Add parallel Print Page Options

33 CHÚA bảo Mô-se, “Con và dân chúng mà con mang ra khỏi Ai-cập phải rời nơi nầy, đi đến xứ mà ta thề hứa cấp cho Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp khi ta bảo, ‘Ta sẽ ban xứ đó cho con cháu con.’ Ta sẽ sai thiên sứ hướng dẫn con, và ta sẽ đuổi các dân sau đây ra khỏi xứ: dân Ca-na-an, dân A-mô-rít, dân Hê-tít, dân Phê-ri-xít, và dân Giê-bu-xít. Hãy đi đến xứ phì nhiêu. Nhưng ta sẽ không đi với các con vì ta rất có thể tiêu diệt các con dọc đường, vì các con là dân ương ngạnh.”

Khi nghe tin đó, mọi người đều buồn bã, không ai muốn mang trang sức nữa. Vì CHÚA đã phán cùng Mô-se, “Hãy bảo dân Ít-ra-en, ‘Các ngươi là dân ương ngạnh. Nếu ta chỉ đi với các ngươi một lát thôi, ta sẽ tiêu diệt các ngươi. Nên hãy cởi các đồ trang sức ra, ta sẽ quyết định xử trí với các ngươi ra sao.’” Dân Ít-ra-en liền tháo các đồ trang sức mình nơi núi Si-nai.

Lều Họp

Mô-se dùng một cái lều và dựng cách xa bên ngoài doanh trại; ông gọi đó là “Lều Họp. [a]” Ai muốn cầu hỏi CHÚA điều gì thì đến Lều Họp ngoài doanh trại. Hễ khi nào Mô-se đi đến Lều, tất cả dân chúng ngồi dậy và đứng nơi cửa lều mình, nhìn theo Mô-se cho đến khi ông đi khuất vào Lều Họp. Sau khi Mô-se vào Lều Họp, thì trụ mây lúc nào cũng hạ xuống và đứng yên ở cửa Lều trong khi CHÚA nói chuyện với Mô-se. 10 Hễ khi nào dân chúng thấy trụ mây ở cửa Lều thì mỗi người đứng dậy và bái lạy ngay trước cửa lều mình.

11 CHÚA nói chuyện với Mô-se, mặt đối mặt như người ta nói chuyện với bạn mình. Rồi Mô-se trở về doanh trại, nhưng người phụ tá trẻ tuổi của ông là Giô-suê thì không ra khỏi Lều.

Mô-se ngắm xem vinh quang của Chúa

12 Mô-se thưa với CHÚA, “Ngài bảo con hướng dẫn dân nầy, nhưng Ngài không nói sẽ sai ai đi với con. Ngài đã bảo con, ‘Ta biết con rất rõ, và ta hài lòng về con.’ 13 Nếu quả thật con làm vừa lòng Ngài, thì xin chỉ cho con chương trình của Ngài để con hiểu Ngài và luôn luôn làm đẹp lòng Ngài. Xin Ngài nhớ cho rằng, dân nầy là dân của Ngài.”

14 CHÚA đáp, “Chính mình ta sẽ đi với con, và ban cho con sự an nghỉ.” [b]

15 Rồi Mô-se thưa với CHÚA, “Nếu Ngài không đi với chúng con thì xin đừng đưa chúng con ra khỏi nơi nầy. 16 Nếu Ngài không đi với chúng con, sẽ không ai biết Ngài hài lòng về con và dân của Ngài. Dân nầy và con chẳng khác gì các dân khác trên thế giới.”

17 Rồi CHÚA bảo Mô-se, “Ta sẽ làm theo điều con yêu cầu vì ta biết con rất rõ, và ta hài lòng về con.”

18 Sau đó Mô-se xin, “Bây giờ xin tỏ vinh hiển Ngài cho con thấy.”

19 CHÚA đáp, “Ta sẽ cho con thấy sự nhân từ ta đi qua trước con, ta sẽ hô danh ta là CHÚA cho con nghe. Ta sẽ tỏ sự nhân từ cho người nào ta muốn tỏ ra, tỏ lòng nhân ái với ai ta muốn tỏ. 20 Nhưng con không thể thấy mặt ta được, vì không ai thấy ta mà còn sống.

21 Có một nơi gần ta; con có thể đứng trên tảng đá kia. 22 Khi vinh quang của ta đi ngang, ta sẽ đặt con trong một khe đá và lấy tay ta che con cho đến chừng ta đã qua khỏi. 23 Khi ta rút tay ta đi thì con sẽ thấy phía sau ta nhưng con không thể thấy mặt ta được.”

