc đồ bằng len khi phục vụ nơi cổng của sân trong hay trong đền thờ. 18 Họ phải vấn khăn vành trên đầu và mặc áo lót bằng vải. Họ không nên mặc loại gì làm đổ mồ hôi. 19 Khi đi vào sân ngoài gặp gỡ dân, họ phải cởi y phục thánh ra trước khi đi. Họ phải để các y phục ấy trong phòng thánh và mặc y phục khác. Như thế họ sẽ không vô tình thánh hóa người nào trong dân chúng vì y phục thánh chạm vào họ.

20 Họ không được cạo đầu hay để tóc dài [a] nhưng phải cắt tóc cho gọn gàng sạch sẽ. 21 Khi đi vào sân trong các thầy tế lễ không được uống rượu. 22 Các thầy tế lễ không được lấy góa phụ hay đàn bà ly dị làm vợ. Họ chỉ được lấy trinh nữ từ trong dân Ít-ra-en hay góa phụ của các thầy tế lễ khác mà thôi. 23 Họ phải dạy cho dân phân biệt điều thánh và điều không thánh. Phải giúp cho dân ta biết điều tinh sạch và không tinh sạch. 24 Họ sẽ đóng vai quan án ở toà. Khi xét xử, họ phải theo lời giáo huấn ta. Họ phải vâng theo luật lệ và qui tắc ta vào những kỳ lễ đặc biệt, và phải giữ ngày Sa-bát ra thánh.

25 Họ không được lại gần xác chết mà khiến cho mình bị ô dơ. Nhưng họ có thể để mình bị ô dơ nếu người chết là cha, mẹ, con trai, con gái, anh chị em của mình chưa lập gia đình. 26 Sau khi thầy tế lễ đã dọn mình cho tinh sạch rồi thì phải chờ bảy ngày. 27 Khi người đi vào sân trong của nơi thánh thì người phải dâng một của lễ tẩy sạch cho mình, CHÚA là Thượng Đế phán vậy.

28 Đó là những qui tắc về các thầy tế lễ và tài sản họ. Ngươi sẽ không cấp đất nào trong Ít-ra-en cho họ làm tài sản; chính ta là tài sản của họ. 29 Họ sẽ ăn của lễ chay, của lễ tẩy sạch, và của lễ chuộc lỗi. Mọi thứ mà dân Ít-ra-en dâng cho ta sẽ thuộc về họ. 30 Những hoa quả đầu mùa tốt nhất và mọi của dâng hiến đặc biệt dâng cho ta sẽ thuộc về các thầy tế lễ. Ngươi cũng sẽ cấp cho họ phần đầu tiên của đống bột khi ngươi làm bánh mì để gia đình ngươi được phước. 31 Các thầy tế lễ không được phép ăn chim hay thú vật nào chết tự nhiên hay bị thú dữ xé.

Chia đất

45 “Khi ngươi bắt thăm chia đất cho các chi tộc Ít-ra-en, ngươi phải dành một phần đất cho CHÚA. Phần đất đó sẽ dài khoảng mười ba cây số, rộng mười cây số [b]; toàn khu đất ấy sẽ được xem như thánh. Từ miếng đất ấy, sẽ dành một khu rộng hai trăm năm mươi thước, ngang hai trăm năm mươi thước cho đền thờ. Hãy để một khu đất trống quanh đền thờ rộng khoảng hai mươi lăm thước, Trong khu vực thánh ngươi sẽ đo một miếng đất dài mười hai cây số, rộng năm cây số để làm nơi Thánh và Nơi Chí Thánh. Phần đất thánh nầy sẽ dành cho các thầy tế lễ phục vụ trong đền thờ, là những người đến gần CHÚA để phục vụ Ngài. Trên đất đó sẽ xây nhà cho các thầy tế lễ và đền thờ. Một khu khác dài mười hai cây số, rộng năm cây số sẽ dành cho người Lê-vi phục vụ trong đền thờ. Các người Lê-vi sẽ xây thành để ở trong khu thuộc về họ.

Ngươi phải cấp một miếng đất dọc theo khu vực thánh dài khoảng mười hai cây số, ngang khoảng ba cây số để xây thành phố. Thành đó sẽ thuộc về toàn dân Ít-ra-en.

