Add parallel Print Page Options

Sự hiện thấy của Ê-xê-chiên về các con thú

Năm thứ ba mươi, ngày năm, tháng tư trong thời gian bị lưu đày, tôi đang ngồi bên mé sông Kê-ba ở giữa những người bị lưu đày thì trời mở ra, tôi thấy dị tượng về Thượng Đế. Đó là vào ngày năm tháng tư, năm thứ năm [a] sau khi vua Giê-hô-gia-kin bị lưu đày. CHÚA phán cùng Ê-xê-chiên, thầy tế lễ, con Bu-xi trong xứ Ba-by-lôn bên bờ sông Kê-ba. Ông cảm biết quyền năng của CHÚA tại đó.

Khi nhìn thì tôi thấy một cơn bão thổi đến từ phương Bắc. Có một đám mây lớn xung quanh viền sáng có lửa lóe ra từ đám mây. Có vật gì giống như kim loại cháy đỏ [b] nằm giữa đám lửa. Bên trong đám mây có cái gì trông như bốn con thú, hình dạng giống như người ta, nhưng mỗi con có bốn mặt và bốn cánh. Các chân chúng nó thẳng đứng. Bàn chân chúng giống như móng bò và lóng lánh như đồng đánh bóng. Ở dưới cánh các con thú có bàn tay người. Mỗi con thú đều có bốn mặt và bốn cánh, các cánh chạm nhau. Khi các con thú đi thì không quay qua hướng nào cả mà cứ đi thẳng tới.

10 Mỗi con thú có bốn mặt: mặt người phía trước, mặt sư tử bên phải, và mặt bò đực bên trái. Mỗi con có một mặt giống như mặt chim ưng. 11 Mặt chúng giống như vậy. Cánh chúng nó xoè ra phía trên. Mỗi con có hai cánh tiếp xúc với một trong các con thú kia và hai cánh che thân. 12 Mỗi con đều đi thẳng trước mặt. Hễ nơi nào thần linh [c] đi thì các con thú đi, không quay sang bên nào cả. 13 Các con thú giống như than cháy lửa đỏ hay đuốc sáng. Lửa loè tới lui giữa các con thú. Lửa đó rất sáng và có chớp lòe ra nữa. 14 Các con thú chạy đi chạy lại nhanh như tia chớp [d].

15 Khi tôi đang nhìn các con thú thì tôi thấy có một bánh xe trên đất bên cạnh các con thú có bốn mặt. 16 Các bánh xe và cách kiến trúc như sau: Chúng giống như bích ngọc lóng lánh. Bốn bánh xe đều giống nhau như bánh xe lồng trong bánh xe khác. 17 Khi di chuyển thì chúng đi theo một trong bốn hướng, không quay qua bên nào [e]. 18 Viền của bánh xe rất cao, trông ghê sợ và xung quanh viền đều đầy những con mắt.

19 Khi các con thú di chuyển thì các bánh xe đi kề bên. Khi các con thú được nhấc lên khỏi đất thì các bánh xe cũng nhấc lên. 20 Nơi nào thần linh đi thì các con thú cũng đi. Các bánh xe đi kèm theo bên chúng vì thần của các con thú nằm trong các bánh xe. 21 Lúc các con thú di chuyển thì các bánh xe cũng lăn. Khi chúng dừng thì các bánh xe cũng dừng. Khi các con thú được nhấc lên khỏi đất thì các bánh xe cũng được nhấc lên kề bên chúng, vì thần của các con thú ở trong các bánh xe.

22 Phía trên đầu của các con thú có cái gì giống như cái vòm [f] tròn lóng lánh như nước đá trông rất khủng khiếp. 23 Dưới cái vòm tròn thì các cánh của các con thú xoè ra thẳng với nhau. Mỗi con thú cũng có hai cánh che thân. 24 Tôi nghe tiếng cánh chúng giống như tiếng gầm của biển cả khi chúng vỗ cánh. Nghe giống như tiếng của Thượng Đế Toàn Năng, tiếng vang rền như tiếng của đạo quân ồn ào. Khi các con thú dừng lại thì các cánh rũ xuống.

25 Có tiếng từ vòm phía trên đầu các con thú. Khi các con thú dừng lại, thì các cánh rũ xuống. 26 Phía trên vòm có cái gì giống như cái ngai. Ngai đó như bích ngọc. Và trên ngai có ai giống như con người. 27 Rồi tôi nhận thấy từ hông trở lên hình dạng giống như kim loại cháy đỏ bên trong. Từ hông trở xuống giống như lửa, và xung quanh có ánh sáng bao phủ. 28 Ánh sáng chung quanh giống như cái mống trong mây vào một ngày mưa. Người giống như vinh quang của CHÚA. Khi thấy người thì tôi cúi sấp mặt xuống và nghe có tiếng phán.