Mô-se nhận hai bảng đá mới

34 CHÚA bảo Mô-se, “Hãy đục hai bảng đá nữa giống như hai bảng trước, rồi ta sẽ viết trên đó những gì đã viết trên hai bảng mà con đã đập bể. Sáng mai hãy chuẩn bị sẵn sàng lên núi Si-nai. Hãy đứng trước mặt ta trên đỉnh núi. Không ai được đi với con hay lảng vảng gần núi. Gia súc cũng không được ăn cỏ gần núi đó.”

Vậy Mô-se đục hai bảng đá mới như hai bảng trước. Rồi sáng sớm hôm sau ông lên núi Si-nai, như CHÚA dặn, mang theo hai bảng đá. Rồi CHÚA hiện xuống trong đám mây và đứng đó với Mô-se. CHÚA hô danh Ngài: CHÚA. CHÚA đi qua trước mặt Mô-se và hô lên, “Ta là CHÚA. CHÚA là Thượng Đế nhân ái, vị tha, chậm giận, giàu tình yêu và thành tín, Ngài tỏ lòng nhân từ cho hàng ngàn người [c]. CHÚA tha thứ cho con người về sự gian ác, về tội lỗi, và về sự phản nghịch của họ đối với Ngài nhưng Ngài không quên trừng phạt kẻ có tội. Ngài không những trừng phạt kẻ có tội mà phạt luôn cả đến con cháu chắt chít họ nữa.”

Mô-se liền quì xuống đất thờ lạy. Ông thưa, “Lạy CHÚA, nếu Ngài hài lòng về con, xin đi cùng chúng con. Con biết dân nầy rất ương ngạnh, nhưng xin Ngài hãy tha sự gian ác và tội lỗi chúng con. Xin nhận chúng con làm dân Ngài.”

10 CHÚA bảo, “Ta lập giao ước nầy với con. Ta sẽ làm phép lạ trước mặt dân sự con những việc chưa hề được làm cho bất cứ dân nào trên đất. Dân sự con sẽ thấy công việc của tay ta. Ta, CHÚA, sẽ làm những điều kỳ diệu cho con. 11 Hôm nay hãy vâng theo những mệnh lệnh ta thì ta sẽ đánh đuổi dân A-mô-rít, dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân Phê-ri-xít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-xít trước mặt các con. 12 Ngươi chớ nên lập ước với dân sống trong xứ mà các ngươi sẽ đến, vì nó sẽ tạo ra cạm bẫy cho ngươi đó. 13 Hãy tiêu hủy các bàn thờ chúng nó, đập bể các trụ thờ, và phá sập các tượng thần A-sê-ra. [d] 14 Không được thờ lạy thần nào khác, vì ta, CHÚA, là Đấng đố kỵ, Thượng Đế ghen tương.

15 Đừng lập ước với dân sống trong xứ đó. Khi các ngươi thờ lạy các thần chúng nó thì chúng nó sẽ dụ các ngươi nhập theo chúng nó. Các ngươi sẽ ăn các của cúng của chúng nó. 16 Nếu các ngươi cưới con gái chúng làm vợ cho con trai các ngươi, thì bọn con gái ấy sẽ dụ con trai các ngươi thờ lạy theo, vì chúng thờ lạy các thần.

17 Đừng tạc các thần bằng đồng cho mình.

18 Hãy giữ Lễ Bánh Không Men. Trong bảy ngày các ngươi phải ăn bánh không men như ta đã truyền dặn. Kỷ niệm lễ ấy trong tháng ta đã chọn tức tháng A-bíp, vì trong tháng đó các ngươi ra khỏi Ai-cập.

19 Các con đầu lòng của người mẹ, luôn cả con đực đầu lòng của súc vật sinh trong bầy của các ngươi, đều thuộc về ta. 20 Các ngươi có thể chuộc lừa mình bằng một con chiên con, nhưng nếu các ngươi không muốn chuộc lừa mình thì phải bẻ cổ nó. Các ngươi phải chuộc lại các con trưởng nam của mình. Không ai được ra mắt ta mà không mang của dâng.

21 Ngươi được phép làm việc trong sáu ngày nhưng đến ngày thứ bảy, ngươi phải nghỉ ngơi dù là nhằm mùa trồng trọt hay mùa gặt hái cũng vậy.

22 Hãy giữ Lễ Các Tuần khi ngươi gặt lúa đầu mùa. Và giữ Lễ Lều Tạm vào mùa thu [e].

23 Mỗi năm ba lần, mọi đàn ông trong các ngươi phải ra mắt CHÚA, Thượng Đế của Ít-ra-en.

24 Ta sẽ đánh đuổi các dân trước mặt các ngươi và mở rộng ranh giới của xứ các ngươi. Các ngươi sẽ ra mắt CHÚA, Thượng Đế các ngươi, ba lần mỗi năm. Trong những dịp đó, không ai có thể chiếm đất các ngươi.