Quan trưởng sẽ có miếng đất nằm hai bên khu vực thánh và thành phố. Về phía Tây của khu vực thánh, đất người sẽ chạy dài đến phía Tây. Về phía Đông khu vực thánh, đất người sẽ chạy dài đến phía Đông. Chiều dài cũng bằng các phần đất khác giữa các ranh giới phía Đông và phía Tây đã được cấp cho các chi tộc. Chỉ có miếng đất đó là tài sản của quan trưởng cai trị trên Ít-ra-en. Như thế các quan trưởng sẽ không còn bạo ngược đối với dân ta nữa nhưng họ sẽ để cho mỗi chi tộc trong dân Ít-ra-en nhận phần đất thuộc về mình.

CHÚA là Thượng Đế phán: ‘Hỡi các quan trưởng cai trị trên Ít-ra-en, các ngươi quá lắm! Thôi đừng bạo ngược và làm hại dân ta nữa. Hãy làm điều công bằng chính trực. Không được đuổi dân ta ra khỏi nhà cửa chúng nữa, CHÚA là Thượng Đế phán vậy. 10 Các ngươi phải dùng cân đúng, lường chân thật và lít đo chính xác. 11 Ê-pha [c] và bát phải bằng nhau: Một bát phải bằng một phần mười ô-me [d] chất lỏng, còn một ê-pha phải bằng một phần mười ô-me chất khô. 12 Sê-ken [e] sẽ trị giá hai mươi ghê-ra, và một mi-na trị giá sáu mươi sê-ken.

Các của lễ và các ngày lễ thánh

13 Đây là của lễ ngươi phải dâng: mỗi ô-me lúa mì trích ra một phần sáu ê-pha, mỗi ô-me lúa mạch trích ra một phần sáu ê-pha. 14 Mỗi một co dầu trích ra một phần mười bát để dâng. (Một co cũng như ô-me, bằng mười bát) 15 Trong một bầy hai trăm con chiên thì dâng một con từ chỗ chúng uống nước trong Ít-ra-en. Tất cả những thứ đó phải dâng làm của lễ thiêu, của lễ thân hữu để chuộc lỗi cho các ngươi, CHÚA là Thượng Đế phán vậy. 16 Tất cả dân trong xứ phải dâng của lễ đặc biệt nầy cho quan trưởng cai trị trên Ít-ra-en. 17 Quan trưởng có trách nhiệm cung cấp của lễ thiêu, của lễ chay, và của lễ uống. Các của lễ nầy phải dâng vào các dịp lễ, ngày Trăng Mới, ngày Sa-bát, và các dịp lễ khác của Ít-ra-en. Quan trưởng phải cung cấp của lễ tẩy sạch, của lễ chay, và của lễ thân hữu để chuộc tội cho dân Ít-ra-en.’

18 CHÚA là Thượng Đế phán: ‘Vào ngày đầu tháng giêng, bắt một con bò tơ đực không tật nguyền, dùng nó để tẩy sạch đền thờ. 19 Thầy tế lễ sẽ lấy một ít huyết nơi của lễ tẩy sạch nầy và xức lên các cột cửa của đền thờ, bốn góc nhô ra của bàn thờ, và các cột của cổng vào sân trong. 20 Ngươi phải làm như thế vào ngày thứ bảy của tháng cho ai vô ý phạm tội mà không biết. Đó là cách các ngươi làm cho đền thờ tinh sạch.’

Của lễ dâng cho Lễ Vượt Qua

21 Vào ngày mười bốn tháng giêng các ngươi sẽ kỷ niệm Lễ Vượt Qua. Lễ đó kéo dài bảy ngày, trong thời gian đó các ngươi sẽ ăn bánh mì không men. 22 Vào ngày đó quan trưởng phải dâng một con bò đực cho chính mình và cho toàn dân để làm của lễ tẩy sạch. 23 Trong bảy ngày lễ người phải dâng bảy con bò đực và bảy con chiên con không tật nguyền. Chúng sẽ dùng làm của lễ thiêu cho CHÚA mà quan trưởng phải dâng hàng ngày trong suốt bảy ngày. Người cũng phải dâng một con dê đực mỗi ngày làm của lễ tẩy sạch. 24 Quan trưởng phải dâng nửa thùng ngũ cốc cho mỗi con bò và nửa thùng ngũ cốc cho mỗi con chiên để làm của lễ chay. Cứ mỗi nửa thùng ngũ cốc thì người phải dâng một hin [f] dầu ô liu.