Chúa phán cùng Ê-xê-chiên

Ngài phán cùng tôi, “Hỡi con người [g], hãy đứng thẳng lên để ta có thể nói chuyện với ngươi.” Trong khi Ngài đang nói với tôi thì Thần Linh nhập vào tôi [h], khiến tôi đứng thẳng lên. Rồi tôi nghe tiếng CHÚA nói cùng tôi.

Ngài phán, “Hỡi con người, ta sai ngươi đến cùng dân Ít-ra-en. Dân đó đã chống nghịch ta và quay khỏi ta. Chúng và tổ tiên chúng đã phản loạn cùng ta cho đến ngày nay. Ta sai ngươi đến cùng một thế hệ ương ngạnh, bất vâng phục. Ngươi sẽ nói cùng chúng, ‘Đây là lời phán của CHÚA, là Thượng Đế.’ Chúng có thể sẽ nghe hay không nghe ngươi vì chúng là một dân chống nghịch ta. Nhưng ít ra chúng cũng biết là có một nhà tiên tri ở giữa chúng.

Hỡi con người, ngươi chớ sợ chúng cũng như lời nói của chúng. Dù chúng giống như cành gai gốc quanh ngươi, dù cho ngươi cảm thấy như sống giữa các con bọ cạp, đừng sợ hãi. Đừng sợ lời chúng nói hay cái nhìn của chúng vì chúng là một dân chống nghịch ta. Hãy thuật lại lời ta nói cùng chúng. Chúng có thể nghe hay không nghe vì chúng đã chống nghịch ta. Nhưng ngươi, hỡi con người, hãy chú ý nghe lời ta phán cùng ngươi. Đừng chống nghịch ta như chúng nó. Hãy mở miệng ra và ăn nuốt điều ta sắp cho ngươi.”

Rồi tôi nhìn thì thấy có một bàn tay xoè ra cho tôi, trong đó có một cuộn giấy. 10 Người mở cuộn giấy trước mặt tôi. Trong đó có các bài ai ca, nhạc buồn, và những lời mô tả các điều khốn khổ ghi đầy từ mặt trước đến mặt sau.

Rồi CHÚA phán cùng tôi, “Hỡi con người [i], hãy ăn vật ngươi thấy; hãy ăn cuộn sách nầy. Rồi hãy đi ra nói cùng dân Ít-ra-en.” Vậy tôi mở miệng và Ngài trao cho tôi cuộn sách để ăn.

Ngài bảo tôi, “Hỡi con người, hãy ăn cuộn sách mà ta trao cho ngươi, cho thật đầy bụng. Vậy tôi ăn cuộn sách đó thì tôi thấy thật ngọt như mật ong trong miệng.”

Rồi Ngài bảo tôi, “Hỡi con người, hãy đi đến cùng dân Ít-ra-en và thuật lại lời ta cho chúng. Ta không sai ngươi đến cùng một dân nói thứ tiếng mà ngươi không hiểu. Ngươi được sai đến cùng dân Ít-ra-en. Ta không sai ngươi đến nhiều dân tộc nói thứ tiếng mà ngươi không hiểu, chữ nghĩa ngươi không biết. Nếu ta sai ngươi đến các dân ấy, chắc chúng nó sẽ nghe ngươi. Nhưng dân Ít-ra-en sẽ không chịu nghe ngươi vì chúng không chịu nghe ta. Thật vậy, tất cả dân Ít-ra-en đều ương ngạnh không vâng lời. Thấy không, nay ta khiến ngươi trở nên ương ngạnh như chúng vậy. Ta làm cho ngươi cứng như kim cương, cứng hơn đá. Đừng sợ cũng đừng kinh hãi chúng dù chúng là dân chống nghịch ta.”

10 Ngài cũng phán cùng tôi, “Hỡi con người, hãy tin mọi lời ta phán cùng ngươi, nghe cho thật cẩn thận. 11 Rồi hãy đi đến dân bị tù đày, tức dân tộc ngươi, bảo chúng rằng, ‘CHÚA là Thượng Đế phán thế nầy. Dù chúng nghe hay không, cứ bảo cho chúng biết.’”

12 Sau đó Thần Linh [j] nhấc tôi lên, tôi nghe có tiếng vang động phía sau tôi và sự vinh hiển của CHÚA cất lên từ nơi ấy. [k] 13 Tôi nghe tiếng đập cánh của các con thú và tiếng bánh xe chạy kế bên chúng. Đó là tiếng vang động. 14 Rồi thần linh nhấc tôi lên mang tôi đi. Tôi buồn bực trong lòng, rồi tôi cảm biết quyền lực lớn lao của CHÚA. 15 Tôi đi đến chỗ các tù binh bị đày của Giu-đa đang sống bên bờ sông Kê-ba ở Tên-A-bíp [l]. Tôi ngồi ở đó với họ bảy ngày, trong lòng hoang mang.