25 Không được dâng huyết làm của lễ cho ta cùng với món gì có men, và không được giữ lại chút gì của con sinh tế trong Lễ Vượt Qua cho đến sáng hôm sau.

26 Hãy mang sản vật đầu mùa tốt nhất các ngươi gặt hái từ đất đai vào Lều của CHÚA là Thượng Đế ngươi.

Ngươi không được nấu dê con trong sữa của mẹ nó.”

27 Sau đó CHÚA bảo Mô-se, “Hãy viết ra những lời nầy, vì là lời ta dùng lập giao ước với con và dân Ít-ra-en.”

28 Mô-se ở lại đó với CHÚA trong bốn mươi ngày và bốn mươi đêm, trong thời gian đó ông không ăn uống gì. Mô-se viết những lời của Giao Ước Mười Điều Giáo Lệnh trên các bảng đá.

Gương mặt Mô-se rực sáng

29 Rồi Mô-se từ núi Si-nai đi xuống, trong tay ôm hai bảng đá Giao Ước. Nhưng ông không biết rằng mặt mình sáng rực lên vì đã hầu chuyện cùng CHÚA. 30 Khi A-rôn và toàn dân Ít-ra-en nhìn thấy mặt Mô-se sáng rực thì họ sợ không ai dám tới gần ông. 31 Khi Mô-se gọi họ thì A-rôn và các vị lãnh đạo dân chúng mới đến cùng ông. Rồi ông nói chuyện với họ. 32 Sau đó toàn dân Ít-ra-en đến gần ông. Ông truyền cho họ mọi huấn lệnh CHÚA đã trao cho ông trên núi Si-nai.

33 Sau khi nói chuyện với dân chúng xong, Mô-se lấy khăn che mặt mình. 34 Khi đi gặp mặt CHÚA để thưa chuyện với Ngài, Mô-se bỏ khăn che mặt ra cho đến lúc ông đi ra. Sau đó Mô-se thuật lại cho dân Ít-ra-en biết những điều CHÚA căn dặn. 35 Họ thấy mặt ông sáng rực, nên ông phải lấy khăn che mặt cho đến khi đi vào nói chuyện cùng CHÚA.

Luật lệ về ngày Sa-bát

35 Mô-se triệu tập toàn thể cộng đồng Ít-ra-en lại bảo, “Đây là những điều CHÚA truyền dặn đồng bào.

‘Ngươi sẽ làm việc trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy là ngày thánh, ngày Sa-bát nghỉ ngơi để tôn kính CHÚA. Ai làm việc trong ngày đó sẽ bị xử tử. Trong ngày Sa-bát, ngươi không được nhen lửa trong nhà ngươi.’”

Những vật dụng cần cho Lều Thánh

Mô-se bảo toàn dân Ít-ra-en, “Đây là điều CHÚA truyền: Lấy trong của cải ngươi, dâng một của lễ cho CHÚA. Tùy lòng mỗi người, hãy dâng cho CHÚA những món sau đây: vàng, bạc, đồng, chỉ xanh, tím và đỏ, vải gai mịn, lông dê da chiên đực nhuộm đỏ. Các ngươi cũng có thể mang da thuộc loại tốt, gỗ cây keo, dầu ô-liu dùng thắp đèn, các hương liệu cho dầu ô-liu đặc biệt dùng để bổ nhiệm các thầy tế lễ và trầm hương, ngọc mã não và các thứ ngọc để kết vào áo ngắn thánh cùng bảng che ngực của các thầy tế lễ.

10 Các thợ thủ công khéo tay sẽ làm mọi điều như CHÚA truyền: 11 Lều Thánh, lều bên ngoài và miếng phủ, móc, khung, đòn ngang, trụ, và đế, 12 Rương Giao Ước, các đòn khiêng, nắp đậy, và bức màn phía trước Rương; 13 cái bàn, và các đòn khiêng và mọi đồ phụ tùng chung với bàn, cùng bánh bày ra trước sự hiện diện của Thượng Đế; 14 chân đèn để soi sáng và mọi vật dụng phụ tùng, cái đèn, dầu ô-liu dùng thắp đèn; 15 bàn thờ xông hương và các đòn khiêng, dầu đặc biệt và trầm hương, bức màn che cửa ra vào Lều Thánh; 16 bàn thờ dâng của lễ thiêu và lưới sắt, các đòn khiêng và dụng cụ, chậu đồng và đế; 17 các bức màn quanh sân họp, cột và đế, bức màn che cửa vào sân họp; 18 các cọc Lều Thánh và của sân họp cùng các dây thừng; 19 các trang phục đặc biệt mà các thầy tế lễ sẽ mặc trong Nơi Thánh. Đó là những trang phục thánh cho A-rôn, là thầy tế lễ, và các con trai ông mặc khi thi hành chức vụ tế lễ.”