25 Bắt đầu vào ngày mười lăm tháng bảy khi ngươi kỷ niệm Lễ Lều Tạm thì mỗi ngày quan trưởng phải cung cấp những thứ sau đây trong bảy ngày: của lễ chuộc tội, của lễ thiêu, của lễ chay, và dầu ô liu.”

Footnotes

  1. Ê-xê-ki-ên 44:20 cạo đầu hay để tóc dài Dấu hiệu của sự buồn rầu. Các thầy tế lễ phải vui mừng khi phục vụ Thượng Đế.
  2. Ê-xê-ki-ên 45:1 mười cây số Đây là theo bản cổ Hi-lạp. Bản tiêu chuẩn Hê-bơ-rơ ghi “năm cây số.”
  3. Ê-xê-ki-ên 45:11 Ê-pha Một đơn vị đo lường tương đương với 20 lít.
  4. Ê-xê-ki-ên 45:11 ô-me Một đơn vị đo lường tương đương với 7 thùng hay khoảng 220 lít.
  5. Ê-xê-ki-ên 45:12 Sê-ken Đơn vị trọng lượng khoảng 12 gờ ram. Có khi người ta dùng đơn vị nầy để làm đơn vị tiền tệ.
  6. Ê-xê-ki-ên 45:24 hin Đơn vị chất lỏng tương đương với 3 lít.

Cổng Phía Ðông Bị Ðóng

44 Sau đó người ấy đem tôi trở lại cổng ở bên ngoài đền thánh, tức cổng nhìn về hướng đông, và cổng ấy đang bị đóng. Chúa phán với tôi, “Cổng nầy sẽ tiếp tục bị đóng. Nó sẽ không được mở ra, và không ai sẽ đi vào cổng ấy. Vì Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, đã đi vào cổng ấy, cho nên nó sẽ bị đóng lại. Duy chỉ người lãnh đạo, vì vai trò của nó là người lãnh đạo, nên nó sẽ được phép ngồi ở cổng đó và ăn bánh trước mặt Chúa; nhưng nó chỉ được đi vào khu vực của cổng qua ngả tiền đình và cũng đi ra qua ngả đó.”

Quy Luật Về Việc Ðược Vào Ðền Thờ

Sau đó người ấy đem tôi đi qua cổng bắc để vào phía trước đền thờ. Tôi nhìn, và này, vinh hiển của Chúa tràn ngập đền thờ của Chúa; tôi liền sấp mặt xuống đất. Chúa phán với tôi, “Hỡi con người, hãy cố gắng ghi nhớ, hãy nhìn cho kỹ, và hãy nghe cho rõ mọi điều Ta sẽ phán với ngươi về mọi quy tắc liên quan đến đền thờ của Chúa và mọi luật lệ liên quan đến nơi ấy. Hãy chú ý đến việc đi vào đền thờ và việc đi ra khỏi nơi thánh. Ngươi hãy nói với phường phản loạn, tức nhà I-sơ-ra-ên, ‘Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Hỡi nhà I-sơ-ra-ên, những việc gớm ghiếc các ngươi làm đã quá đủ rồi. Các ngươi đã đem những người ngoại quốc lòng không được cắt bì và xác không được cắt bì vào trong nơi thánh của Ta, tức vào trong nhà của Ta, khiến cho nó ra ô uế. Các ngươi đem dâng lên Ta thực phẩm, tức mỡ và máu, rồi lại vi phạm giao ước Ta bằng mọi việc gớm ghiếc của các ngươi. Các ngươi đã không quản lý các việc thánh của Ta, nhưng đã lập những người ngoại quốc lên để quản lý những việc trong nơi thánh của Ta thay cho các ngươi.” Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Không một người ngoại quốc nào lòng không được cắt bì và xác không được cắt bì sẽ được vào trong nơi thánh của Ta, ngay cả những người ngoại quốc đang sống giữa dân I-sơ-ra-ên cũng không được.”’