Lời cảnh cáo Ít-ra-en

16 Sau bảy ngày CHÚA lại phán cùng tôi như sau: 17 “Hỡi con người, nay ta đặt ngươi làm lính tuần canh cho Ít-ra-en. Hễ khi ngươi nghe lời nào từ miệng ta thì hãy cảnh cáo chúng nó. 18 Khi ta bảo kẻ ác rằng, ‘Ngươi chắc sẽ chết,’ thì ngươi phải cảnh cáo chúng để chúng sống. Còn nếu ngươi không cảnh cáo kẻ ác để chúng bỏ lối ác thì chúng sẽ chết trong tội lỗi mình nhưng ta sẽ bắt ngươi chịu trách nhiệm về cái chết của chúng. 19 Nhưng nếu ngươi cảnh cáo kẻ ác mà chúng không từ bỏ điều ác hay lối ác của chúng thì chúng sẽ chết trong tội lỗi chúng nhưng ngươi cứu được mạng mình.

20 Ngoài ra, kẻ làm điều phải có thể lìa bỏ lẽ phải và làm điều ác. Nếu ta giáng điều chẳng lành đến cho chúng, chúng sẽ chết. Vì ngươi không cảnh cáo chúng, chúng sẽ chết trong tội lỗi mình, những điều lành mà chúng làm sẽ không được nhớ đến nữa. Nhưng ta bắt ngươi chịu trách nhiệm về cái chết của chúng. 21 Nhưng nếu ngươi đã cảnh cáo những người tốt ấy đừng phạm tội, rồi họ không phạm tội, thì họ được sống vì tin lời cảnh cáo của ngươi. Như thế ngươi sẽ cứu được mạng mình.”

22 Rồi tôi cảm biết quyền năng của CHÚA tại đó. Ngài phán cùng tôi, “Hãy đứng dậy đi ra thung lũng [m]. Ta sẽ phán cùng ngươi ở đó.” 23 Vậy tôi đứng dậy đi ra đồng trống. Tôi thấy vinh quang CHÚA ở đó, giống như vinh quang tôi đã thấy bên bờ sông Kê-ba. Tôi liền sấp mặt xuống đất.

24 Rồi Thần Linh nhập vào tôi, khiến tôi đứng lên. Ngài phán cùng tôi, “Hãy đi giam mình trong nhà ngươi. 25 Về phần ngươi, hỡi con người, họ sẽ lấy dây thừng trói ngươi lại để ngươi không có thể đi ra cùng chúng được. 26 Ngoài ra ta sẽ khiến cho lưỡi ngươi dính nơi vòm họng để ngươi không nói được. Ngươi sẽ không thể biện bác với chúng, mặc dù chúng chống nghịch ta. 27 Nhưng khi ta phán cùng ngươi, ta sẽ mở miệng ngươi ra, rồi ngươi sẽ bảo chúng rằng, ‘CHÚA là Thượng Đế phán thế nầy.’ Ai muốn nghe thì nghe. Ai không nghe thì mặc kệ vì chúng là dân chống nghịch ta.”

Bản đồ thành Giê-ru-sa-lem

“Bây giờ, hỡi con người, hãy lấy một viên gạch đặt trước mặt ngươi và vẽ bản đồ Giê-ru-sa-lem lên đó. Rồi dùng một đạo quân vây nó. Hãy xây hào lũy chống nó và đắp một con đường đất lên đến chóp vách thành. Hãy dựng trại quân quanh nó và đặt các khúc cây phá vách [n] để phá sập các vách nó. Rồi ngươi hãy lấy một miếng sắt dựng đứng lên như một vách giữa ngươi và thành. Hãy quay mặt ngươi về hướng thành phố làm như thể sắp tấn công xong rồi tấn công thật. Đó sẽ là dấu hiệu cho dân Ít-ra-en.

Rồi hãy nằm nghiêng bên trái và chất tội lỗi Ít-ra-en trên mình. Ngươi nằm bao lâu thì sẽ mang tội của chúng trên mình ngươi bấy lâu. Ta ban cho ngươi số ngày bằng với số năm phạm tội của dân chúng. Vậy ngươi sẽ mang tội lỗi của Ít-ra-en trong 390 ngày [o].

Mãn 390 ngày thì hãy nằm xuống nghiêng bên phải. Ngươi sẽ mang tội lỗi của Giu-đa. Ta sẽ cho ngươi 40 ngày, mỗi ngày bằng một năm cho tội lỗi chúng. Rồi ngươi sẽ hướng về Giê-ru-sa-lem là thành đang bị tấn công. Ngươi sẽ để trần tay áo và nói tiên tri nghịch cùng Giê-ru-sa-lem. Ta sẽ buộc dây thừng quanh ngươi để ngươi không quay sang phía kia được cho đến khi ngươi đã hoàn tất xong số ngày ngươi tấn công Giê-ru-sa-lem [p].