Các của lễ mà dân chúng mang đến

20 Rồi toàn dân ra về sau khi gặp Mô-se. 21 Ai có lòng đều đến dâng một món quà cho CHÚA để làm Lều Thánh, mọi vật dụng của Lều, và các trang phục đặc biệt. 22 Tất cả đàn ông, đàn bà, ai vui lòng đều mang trang sức bằng vàng đủ loại kẹp [f], bông tai, nhẫn, vòng xuyến. Họ dâng các món đồ bằng vàng ấy cho CHÚA.

23 Ai có chỉ xanh, tím, và đỏ, vải gai mịn, hoặc ai có lông dê, da chiên đực nhuộm đỏ hoặc da thuộc loại tốt mang đến cho CHÚA. 24 Ai có thể dâng vàng hay đồng mang đến dâng cho CHÚA, và người nào có gỗ cây keo dùng trong công tác cũng mang đến. 25 Các phụ nữ khéo tay làm chỉ xanh, tím, và đỏ, vải gai mịn, đều mang đến những gì họ làm ra. 26 Tất cả các phụ nữ khéo tay đều vui lòng giúp làm chỉ bằng lông dê.

27 Các lãnh tụ mang ngọc mã não và các thứ ngọc quý khác để nạm vào áo ngắn thánh và bảng che ngực cho thầy tế lễ. 28 Họ cũng mang các hương liệu và dầu ô-liu để pha trầm hương, dầu đặc biệt, và dầu để thắp đèn.

29 Tất cả đàn ông, đàn bà trong Ít-ra-en có lòng muốn đóng góp đều rộng rãi mang của dâng đến cho CHÚA để dự phần vào công tác Ngài truyền dặn Mô-se và dân chúng.

Bê-xa-lên và Ô-hô-li-áp

30 Rồi Mô-se bảo người Ít-ra-en, “Nầy, CHÚA đã chọn Bê-xa-lên, con trai U-ri, cháu Hu-rơ, từ chi tộc Giu-đa. 31 CHÚA đã đổ Thần linh của Thượng Đế lên Bên-xa-lên và ban cho ông tài khéo tay, khả năng và hiểu biết để làm đủ mọi công tác. 32 Ông có thể chế các kiểu để khắc vào vàng, bạc, và đồng, 33 có thể đẽo đá và ngọc quý để nạm vào trong kim loại, khắc gỗ, và làm đủ mọi công việc. 34 Ngoài ra, CHÚA cũng ban cho Bên-xa-lên và Ô-hô-li-áp, con trai A-hi-ma-sách từ chi tộc Đan, khả năng giảng dạy người khác. 35 CHÚA đã ban cho họ tài khéo tay để làm đủ thứ công việc. Hai người đó có thể khắc các kiểu vào gỗ, sắt và đá. Họ cũng có thể vẽ kiểu và thêu lên vải gai mịn dùng chỉ xanh, tím và đỏ. Họ cũng có tài dệt nữa.”

Footnotes

  1. Xuất Hành 33:7 Lều Họp Đây có thể là lều tạm mà Mô-se dựng lên cho đến khi Lều Họp chính thức được xây cất.
  2. Xuất Hành 33:14 cho con sự an nghỉ Hay “hướng dẫn con.”
  3. Xuất Hành 34:7 hàng ngàn người Hay “hàng ngàn thế hệ.”
  4. Xuất Hành 34:13 tượng thần A-sê-ra Đây là những dấu tích bằng đá hay các trụ gỗ mà dân chúng dựng nên để nhắc nhở và thờ lạy các thần giả.
  5. Xuất Hành 34:22 mùa thu Nguyên văn, “lúc bắt đầu đổi mùa.”
  6. Xuất Hành 35:22 kẹp Hay “móc.” Đây là những kẹp hay kim băng dùng làm nút để thắt các áo với nhau.

Lệnh Rời Núi Si-nai

33 Chúa phán với Môi-se, “Hãy đi, hãy rời khỏi nơi nầy, ngươi và dân ngươi đã đem lên khỏi xứ Ai-cập. Hãy đi đến xứ Ta đã thề với Áp-ra-ham, I-sác, và Gia-cốp rằng, ‘Ta sẽ ban cho dòng dõi ngươi đất nầy.’ Ta sẽ sai một thiên sứ đi trước ngươi. Ta sẽ đuổi dân Ca-na-an, dân A-mô-ri, dân Hít-ti, dân Pê-ri-xi, dân Hi-vi, và dân Giê-bu-si ra khỏi đó. Hãy đi lên một xứ đượm sữa và mật, nhưng Ta sẽ không đi với các ngươi, kẻo Ta sẽ tiêu diệt các ngươi ở dọc đường chăng, vì các ngươi là một dân cứng cổ.”