Các Tư Tế Người Lê-vi

10 Những người Lê-vi đã lìa bỏ Ta khi dân I-sơ-ra-ên đi lạc, tức khi chúng lìa bỏ Ta để theo các thần tượng của chúng, phải mang lấy hậu quả tội lỗi của chúng. 11 Dù vậy chúng sẽ được làm những người phục vụ trong nơi thánh của Ta, canh gác ở các cổng đền thờ, và phục vụ những công việc trong đền thờ. Chúng sẽ sát tế các con thú được dâng làm của lễ thiêu và những con vật hiến tế cho dân, và chúng sẽ đứng trước mặt dân mà phục vụ dân. 12 Nhưng vì trước kia chúng đã phục vụ dân trước các thần tượng, và vì thế đã xui cho dân phạm tội, nên Ta đã đưa tay Ta ra chống lại chúng,” Chúa Hằng Hữu phán. “Chúng phải mang lấy hậu quả của tội lỗi chúng. 13 Chúng sẽ không được lại gần Ta để thi hành chức vụ tư tế đối với Ta. Chúng sẽ không được lại gần các vật thánh nào của Ta, tức những vật cực thánh của Ta, nhưng chúng phải mang lấy nỗi xấu hổ về mọi tội lỗi gớm ghiếc chúng đã phạm. 14 Dù vậy Ta sẽ lập chúng làm những kẻ quản lý đền thờ, để phục vụ mọi việc ở đó và làm mọi việc cần phải làm ở đó.

15 Riêng các tư tế thuộc dòng Lê-vi, các con cháu của Xa-đốc, những người đã trung tín quản lý nơi thánh của Ta khi dân I-sơ-ra-ên lìa bỏ Ta, chính chúng sẽ đến gần Ta để phục vụ Ta, chúng sẽ đến trước mặt Ta để dâng lên Ta mỡ và máu,” Chúa Hằng Hữu phán. 16 “Chỉ có chúng mới được vào nơi thánh của Ta, và chỉ có chúng mới được đến bàn của Ta để phục vụ Ta, và chúng sẽ quản lý các công việc Ta. 17 Khi chúng vào các cổng của sân trong, chúng phải mặc bộ lễ phục bằng vải gai mịn. Không ai được phép mặc y phục bằng len khi phục vụ tại các cổng ở sân trong hoặc vào bên trong đền thờ.

18 Chúng sẽ đội mũ tế bằng vải gai mịn và mặc quần đùi từ ngang lưng trở xuống. Chúng sẽ không được buộc gì quanh thân khiến bị toát mồ hôi. 19 Khi chúng đi ra sân ngoài, nơi dân chúng đứng thờ phượng, chúng phải cổi bộ y phục thánh chúng mặc để phục vụ ra và để nó lại trong các phòng thánh, rồi chúng sẽ mặc bộ y phục khác vào mà đi ra để chúng không lây thánh cho dân vì bộ y phục thánh chúng mặc. 20 Chúng không được cạo trọc đầu và cũng không được để tóc mọc dài, nhưng phải cắt tỉa đầu tóc cho gọn gàng. 21 Không tư tế nào được uống rượu khi sắp sửa vào sân trong để hành lễ. 22 Chúng không được cưới các góa phụ hay các phụ nữ ly dị làm vợ, nhưng chúng phải cưới các trinh nữ trong dòng dõi I-sơ-ra-ên hay chúng có thể lấy vợ góa của một tư tế làm vợ. 23 Chúng phải dạy cho dân biết phân biệt giữa thánh khiết và phàm tục, giữa thanh sạch và ô uế. 24 Trong việc kiện cáo, chúng phải làm thẩm phán để tuyên án theo phán quyết của Ta. Chúng phải tuân giữ các luật pháp Ta và các luật lệ Ta trong mọi cuộc lễ hội đã ấn định, và chúng phải làm cho ngày Sa-bát của Ta ra thánh. 25 Các tư tế không được làm cho chúng ra ô uế vì đến gần xác người chết, ngoại trừ người chết là cha hay mẹ, con trai hay con gái, anh em hay chị em chưa lập gia đình; trong các trường hợp ấy, chúng có thể để cho mình bị ô uế. 26 Tư tế nào vì người thân qua đời mà bị ô uế thì sau khi được tẩy sạch, tư tế ấy phải đợi thêm bảy ngày nữa. 27 Vào ngày tư tế ấy vào sân trong của đền thánh để phục vụ trong nơi thánh, tư tế ấy phải dâng một của lễ chuộc tội cho mình,” Chúa Hằng Hữu phán.