Hãy lấy lúa mì, lúa mạch, đậu trái, đậu hột, và lúa đại mạch bỏ trong cối giã thành bột làm bánh mì cho ngươi. Ngươi sẽ ăn như thế trong ba trăm chín mươi ngày tức là thời gian mà ngươi phải nằm nghiêng một bên. 10 Ngươi sẽ ăn nửa cân [q] thực phẩm mỗi ngày theo giờ định sẵn. 11 Ngươi sẽ uống khoảng nửa lít [r] nước mỗi ngày vào giờ định sẵn. 12 Ăn thức đó như ăn bánh lúa mạch, nướng trên phân người để cho dân chúng đều thấy.” 13 Rồi CHÚA bảo, “Cũng vậy, dân Ít-ra-en sẽ ăn thức ăn không tinh sạch [s] giữa các dân tức những nơi ta đày chúng đến.”

14 Nhưng tôi phản đối, “Không được, thưa CHÚA! Tôi chưa bao giờ tự làm cho mình ô dơ. Từ lúc tôi còn trẻ đến nay tôi chưa hề ăn món gì chết tự nhiên hay bị thú xé. Chưa hề có món ăn nào không sạch vào miệng tôi.”

15 CHÚA đáp, “Thôi được. Ta cho phép ngươi dùng phân bò thay vì phân người để làm lửa nướng bánh.”

16 Ngài cũng bảo tôi, “Hỡi con người, ta sẽ cắt đứt nguồn thực phẩm của Giê-ru-sa-lem. Chúng sẽ ăn bánh mì được người ta lường cho và sẽ vừa ăn vừa lo lắng. Chúng cũng sẽ lường nước mà uống và sẽ kinh hoàng khi uống. 17 Vì bánh và nước sẽ rất hiếm hoi. Dân chúng sẽ kinh hoàng khi nhìn nhau và sẽ trở nên yếu ớt vì tội lỗi mình.”

Footnotes

  1. Ê-xê-ki-ên 1:2 ngày năm … năm thứ năm Nếu năm nầy nói đến số tuổi của Ê-xê-chiên thì nó trùng với năm thứ năm của cuộc lưu đày, tức ngày 31, tháng 7 dương lịch, năm 593 trước Công nguyên.
  2. Ê-xê-ki-ên 1:4 kim loại cháy đỏ Tiếng Hê-bơ-rơ có thể nghĩa là “đồng nóng chảy,” hay “kim loại gồm bạc và vàng.” Xem câu 27.
  3. Ê-xê-ki-ên 1:12 thần linh Hay “gió.” Xem câu 20.
  4. Ê-xê-ki-ên 1:14 chạy đi chạy lại nhanh như tia chớp Hay “Có vật gì giống tia chớp chạy đi chạy lại giữa các con thú.”
  5. Ê-xê-ki-ên 1:17 Khi di chuyển … qua bên nào Hay “Các bánh xe có thể quay bốn hướng, nhưng khi di chuyển thì nó không quay bên nào.”
  6. Ê-xê-ki-ên 1:22 cái vòm Tiếng Hê-bơ-rơ ở chỗ nầy cũng giống như chữ “vòm” dùng trong Sáng 1:6-7 để mô tả bầu trời.
  7. Ê-xê-ki-ên 2:1 con người Từ ngữ nầy thường dùng để nói về “một người” hay “một con người.” Ở đây là cách xưng hô, gọi Ê-xê-chiên là một người được Ngài chọn làm nhà tiên tri của Ngài. Suốt cả sách chúng ta phải hiểu theo nghĩa ấy.
  8. Ê-xê-ki-ên 2:2 Thần Linh nhập vào tôi Hay “một luồng gió thổi đến.”
  9. Ê-xê-ki-ên 3:1 con người Từ ngữ nầy thường dùng để nói về “một người” hay “một con người.” Ở đây là cách gọi Ê-xê-chiên. Xem các câu 3, 4, 10, 17, 25.
  10. Ê-xê-ki-ên 3:12 Thần Linh Hay “gió.” Xem câu 24.
  11. Ê-xê-ki-ên 3:12 vang động … từ nơi ấy Hay “vang rầm phía sau tôi rằng: Hãy ca ngợi sự vinh hiển của Chúa trên trời.”
  12. Ê-xê-ki-ên 3:15 Tên-A-bíp Bây giờ là Tel Aviv. Lúc ấy thành phố nầy nằm bên ngoài xứ Ít-ra-en. Tên thành phố nầy có nghĩa là “Đồi Xuân.”
  13. Ê-xê-ki-ên 3:22 thung lũng Có lẽ là thung lũng Ghít-rê-ên, một vùng phì nhiêu đã là nơi xảy ra nhiều trận đánh. Thường thì người ta chỉ gọi nơi nầy là “Thung lũng.”
  14. Ê-xê-ki-ên 4:2 khúc cây phá vách Những khúc cây lớn mà binh sĩ dùng để chọc thủng vách thành.
  15. Ê-xê-ki-ên 4:5 390 ngày Bản cổ Hi-lạp ghi “190 ngày.”
  16. Ê-xê-ki-ên 4:8 ngươi tấn công Giê-ru-sa-lem Hay “ngươi tấn công thành phố.” Đây là một lối chơi chữ. Tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là “đói kém,” “thời kỳ khó khăn,” hay “tấn công thành phố.”
  17. Ê-xê-ki-ên 4:10 nửa cân Nguyên văn, “20 sê-ken” (khoảng 240 gờ ram).
  18. Ê-xê-ki-ên 4:11 nửa lít Nguyên văn, “một phần sáu hin.”
  19. Ê-xê-ki-ên 4:13 thức ăn không tinh sạch Những thức ăn mà dân Ít-ra-en bị cấm dùng hay là những thức ăn không được nấu đúng cách theo luật lệ qui định.