Khi dân nghe tin chẳng lành đó, họ than khóc, và không ai đeo đồ trang sức có hình tượng nữa, bởi vì Chúa đã phán với Môi-se, “Hãy nói với dân I-sơ-ra-ên, ‘Các ngươi là một dân cứng cổ. Nếu Ta đi lên với các ngươi thì chỉ một thời gian ngắn, Ta sẽ tiêu diệt các ngươi.’ Vậy bây giờ hãy gỡ bỏ những đồ trang sức có hình tượng của các ngươi đi, may đâu Ta sẽ xét lại và sẽ quyết định phải làm gì với các ngươi.” Vì vậy dân I-sơ-ra-ên gỡ bỏ những đồ trang sức có hình tượng của họ tại Núi Hô-rếp.

Lều Hội Kiến

Môi-se lấy một cái lều đem dựng bên ngoài doanh trại, cách doanh trại một khoảng xa xa, và gọi đó là Lều Hội Kiến. Nếu ai muốn thỉnh ý Chúa, người ấy phải ra ngoài doanh trại và đến Lều Hội Kiến được dựng bên ngoài doanh trại ấy. Mỗi khi Môi-se đi ra để đến Lều ấy, toàn dân đứng dậy. Ai nấy đứng nơi cửa lều mình và nhìn theo Môi-se cho đến khi ông vào trong Lều thánh. Khi Môi-se đã vào trong Lều, trụ mây hạ xuống, đứng ở cửa Lều, và Chúa nói chuyện với Môi-se. 10 Khi dân thấy trụ mây đứng ở cửa Lều, mọi người đứng dậy, rồi sấp mình xuống thờ lạy nơi cửa lều mình. 11 Ðó là cách Chúa nói chuyện với Môi-se, mặt đối mặt, như hai người bạn nói chuyện với nhau. Sau đó ông trở về doanh trại, nhưng người phụ tá trẻ tuổi của ông, Giô-suê con của Nun, thì không rời Lều ấy.

Môi-se Cầu Xin CHÚA

12 Môi-se thưa với Chúa, “Lạy Chúa, Ngài đã phán với con, ‘Hãy đem dân nầy đi,’ nhưng Ngài không cho con biết Ngài sẽ sai ai đi với con. Hơn nữa Ngài đã phán, ‘Ta biết đích danh ngươi và ngươi được ơn trước mặt Ta.’ 13 Bây giờ nếu con được ơn trước mặt Ngài, xin dạy con các đường lối Ngài, để con được biết Ngài hơn và được ơn trước mặt Ngài hơn. Ngoài ra con xin Ngài luôn xem dân nầy là dân Ngài.”

14 Ngài phán, “Chính Ta sẽ đi với ngươi, và Ta sẽ cho ngươi được nghỉ ngơi.”

15 Ông thưa với Ngài, “Nếu chính Ngài không đi với chúng con, xin đừng đem chúng con lên khỏi nơi đây. 16 Vì làm sao người ta biết được con và dân Ngài được ơn trước mặt Ngài? Há chẳng phải Ngài đi với chúng con sao? Chỉ như thế, chúng con, tức con và dân Ngài, mới khác biệt với mọi dân khác trên mặt đất.”

17 Chúa phán với Môi-se, “Ta sẽ làm mọi điều ngươi cầu xin, vì ngươi đã được ơn trước mặt Ta, và Ta biết đích danh ngươi.”

18 Môi-se thưa, “Con cầu xin Ngài cho con được chiêm ngưỡng vinh quang Ngài.”

19 Ngài đáp, “Ta sẽ thể hiện hoàn toàn vẻ thiện mỹ của Ta ngang qua trước mặt ngươi, và hô danh ‘Chúa’ trước mặt ngươi. Ta sẽ làm ơn cho ai Ta muốn làm ơn. Ta sẽ thương xót ai Ta muốn thương xót. 20 Nhưng,” Ngài phán, “ngươi không thể thấy mặt Ta, vì không ai thấy mặt Ta mà còn sống.” 21 Chúa lại phán tiếp, “Nầy, có một chỗ gần Ta, và ngươi sẽ đứng trên vầng đá. 22 Khi vinh quang Ta đi ngang qua, Ta sẽ đặt ngươi vào trong hốc đá, Ta sẽ lấy tay Ta che ngươi lại, cho đến khi Ta qua khỏi. 23 Sau đó Ta sẽ rút tay Ta, bấy giờ ngươi sẽ thấy sau lưng Ta, nhưng mặt Ta thì ngươi không thể thấy.”