28 “Về sản nghiệp dành cho chúng: Ta chính là sản nghiệp của chúng. Các ngươi sẽ không cho chúng phần sở hữu nào trong I-sơ-ra-ên, vì Ta là sản nghiệp của chúng. 29 Chúng sẽ ăn các của lễ chay, các của lễ chuộc tội, và các của lễ chuộc lỗi. Bất cứ thứ gì trong I-sơ-ra-ên được dâng hiến lên Chúa sẽ thuộc về chúng. 30 Tất cả các lễ vật đầu mùa của mọi thứ lễ vật đầu mùa và các của dâng trong mọi thứ của dâng của các ngươi sẽ thuộc về các tư tế. Các ngươi cũng sẽ cho tư tế một phần bột đầu mùa của các ngươi, để phước hạnh sẽ ở mãi trong nhà các ngươi. 31 Các tư tế sẽ không được ăn thịt bất cứ con vật nào đã chết hay bị thú dữ cắn xé, bất kể là loài chim hay thú vật.”

Khu Vực Biệt Riêng Ra Thánh

45 “Khi các ngươi bắt thăm chia xứ để nhận làm sản nghiệp, các ngươi phải dành một khu vực và biệt riêng nó ra làm khu vực thánh cho Chúa. Ðó là khu vực thánh cho cả nước. Chiều dài của nó sẽ là mười bốn ký-lô mét rưỡi,[a] và chiều rộng của nó sẽ gần sáu ký-lô mét.[b] Toàn thể khu vực đó sẽ là vùng đất thánh. Trong khu vực đó, một mảnh đất chiều dọc hai trăm chín mươi mét[c] và chiều ngang hai trăm chín mươi mét[d] sẽ được dùng để cất đền thánh, và chung quanh mảnh đất để cất đền thánh đó là một vòng đai đất trống, rộng chừng hai mươi chín mét.[e] Như vậy khu vực ấy –ngươi phải đo một vùng đất dài mười bốn ký-lô mét rưỡi,[f] và rộng gần sáu ký-lô mét[g]– sẽ là vùng đất thánh và trong đó sẽ có nơi cực thánh. Vùng đất thánh ấy được dành cho các tư tế, những người phục vụ trong nơi thánh, những người sẽ đến gần để hầu việc Chúa; đó sẽ là nơi để họ xây nhà ở và là nơi thánh để xây đền thánh. Một khu vực kế cận có chiều dài mười bốn ký-lô mét rưỡi,[h] và chiều rộng gần sáu ký-lô mét[i] sẽ được dành cho người Lê-vi, những người làm việc ở đền thờ. Ðó là phần sở hữu của họ để làm các khu phố[j] của họ. Các ngươi cũng sẽ dành một khu vực nữa kế cận khu vực thánh, có chiều rộng gần ba ký-lô mét[k] và chiều dài mười bốn ký-lô mét rưỡi[l] để làm thành phố, hầu ai trong dân I-sơ-ra-ên cũng có thể đến sống ở đó.

Phần Ðất Dành Cho Chính Quyền

Nhà cầm quyền trong nước cũng sẽ được dành cho hai vùng đất. Hai vùng sẽ nằm dọc theo và giáp giới với khu vực thánh và khu vực thuộc thành phố. Ranh giới của vùng phía tây sẽ giáp giới với lãnh thổ của chi tộc ở phía tây, và ranh giới của vùng phía đông sẽ giáp giới với lãnh thổ của chi tộc ở phía đông. Hai vùng đất đó sẽ là phần sở hữu của kẻ cầm quyền trong I-sơ-ra-ên. Như thế những kẻ cầm quyền của Ta sẽ không áp bức dân Ta nữa, và chúng sẽ chia đất đai còn lại trong nước cho nhà I-sơ-ra-ên, theo từng chi tộc của chúng.”

Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Hỡi những kẻ cầm quyền trong I-sơ-ra-ên: Ðủ rồi! Hãy bỏ ngay hung tàn và bạo ngược. Hãy thi hành công lý và lẽ phải. Chớ cướp đoạt dân Ta nữa,” Chúa Hằng Hữu phán.

Cân Lượng và Ðong Lường

10 “Các ngươi phải dùng cái cân chính xác, dụng cụ để đong vật khô chính xác, và dụng cụ để đong chất lỏng chính xác. 11 Dung lượng của ê-pha[m] phải bằng với dung tích của bát.[n] Một bát phải bằng một phần mười hô-me,[o] và một ê-pha cũng bằng một phần mười hô-me. Hô-me sẽ là đơn vị đong lường làm chuẩn cho cả hai. 12 Một sê-ken[p] bằng hai mươi ghê-ra.[q] Hai mươi sê-ken cộng hai mươi lăm sê-ken cộng mười lăm sê-ken bằng một mi-na[r] cho các ngươi.

Các Của Lễ

13 Ðây sẽ là của lễ mà các ngươi sẽ dâng: cứ mỗi hô-me lúa mì các ngươi sẽ lấy ra một phần sáu của một ê-pha mà dâng, và cứ mỗi hô-me lúa mạch các ngươi cũng lấy ra một phần sáu của một ê-pha mà dâng.[s] 14 Còn quy tắc về việc dâng dầu thì các ngươi sẽ dâng theo dung tích của bát. Cứ mỗi cô-rơ[t] dầu các ngươi trích ra một phần mười của một bát mà dâng.[u] Một cô-rơ bằng một hô-me hay bằng mười bát, vì mười bát là một hô-me. 15 Còn về chiên, cứ mỗi đàn chiên có hai trăm con trong các đồng cỏ của I-sơ-ra-ên thì dâng một con.

Ðó là quy luật về việc dâng các của lễ chay, các của lễ thiêu, và các của lễ cầu an hầu chuộc tội cho những kẻ dâng,” Chúa Hằng Hữu phán.

16 “Mọi người trong nước sẽ góp phần với nhà cầm quyền I-sơ-ra-ên trong việc dâng hiến. 17 Tuy nhiên nhà cầm quyền sẽ chịu trách nhiệm trong việc cung cấp các lễ vật cho các của lễ thiêu, các của lễ chay, và các của lễ quán trong các kỳ lễ hội, các ngày trăng mới, và các ngày Sa-bát, nói chung là tất cả các kỳ lễ hội của nhà I-sơ-ra-ên. Nhà cầm quyền sẽ cung cấp các của lễ chuộc tội, các của lễ chay, các của lễ thiêu, và các của lễ cầu an để dâng lên chuộc tội cho nhà I-sơ-ra-ên.”

Các Ngày Lễ

18 Chúa Hằng Hữu phán thế nầy, “Ngày mồng một tháng giêng, ngươi hãy bắt một con bò đực tơ không tì vết và cử hành nghi thức thanh tẩy đền thờ. 19 Tư tế sẽ lấy một ít máu của con vật làm của lễ chuộc tội đem bôi trên các trụ cửa đền thờ, trên bốn góc của gờ bàn thờ, và trên các trụ ở cổng vào sân trong của khuôn viên đền thờ.

20 Ngày mồng bảy của tháng đó, ngươi cũng sẽ làm như vậy cho những ai không cố ý mà phạm tội hoặc phạm tội mà không biết. Như thế ngươi sẽ chuộc tội cho đền thờ.