Khải Tượng về Các Sinh Vật

Vào ngày mồng năm, tháng tư, năm thứ ba mươi, khi tôi đang ngồi giữa những người bị lưu đày bên bờ Sông Kê-ba, các tầng trời mở ra và tôi thấy các khải tượng của Ðức Chúa Trời.

Vào ngày mồng năm tháng ấy, tức vào năm thứ năm sau khi Vua Giê-hô-gia-kin bị bắt đi lưu đày, lời của Chúa đến với Tư Tế Ê-xê-chi-ên con của Bu-xi, bên bờ Sông Kê-ba trong đất của người Canh-đê. Tay Chúa đặt trên ông tại đó.

Tôi nhìn xem và kìa, một trận cuồng phong từ phương bắc thổi đến. Một đám mây thật lớn ùn ùn kéo đến. Chớp nhoáng từ trong mây phát ra rực sáng chung quanh. Giữa đám mây có vật gì lóng lánh như kim loại. Từ giữa đám mây ấy có những vật gì giống như bốn sinh vật xuất hiện. Ðây là hình dạng của các sinh vật ấy: các sinh vật ấy có hình dạng giống người ta. Mỗi sinh vật có bốn mặt, và mỗi sinh vật có bốn cánh. Chân các sinh vật ấy đứng thẳng như chân người, nhưng bàn chân chẻ ra như bàn chân của bò con và lấp lánh như đồng bóng láng. Bên dưới các cánh và ở bốn phía có các cánh tay giống như tay người. Cả bốn sinh vật đều có các mặt và các cánh. Các cánh của các sinh vật ấy chạm vào nhau. Khi đi, các sinh vật ấy không quay mặt nhìn, nhưng mỗi sinh vật đi thẳng về phía trước. 10 Bốn mặt của các sinh vật ấy như sau: các sinh vật ấy có mặt người phía trước; bốn sinh vật có mặt sư tử bên phải; bốn sinh vật có mặt bò bên trái; và bốn sinh vật có mặt đại bàng phía sau. 11 Ðó là các mặt của các sinh vật ấy. Mỗi sinh vật có hai cặp cánh. Một cặp giương lên và chạm vào cánh của sinh vật bên cạnh; một cặp rũ xuống che thân thể.

12 Mỗi sinh vật đi thẳng về phía trước. Hễ Thần muốn đi hướng nào, các sinh vật ấy đi hướng đó. Các sinh vật ấy đi thẳng về phía trước và không quay mặt để nhìn. 13 Các sinh vật ấy giống như những than lửa hừng đang rực cháy. Ở giữa các sinh vật ấy có các vật gì giống như các ngọn đuốc đang cháy và bay lên bay xuống. Từ trong lửa ấy tỏa ra ánh sáng, và cũng từ trong lửa ấy bắn ra những tia chớp. 14 Các sinh vật ấy chạy tới chạy lui giống như chớp.

15 Khi tôi nhìn các sinh vật ấy, tôi thấy bên cạnh mỗi sinh vật có một bánh xe trên mặt đất. Mỗi sinh vật bốn mặt ấy đều có một bánh xe như thế. 16 Hình dáng và cấu trúc của các bánh xe như sau: hình dáng của chúng lấp lánh như lục bích ngọc. Bốn bánh xe có hình dáng giống nhau; cấu trúc của chúng giống như một bánh xe ở giữa một bánh xe. 17 Khi di chuyển, chúng có thể đi về bất cứ hướng nào mà không cần quay bánh xe về hướng đó. 18 Các vành bánh xe rất cao lớn và đáng sợ, vì chung quanh bốn vành bánh xe có đầy những mắt. 19 Khi các sinh vật di chuyển, các bánh xe cũng di chuyển theo bên cạnh. Khi các sinh vật cất lên khỏi mặt đất, các bánh xe cũng cất lên theo. 20 Hễ Thần đi đâu, các sinh vật đi đó, và các bánh xe cũng cất lên theo đó, vì Thần của các sinh vật ngự trong các bánh xe. 21 Khi các sinh vật di chuyển, các bánh xe cũng di chuyển theo; khi các sinh vật dừng lại, các bánh xe cũng dừng lại; khi các sinh vật cất lên khỏi đất, các bánh xe cũng cất lên theo, vì Thần của các sinh vật ngự trong các bánh xe.