Hai Bảng Giao Ước Mới

(Phục 10:1-5)

34 Chúa phán với Môi-se, “Ngươi hãy làm hai bảng đá giống như hai bảng trước, để Ta sẽ viết trên đó những lời giống như hai bảng đá mà ngươi đã đập vỡ. Ðến sáng mai ngươi phải có sẵn. Sáng mai ngươi hãy lên Núi Si-nai, lên tận đỉnh núi, rồi trình diện Ta tại đó. Không ai được lên núi với ngươi, cũng không ai lảng vảng bất cứ nơi nào trên núi; ngay cả chiên, dê, bò, lừa đều không được gặm cỏ gần núi.” Vậy Môi-se đục hai bảng đá giống như hai bảng trước. Sáng hôm sau ông dậy sớm và lên Núi Si-nai như Chúa đã truyền cho ông; hai tay ông mang hai bảng đá. Chúa ngự xuống trong trụ mây, đứng với ông tại đó, và hô danh “Chúa.” Chúa đi qua trước mặt ông và hô:

Chúa! Chúa! Ðức Chúa Trời thương xót và đầy ơn,
Chậm giận, chan chứa tình thương, và chân thật,[a]
Thương ai thương đến ngàn đời,
Tha thứ tội ác, vi phạm, và tội lỗi,
Nhưng không kể kẻ có tội là vô tội;
Do tội của ông bà cha mẹ mà con cháu bị vạ lây đến ba bốn đời.”

Môi-se vội vàng cúi đầu và sấp mình xuống đất thờ lạy Ngài. Ông nói, “Lạy Chúa, nếu bây giờ con được ơn trước mặt Ngài, cầu xin Chúa đi với chúng con. Dù dân nầy là một dân cứng cổ, con cầu xin Ngài tha thứ tội ác và tội lỗi của chúng con, và xin nhận chúng con làm cơ nghiệp của Ngài.”

Tái Lập Giao Ước

(Xuất 23:14-19; Phục 7:1-5; 16:1-17)

10 Ngài phán, “Nầy, Ta lập một giao ước. Trước mặt toàn dân ngươi Ta sẽ làm những việc lạ lùng chưa hề thực hiện cho một dân nào trên khắp mặt đất. Tất cả các dân chung quanh ngươi sẽ thấy công việc của Chúa, vì đó là một việc kinh khủng Ta sẽ làm cho ngươi. 11 Hãy cẩn thận làm theo mọi điều Ta truyền cho ngươi ngày nay. Nầy, Ta sẽ đuổi đi trước mặt ngươi dân A-mô-ri, dân Ca-na-an, dân Hít-ti, dân Pê-ri-xi, dân Hi-vi, và dân Giê-bu-si. 12 Khá cẩn thận, đừng lập giao ước gì với các dân trong xứ mà ngươi sẽ đến sống, bằng không nó sẽ thành cái bẫy ở giữa ngươi. 13 Nhưng ngươi hãy phá đổ các bàn thờ của chúng, đập nát các trụ thờ bằng đá của chúng, và đốn hạ các cột thờ nữ thần của chúng, 14 vì ngươi sẽ không thờ một thần nào khác, bởi vì Chúa, danh Ngài là Ðấng Ghen Tương, là một Thần[b] ghen tương. 15 Ngươi sẽ không lập giao ước với các dân trong xứ, kẻo khi chúng làm điếm với các thần của chúng và dâng của tế lễ cho các thần của chúng, chúng sẽ mời ngươi, rồi ngươi sẽ ăn của cúng ấy. 16 Hoặc ngươi sẽ cưới các con gái chúng làm vợ cho các con trai ngươi, rồi khi các con gái chúng làm điếm với các thần của chúng, chúng sẽ lôi cuốn các con trai ngươi cùng làm điếm với các thần của chúng.

17 Ngươi chớ đúc các tượng thần để thờ.

18 Ngươi sẽ giữ Lễ Bánh Không Men. Ngươi sẽ ăn bánh không men bảy ngày, như Ta đã truyền cho ngươi, theo thời điểm đã ấn định trong tháng giêng;[c] vì trong tháng giêng ngươi đã ra khỏi Ai-cập.

19 Tất cả con đầu lòng sẽ thuộc về Ta. Mọi con đực trong bầy súc vật ngươi, tức mọi con đực đầu lòng của bò hay chiên cũng vậy. 20 Mỗi con đầu lòng của lừa, ngươi sẽ được chuộc lại bằng một con chiên; còn nếu ngươi không chuộc nó lại, ngươi phải bẻ gãy cổ nó đi. Tất cả các ngươi sẽ chuộc lại con đầu lòng của mình.

Không ai đi tay không đến ra mắt Ta.

21 Ngươi sẽ làm việc sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy ngươi sẽ nghỉ; dù ngay cả mùa cày cấy hay mùa gặt hái ngươi cũng phải nghỉ.