21 Ngày mười bốn tháng giêng, các ngươi sẽ giữ Lễ Vượt Qua, một kỳ lễ kéo dài bảy ngày. Trong thời gian đó các ngươi sẽ ăn bánh không men. 22 Trong ngày đầu của kỳ lễ, người cầm quyền trong nước sẽ dâng một con bò đực tơ làm của lễ chuộc tội cho chính mình và cho toàn dân trong nước. 23 Suốt kỳ lễ bảy ngày đó, mỗi ngày người cầm quyền trong nước sẽ cung cấp bảy con bò đực tơ và bảy con chiên đực không tì vết để làm của lễ thiêu dâng lên Chúa, và một con dê đực tơ để làm của lễ chuộc tội. 24 Người cầm quyền trong nước cũng sẽ cung cấp một của lễ chay gồm hai mươi hai lít[v] bột cho mỗi con bò đực tơ, hai mươi hai lít[w] bột cho mỗi con chiên đực, và bốn lít[x] dầu ô-liu cho hai con vật hiến tế đó.

25 Trong kỳ lễ kéo dài bảy ngày, bắt đầu vào ngày mười lăm tháng bảy[y] mỗi năm, người cầm quyền trong nước cũng sẽ cung cấp các của lễ như vậy cho của lễ chuộc tội, của lễ thiêu, của lễ chay, với số dầu cần thiết để dâng chung với mỗi lễ vật.”

Footnotes

  1. Ê-xê-chi-ên 45:1 nt: 25.000 cubits đặc biệt, khoảng 14,5km
  2. Ê-xê-chi-ên 45:1 nt: 10.000 cubits đặc biệt, khoảng 5,8km ; một số bản dịch ghi 20.000 cubits, (11,6km)
  3. Ê-xê-chi-ên 45:2 nt: 500 cubits đặc biệt, khoảng 290m
  4. Ê-xê-chi-ên 45:2 nt: 500 cubits đặc biệt, khoảng 290m
  5. Ê-xê-chi-ên 45:2 nt: 50 cubits đặc biệt, khoảng 29m
  6. Ê-xê-chi-ên 45:3 nt: 25.000 cubits đặc biệt, khoảng 14,5km
  7. Ê-xê-chi-ên 45:3 nt: 10.000 cubits đặc biệt, khoảng 5,8km
  8. Ê-xê-chi-ên 45:5 nt: 25.000 cubits đặc biệt, khoảng 14,5km
  9. Ê-xê-chi-ên 45:5 nt: 10.000 cubits đặc biệt, khoảng 5,8km
  10. Ê-xê-chi-ên 45:5 nt: 20 phòng
  11. Ê-xê-chi-ên 45:6 nt: 5.000 cubits đặc biệt, khoảng 2,9km
  12. Ê-xê-chi-ên 45:6 nt: 25.000 cubits đặc biệt, khoảng 14,5km
  13. Ê-xê-chi-ên 45:11 Ê-pha là dụng cụ để đong vật khô, 22 lít
  14. Ê-xê-chi-ên 45:11 Bát là dụng cụ để đong chất lỏng, 22 lít
  15. Ê-xê-chi-ên 45:11 Hô-me là dụng cụ đong lường mẫu, 220 lít
  16. Ê-xê-chi-ên 45:12 Sê-ken là đơn vị đo trọng lượng, khoảng 12 grams
  17. Ê-xê-chi-ên 45:12 Ghê-ra là đơn vị đo trọng lượng nhỏ nhất thời bầy giờ, khoảng 0,6 gram
  18. Ê-xê-chi-ên 45:12 Một mi-na thường chỉ bằng 50 sê-ken, nhưng mi-na Tiên Tri Ê-xê-chi-ên ghi nhận ở đây lớn hơn mi-na thường; nó khoảng 60 sê-ken.
  19. Ê-xê-chi-ên 45:13 Ðại khái, cứ mỗi 200 lít lúa thì dâng 3,5 lít
  20. Ê-xê-chi-ên 45:14 Cô-rơ là đơn vị lớn nhất thời bấy giờ để đo dung lượng, 220 lít
  21. Ê-xê-chi-ên 45:14 Tức cứ mỗi 200 lít dầu thì dâng 2 lít, (1/100)
  22. Ê-xê-chi-ên 45:24 nt: 1 ê-pha
  23. Ê-xê-chi-ên 45:24 nt: 1 ê-pha
  24. Ê-xê-chi-ên 45:24 nt: 1 hin; 1 hin có dung tích 4 lít
  25. Ê-xê-chi-ên 45:25 Lễ Lều Tạm