22 Phía trên đầu các sinh vật có cái gì giống như một vòm trong sáng tựa thủy tinh, trông thật đáng sợ, trải ra phía trên đầu các sinh vật ấy. 23 Bên dưới vòm, các cánh của các sinh vật dang ra hướng về sinh vật bên cạnh, và mỗi sinh vật có hai cánh che thân. 24 Khi các sinh vật ấy di chuyển, tôi nghe tiếng các cánh của các sinh vật ấy đập như tiếng của các đợt sóng lớn đập vào bờ, như tiếng của Ðấng Toàn Năng tuyên phán, như tiếng reo hò của một đại quân. Khi các sinh vật ấy dừng lại, các cánh của các sinh vật ấy rũ xuống. 25 Bấy giờ từ bên trên cái vòm ở trên đầu các sinh vật ấy có một tiếng lớn vọng xuống. Khi các sinh vật ấy dừng lại, các cánh của các sinh vật ấy rũ xuống.

26 Bên trên cái vòm ở trên đầu các sinh vật ấy có vật gì giống như một cái ngai làm bằng lam bảo ngọc. Ngồi trên ngai có ai trông tựa hình dạng của một người. 27 Từ ngang lưng người ấy trở lên, tôi thấy một vầng hào quang màu hổ phách lóng lánh bao quanh, giống như lửa lấp lánh; còn từ ngang lưng trở xuống, tôi thấy có cái gì giống như một hào quang bằng lửa tỏa sáng chung quanh. 28 Giống như một cầu vồng xuất hiện trên mây trong ngày mưa thể nào, hào quang chung quanh người đó cũng giống thể ấy. Ðó là hào quang phản ánh vinh quang của Chúa.

Khi tôi thấy thế, tôi sấp mặt xuống đất, và tôi nghe có tiếng của một Ðấng phán với tôi.

Khải Tượng về Cuộn Sách

Ðấng ấy phán với tôi rằng, “Hỡi con người, hãy đứng dậy trên chân ngươi, vì Ta sắp phán với ngươi.” Khi Ngài vừa phán với tôi xong, Thần nhập vào tôi, làm cho tôi đứng dậy trên chân mình, để tôi có thể nghe tiếng phán của Ngài.

Ngài phán với tôi, “Hỡi con người, Ta sai ngươi đến với dân I-sơ-ra-ên, đến với một dân phản nghịch, những kẻ đã nổi loạn chống lại Ta. Chúng và tổ tiên chúng đã cố tình vi phạm chống nghịch Ta cho đến ngày nay. Ðó là những đứa con hỗn láo và cứng lòng. Ta sai ngươi đến với chúng, và ngươi sẽ bảo chúng rằng, ‘Chúa Hằng Hữu[a] phán thế nầy.’ Bất kể chúng nghe hay không nghe –vì chúng là một nhà phản loạn– chúng sẽ biết rằng có một tiên tri đang ở giữa chúng. Phần ngươi, hỡi con người, chớ sợ chúng, và cũng đừng sợ những lời chúng nói. Dù các bụi gai và gai góc bao lấy ngươi, và dù ngươi phải ở giữa các bò cạp đi nữa, ngươi chớ sợ những lời của chúng, và đừng kinh hãi khi chúng trừng ngó ngươi, vì chúng là một nhà phản loạn. Ngươi sẽ nói với chúng những lời Ta phán, bất kể chúng nghe hay không nghe, vì chúng là một nhà phản loạn.

Phần ngươi, hỡi con người, hãy nghe những gì Ta phán với ngươi. Chớ phản loạn như nhà phản loạn đó. Hãy mở miệng ngươi ra và ăn nuốt những gì Ta ban cho ngươi.”

Tôi nhìn xem, và kìa, có một bàn tay tiến gần đến tôi, trong bàn tay đó có một cuộn sách. 10 Ngài mở cuộn sách ấy ra cho tôi xem. Cuộn sách ấy được viết cả mặt trong lẫn mặt ngoài. Những lời được viết trong đó là những lời ai ca, than khóc, và nguyền rủa.

Ngài phán với tôi, “Hãy ăn những gì Ta ban cho ngươi. Hãy ăn cuộn sách nầy, rồi đi, và nói cho nhà I-sơ-ra-ên biết.” Vậy tôi mở miệng ra, Ngài ban cho tôi cuộn sách để tôi ăn. Ngài phán với tôi, “Hỡi con người, hãy ăn cuộn sách Ta ban cho ngươi và hãy làm cho nó đầy bụng ngươi.” Tôi ăn nó, và nó ngọt như mật trong miệng tôi.