22 Ngươi phải giữ Lễ Các Tuần và dâng hoa lợi đầu mùa gặt lúa mì. Ngươi phải giữ Lễ Thu Hoạch vào cuối năm.[d]

23 Mỗi năm ba lần tất cả người nam của ngươi phải ra mắt Chúa Ðức Chúa Trời,[e] Thần[f] của I-sơ-ra-ên. 24 Vì Ta sẽ đuổi các dân đi trước mặt ngươi và mở rộng bờ cõi ngươi. Không ai sẽ muốn lấy đất của ngươi khi ngươi đi lên ra mắt Chúa, Ðức Chúa Trời ngươi, mỗi năm ba lần.

25 Ngươi sẽ không được dâng máu chung với men. Những của lễ dâng trong Lễ Vượt Qua sẽ không được để lại đến sáng hôm sau.

26 Ngươi hãy mang những hoa quả đầu mùa tốt nhất của ruộng vườn ngươi đến nhà Chúa, Ðức Chúa Trời của ngươi.

Ngươi không được nấu thịt dê con trong sữa của mẹ nó.”

27 Chúa phán với Môi-se, “Hãy ghi lại những lời nầy, vì căn cứ theo những lời nầy Ta đã lập một giao ước với ngươi và với I-sơ-ra-ên.”

28 Ông ở đó với Chúa bốn mươi ngày và bốn mươi đêm. Ông không ăn bánh hay uống nước. Ngài[g] viết trên hai bảng đá những lời của giao ước, tức Mười Ðiều Răn.

Môi-se Xuống Núi

29 Môi-se từ Núi Si-nai đi xuống. Ông đi xuống núi; hai tay ôm hai bảng giao ước. Môi-se không biết rằng vì đã hầu chuyện với Ðức Chúa Trời mà da mặt ông đã trở nên sáng rực. 30 Khi A-rôn và toàn dân I-sơ-ra-ên trông thấy Môi-se, và nầy, da mặt ông sáng rực, họ sợ và không dám lại gần ông. 31 Nhưng Môi-se gọi họ, nên A-rôn và những người lãnh đạo của hội chúng lại gần[h] ông, rồi Môi-se nói chuyện với họ. 32 Sau đó toàn dân I-sơ-ra-ên đến gần ông. Ông truyền cho họ mọi điều Chúa đã phán với ông trên Núi Si-nai. 33 Sau khi nói với họ, ông lấy một tấm lúp che mặt ông lại. 34 Mỗi khi Môi-se vào hầu chuyện với Chúa, ông gỡ tấm lúp che mặt ra cho đến khi ông trở ra. Khi ông trở ra, ông nói lại cho dân I-sơ-ra-ên những gì ông đã được truyền bảo. 35 Dân I-sơ-ra-ên trông thấy mặt Môi-se, và da mặt ông sáng rực, vì thế Môi-se lại phải lấy tấm lúp che mặt ông lại, cho đến khi ông vào hầu chuyện với Chúa.

Luật Ngày Sa-bát

35 Môi-se tập họp toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên lại và nói với họ, “Ðây là những điều Chúa truyền anh chị em phải làm:

Ðối với anh chị em, ai nấy sẽ làm việc trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy sẽ là một ngày thánh, một ngày Sa-bát, một ngày nghỉ hoàn toàn dành cho Chúa; hễ ai làm việc gì trong ngày ấy sẽ bị xử tử. Anh chị em không được nổi lửa tại nơi mình ở trong ngày Sa-bát.”

Kêu Gọi Xây Dựng Ðền Tạm

(Xuất 25:1-9)

Môi-se nói với cả hội chúng I-sơ-ra-ên, “Ðây là điều Chúa đã truyền: Hãy lấy những gì anh chị em có dâng lên Chúa. Ai có lòng rộng rãi, hãy mang đến dâng lên Chúa vàng, bạc, đồng, chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, vải gai mịn, lông dê, da chiên nhuộm đỏ, da thú thượng hạng,[i] gỗ si-tim, dầu thắp đèn, các hương liệu để làm dầu dùng cho phép xức dầu và để chế tạo hương thơm thánh, bạch bảo ngọc, và các thứ ngọc để gắn trên ê-phót và trên túi đeo ngực.

10 Xin tất cả những ai tài giỏi giữa anh chị em đến và làm mọi điều Chúa đã truyền, tức xây dựng Ðền Tạm, 11 gồm cái lều và các tấm bạt, các móc, các tấm ván, các thanh ngang, các trụ cột, và các đế trụ, 12 Rương Thánh và các đòn khiêng, Nắp Thi Ân, bức màn che Nơi Chí Thánh, 13 cái bàn, với các đòn khiêng, các đồ phụ tùng, Bánh Hằng Hiến, 14 thân cây đèn và các đồ phụ tùng, các đèn vàng, dầu thắp đèn, 15 bàn thờ dâng hương, các đòn khiêng, dầu dùng cho phép xức dầu, hương thơm thánh, tấm màn che cửa Ðền Tạm, 16 bàn thờ dâng của lễ thiêu với cái rá lưới đồng, các đòn khiêng và mọi đồ phụ tùng, cái đỉnh đồng và chân đỉnh, 17 các tấm màn che chung quanh sân, các cây cột và các đế cột, tấm màn che nơi cổng sân đền, 18 các cọc để căng Ðền Tạm, các cọc để dựng các màn che chung quanh sân đền, các dây thừng đi chung với các cọc ấy, 19 các bộ lễ phục may đặc biệt để hành lễ trong Nơi Thánh, tức các lễ phục cho Tư Tế A-rôn và các lễ phục cho các con trai ông để họ mặc khi thi hành chức vụ tư tế.”