Ngài phán với tôi, “Hỡi con người, hãy đi đến nhà I-sơ-ra-ên và nói với chúng những lời Ta. Ta không sai ngươi đến với một dân nói một thứ tiếng lạ và một ngôn ngữ khó hiểu, nhưng đến với nhà I-sơ-ra-ên, không phải đến với những dân nói các thứ tiếng lạ và những ngôn ngữ khó hiểu, mà tiếng nói của chúng ngươi không hiểu được. Nếu Ta sai ngươi đến với chúng, ắt chúng sẽ nghe ngươi. Nhưng nhà I-sơ-ra-ên sẽ không nghe ngươi đâu, vì chúng chẳng muốn nghe Ta, vì cả nhà I-sơ-ra-ên đều cứng trán và cứng lòng. Này, Ta sẽ làm cho mặt ngươi chai cứng để có thể đối phó với mặt chúng, và Ta làm cho trán ngươi thật cứng để có thể đương đầu với trán chúng. Ta sẽ làm cho trán ngươi cứng hơn đá hoa cương, cứng hơn đá lửa. Ðừng sợ chúng và chớ kinh hãi khi chúng trừng ngó ngươi, vì chúng là nhà phản loạn.”

10 Ngài phán với tôi, “Hỡi con người, tất cả những lời Ta phán với ngươi, ngươi hãy nghe cho kỹ và ghi lòng tạc dạ. 11 Sau đó ngươi hãy đến với những kẻ bị lưu đày, đến với đồng bào ngươi, và nói lại với chúng. Hãy bảo chúng rằng, ‘Chúa Hằng Hữu phán thế nầy,’ bất kể chúng nghe hay không nghe cũng mặc.”

Ê-xê-chi-ên Bên Bờ Sông Kê-ba

12 Bấy giờ Thần cất tôi lên, và tôi nghe đằng sau tôi có một tiếng lớn như sấm nổ vang rền –Tôn ngợi vinh hiển của Chúa trong nơi Ngài ngự– 13 đồng thời có tiếng của cánh các sinh vật đập vào nhau, tiếng của các bánh xe quay bên cạnh các sinh vật ấy, và một tiếng lớn như sấm nổ vang rền. 14 Thần cất tôi lên và đem tôi đi. Tôi đi trong cay đắng, và tâm linh tôi nóng nảy, nhưng tay Chúa đè mạnh trên tôi. 15 Tôi đã đến Tên A-bíp, nơi những người bị lưu đày đang sống bên bờ Sông Kê-ba. Tôi ngồi tại đó giữa họ và bàng hoàng trong bảy ngày.

16 Cuối bảy ngày, lời của Chúa đến với tôi, 17 “Hỡi con người, Ta lập ngươi làm người canh gác nhà I-sơ-ra-ên. Mỗi khi ngươi nghe lời nào từ miệng Ta phán ra, ngươi phải cảnh cáo chúng cho Ta. 18 Nếu Ta bảo kẻ gian ác rằng, ‘Ngươi chắc chắn phải chết,’ và nếu ngươi không cảnh cáo nó hay lên tiếng khuyến cáo kẻ gian ác phải lìa bỏ đường lối ác của nó để cứu mạng nó, kẻ gian ác đó ắt sẽ chết trong tội lỗi nó, nhưng Ta sẽ đòi máu nó nơi tay ngươi. 19 Nhưng nếu ngươi cảnh cáo kẻ gian ác, và nó không lìa bỏ việc gian ác của nó, hay lìa bỏ đường lối ác của nó, nó sẽ chết trong tội lỗi nó, nhưng ngươi sẽ cứu được mạng sống mình. 20 Nếu người ngay lành lìa bỏ việc ngay lành của nó mà phạm tội, Ta sẽ đặt một vật làm vấp ngã trước mặt nó, nó sẽ chết, bởi vì ngươi không cảnh cáo nó, nó sẽ chết trong tội lỗi nó, và việc ngay lành của nó sẽ không còn được nhớ đến nữa, nhưng Ta sẽ đòi máu nó nơi tay ngươi. 21 Tuy nhiên, nếu ngươi cảnh cáo người ngay lành, khuyến cáo nó đừng phạm tội, và nó không phạm tội, nó chắc chắn sẽ được sống, bởi vì nó nghe theo lời cảnh cáo, và ngươi sẽ cứu được mạng sống mình.”

Ê-xê-chi-ên Bị Cô Lập

22 Tay Chúa đặt trên tôi tại đó. Ngài phán với tôi, “Hãy đứng dậy và đi vào thung lũng, rồi Ta sẽ phán với ngươi tại đó.” 23 Vậy tôi đứng dậy và đi vào thung lũng. Kìa, vinh quang của Chúa đang đứng tại đó, giống như vinh quang tôi đã thấy bên bờ Sông Kê-ba. Thấy vậy tôi liền sấp mặt xuống đất. 24 Thần nhập vào tôi, làm cho tôi đứng dậy trên chân mình. Ngài phán với tôi và bảo tôi, “Hãy đi về, giam mình trong nhà ngươi. 25 Về phần ngươi, hỡi con người, người ta sẽ lấy dây thừng trói ngươi lại, và ngươi sẽ bị chúng trói lại để không thể đi ra gặp đồng bào ngươi được. 26 Ta sẽ làm cho lưỡi ngươi dính nơi hốc miệng ngươi, để ngươi không thể nói được, hầu ngươi không thể khiển trách chúng, vì chúng là nhà phản loạn. 27 Nhưng khi nào Ta phán với ngươi, Ta sẽ mở miệng ngươi, bấy giờ ngươi sẽ nói với chúng, ‘Chúa Hằng Hữu phán thế nầy.’ Hễ ai muốn nghe thì nghe, còn ai không muốn nghe cứ để chúng từ chối lắng nghe, vì chúng là nhà phản loạn.”

Mô Hình Giê-ru-sa-lem Bị Vây

“Còn ngươi, hỡi con người, hãy lấy một tấm đất sét nung, đặt nó trước mặt ngươi, rồi hãy lập trên đó sơ đồ một cái thành, Thành Giê-ru-sa-lem. Sau đó hãy tạo những mô hình về một cuộc bao vây thành ấy, xây chiến lũy để bao vây nó, đắp ụ để tấn công nó, dựng các doanh trại để tiến đánh nó, đặt các phiến gỗ nặng để công phá chung quanh nó. Sau đó hãy lấy một chảo sắt đặt ở giữa ngươi và thành để làm một bức tường sắt; rồi hãy quay mặt ngươi hướng về nó để chống lại nó, đặt nó ở trong tình trạng bị bao vây, và ngươi sẽ bao vây nó. Ðó là dấu chỉ về nhà I-sơ-ra-ên.

Sau đó ngươi sẽ nằm nghiêng bên trái, và gánh lấy hình phạt của nhà I-sơ-ra-ên trên mình ngươi. Ngươi mang lấy hình phạt của nó theo số ngày ngươi nằm nghiêng ở đó, vì Ta đã định cho ngươi số ngày tương đương với số năm tội lỗi của chúng – ba trăm chín mươi ngày. Ðó là thời gian ngươi sẽ mang lấy tội lỗi của nhà I-sơ-ra-ên. Khi ngươi làm xong việc đó, ngươi phải nằm xuống nữa, lần nầy ngươi sẽ nằm nghiêng bên phải, để gánh lấy tội lỗi của nhà Giu-đa. Ta đã định cho ngươi bốn mươi ngày, mỗi ngày cho một năm. Ngươi sẽ xây mặt hướng về Giê-ru-sa-lem đang bị bao vây, đưa cánh tay trần ra, và nói tiên tri chống lại nó. Này, Ta sẽ lấy dây thừng trói ngươi lại, để ngươi không thể trở mình qua lại, cho đến khi ngươi nằm đủ số ngày ngươi phải nằm nghiêng một bên.

Ngươi hãy lấy lúa mì, lúa mạch, đậu trắng, đậu đỏ, hạt kê, và bột mì, đem bỏ tất cả vào một cái vò, rồi lấy ra làm bánh mà ăn. Trong suốt thời gian ngươi nằm nghiêng một bên, ba trăm chín mươi ngày, ngươi sẽ ăn bánh ấy. 10 Lương thực ngươi ăn sẽ được tính theo cân lượng, hai trăm ba mươi gờ-ram[b] mỗi ngày, và phải ăn đúng các giờ giấc quy định. 11 Ngươi sẽ uống nước cũng theo cân lượng, hai phần ba lít[c] mỗi ngày, và phải uống theo giờ giấc đã quy định. 12 Ngươi sẽ ăn bánh tráng làm bằng bột lúa mạch nướng trên phân người trước mặt người ta.” 13 Chúa phán, “Dân I-sơ-ra-ên sẽ ăn bánh ô uế như thế giữa các nước Ta xua chúng đến.”

14 Bấy giờ tôi nói, “Ôi, lạy Chúa Hằng Hữu! Con chưa bao giờ làm cho mình bị ô uế. Từ nhỏ đến giờ con chưa bao giờ ăn thịt một con vật bị chết hoặc bị thú dữ cắn xé; ngay cả thịt có chút mùi hôi cũng không bao giờ vào miệng con.”

15 Ngài phán với tôi, “Này, Ta cho ngươi được dùng phân bò thay cho phân người để nướng bánh ăn.”

16 Ngài lại phán với tôi, “Hỡi con người, Ta sẽ cắt đứt nguồn cung cấp thực phẩm của Giê-ru-sa-lem. Chúng sẽ ăn bánh theo phân lượng từng khẩu phần và sống trong phập phồng lo sợ. Chúng sẽ uống nước theo phân lượng và cứ mãi hồi hộp lo âu. 17 Vì thiếu bánh ăn và nước uống, chúng sẽ nhìn nhau trong kinh hãi và chết dần chết mòn vì tội lỗi của chúng.”

Footnotes

  1. Ê-xê-chi-ên 2:4 nt: Adonai Yahweh (tương tự cho cả sách)
  2. Ê-xê-chi-ên 4:10 nt: 20 sê-ken
  3. Ê-xê-chi-ên 4:11 nt: 1/6 hin