Dâng Hiến Ðể Xây Dựng Ðền Tạm

(Xuất 39:32-43)

20 Bấy giờ toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên rời khỏi Môi-se và lui về. 21 Sau đó họ trở lại, những người được cảm động trong lòng, những người có nhiệt tâm, đều mang đến dâng lên Chúa những lễ vật để xây dựng Lều Hội Kiến, để làm mọi thứ liên quan đến lều ấy, và để may những bộ lễ phục thánh. 22 Vậy họ đến, nam lẫn nữ; tất cả những người có lòng nhiệt thành đều mang đến nào là trâm cài tóc, vòng đeo tai, nhẫn, kiềng, và mọi thứ khác; ai nấy đều mang đến dâng lên Chúa một của lễ bằng vàng. 23 Những ai có chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, vải gai mịn, lông dê, da chiên nhuộm đỏ, hay da thú thượng hạng đều đem đến dâng. 24 Người nào có bạc hay đồng đều đem đến dâng lên Chúa. Những ai có gỗ si-tim và nghĩ có thể dùng được việc chi cho lều thánh đều mang đến dâng. 25 Tất cả những phụ nữ khéo tay kéo chỉ dệt vải thì dâng công làm những tấm vải bằng chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải gai mịn. 26 Tất cả những phụ nữ được cảm động trong lòng đã dâng tài kéo sợi của mình để làm những sợi bằng lông dê. 27 Còn những người lãnh đạo thì mang đến bạch bảo ngọc và các thứ ngọc để gắn trên ê-phót và trên túi đeo ngực, 28 các hương liệu để làm dầu thắp đèn, dầu dùng cho phép xức dầu, và hương thơm thánh. 29 Tất cả dân I-sơ-ra-ên, bất luận nam hay nữ, hễ ai được thúc giục trong lòng muốn mang đến món gì để thực hiện công việc Chúa đã cậy Môi-se truyền phải làm, đều tự nguyện mang lễ vật đến dâng lên Chúa.

Bê-xanh-ên và Ô-hô-li-áp

(Xuất 31:1-11)

30 Bấy giờ Môi-se nói với dân I-sơ-ra-ên, “Nầy, Chúa đã gọi đích danh Bê-xanh-ên con trai U-ri, cháu Hu-rơ, trong chi tộc Giu-đa. 31 Ngài đã ban cho ông ấy đầy dẫy Thần của Ðức Chúa Trời để ông ấy thành một người khôn ngoan, thông minh, và có kiến thức trong mọi lãnh vực của ngành chế tạo, 32 hầu ông ấy phác họa những tác phẩm nghệ thuật, rồi làm những đồ vật bằng vàng, bằng bạc, và bằng đồng, 33 luôn cả việc cắt mài ngọc để khảm vào khuôn, chạm khắc gỗ, và mọi công việc đòi hỏi kỹ năng. 34 Ngài cũng đã ban cho ông ấy và Ô-hô-li-ba con trai A-hi-sa-mách trong chi tộc Ðan khả năng dạy bảo người khác. 35 Ngài đã ban cho họ tài năng để thực hiện mọi công việc của thợ chạm khắc, thợ vẽ kiểu, thợ thêu các thứ chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải gai mịn, hoặc các công việc của thợ dệt; nói chung là tất cả những công việc đòi hỏi người có đầu óc nghệ thuật suy nghĩ rồi vẽ kiểu ra làm.

Footnotes

  1. Xuất Hành 34:6 ctd: thành tín
  2. Xuất Hành 34:14 ctd: Ðức Chúa Trời
  3. Xuất Hành 34:18 nt: tháng A-bíp
  4. Xuất Hành 34:22 cuối năm nông nghiệp, vào mùa thu mỗi năm
  5. Xuất Hành 34:23 nt: Adonai Yahweh
  6. Xuất Hành 34:23 nt: Elohim
  7. Xuất Hành 34:28 ctd: Ông (chỉ về Môi-se)
  8. Xuất Hành 34:31 nt: trở lại
  9. Xuất Hành 35:7 Hebrew (MT) không rõ nghĩa; ctd: da dê hay da cá heo