Add parallel Print Page Options

Dân chúng đòi thức ăn

16 Toàn thể cộng đồng Ít-ra-en rời Ê-lim đi đến sa mạc Xin, nằm giữa Ê-lim và Si-nai, vào ngày mười lăm tháng thứ nhì sau khi ra khỏi Ai-cập. Lúc đó toàn dân Ít-ra-en oán trách Mô-se và A-rôn trong sa mạc. Họ bảo hai người, “Chẳng thà CHÚA giết chúng tôi trong xứ Ai-cập còn hơn. Ít ra ở đó chúng tôi có thịt và thức ăn tha hồ. Nhưng hai ông mang chúng tôi vào sa mạc nầy để chết đói.”

CHÚA liền bảo Mô-se, “Ta sẽ khiến thức ăn từ trời rơi xuống trên các ngươi. Mỗi ngày mọi người phải đi ra lượm thức ăn đủ cho ngày đó. Ta muốn xem dân chúng có vâng theo lời ta dạy hay không. Tuy nhiên ngày thứ sáu mỗi tuần, họ có thể lượm gấp đôi số lượng mỗi ngày. Rồi họ lấy đó mà chuẩn bị thức ăn.”

Vậy Mô-se và A-rôn bảo lại với dân chúng: “Chiều nay các ngươi sẽ biết rằng CHÚA là Đấng mang các ngươi ra khỏi Ai-cập. Sáng mai các ngươi sẽ thấy sự vinh hiển của CHÚA, vì Ngài đã nghe lời các ngươi oán trách Ngài. Chúng tôi chẳng là gì cả, nên không phải các ngươi oán trách chúng tôi mà là oán trách CHÚA.”

Mô-se dặn tiếp, “Mỗi chiều, CHÚA sẽ ban thịt cho các ngươi, và mỗi sáng Ngài sẽ cấp bánh cho các ngươi vô hạn định, vì Ngài đã nghe các ngươi oán trách Ngài. Không phải các ngươi oán trách chúng tôi vì chúng tôi có ra gì đâu, nhưng các ngươi oán trách CHÚA.”

Rồi Mô-se bảo A-rôn, “Anh hãy bảo toàn thể cộng đồng Ít-ra-en như sau, ‘Hãy tập họp trước mặt CHÚA vì Ngài đã nghe các ngươi oán trách.’”

10 Trong khi A-rôn đang nói chuyện với cộng đồng Ít-ra-en, họ nhìn về phía sa mạc thì thấy vinh hiển của CHÚA hiện ra trong đám mây.

11 CHÚA bảo Mô-se, 12 “Ta đã nghe lời oán trách của dân Ít-ra-en. Nên con hãy bảo họ, ‘Lúc chạng vạng các ngươi sẽ ăn thịt, mỗi sáng các ngươi tha hồ ăn bánh. Rồi các ngươi sẽ biết ta là CHÚA, Thượng Đế các ngươi.’”

13 Chiều hôm đó chim cút bay đến phủ đầy cả doanh trại, rồi buổi sáng sương mai thấm ướt quanh trại. 14 Khi lớp sương tan đi để lại những lớp mỏng giống như nước đá trên mặt đất. 15 Khi người Ít-ra-en thấy thì hỏi nhau, “Cái gì vậy?” vì họ không biết nó là cái gì. Nên Mô-se bảo họ: Đây là bánh mà CHÚA cho các ngươi ăn. 16 CHÚA đã dặn, “Mỗi người trong các ngươi hãy lượm đủ phần ăn của mình, tức khoảng hai lít cho mỗi người trong gia đình.”

17 Vậy dân Ít-ra-en làm theo như thế; người lượm nhiều, người lượm ít. 18 Rồi họ đong. Người lượm nhiều không nhận quá, còn người lượm ít cũng không thiếu hụt. Mỗi người lượm đủ lượng cần dùng cho mình.

19 Mô-se bảo họ, “Đừng giữ gì lại cho đến sáng mai.” 20 Nhưng một số người không nghe Mô-se. Họ để dành một ít đặng sáng hôm sau ăn. Món đó hóa ra dòi bọ và xông lên mùi hôi thối. Mô-se nổi giận cùng mấy người đó.

21 Mỗi sáng ai nấy lượm đủ thức ăn cho mình. Nhưng khi mặt trời mọc lên thì vật đó tan đi.

22 Đến ngày thứ sáu dân chúng lượm gấp đôi, mỗi người bốn lít. Các lãnh tụ cộng đồng đến thuật lại cho Mô-se hay,

23 ông trả lời, “Đó là điều CHÚA căn dặn vì mai là ngày Sa-bát, ngày thánh để nghỉ ngơi cho CHÚA. Hôm nay các ngươi muốn nấu nướng gì cũng được. Thức ăn còn dư thì có thể để đến sáng mai.”

24 Vì thế dân chúng để dành lại đến sáng hôm sau như Mô-se dặn. Món ăn đó không bị hôi thối hay hóa dòi.

25 Mô-se bảo dân chúng, “Hãy ăn thức ăn các ngươi lượm hôm qua. Hôm nay là ngày Sa-bát, ngày nghỉ ngơi của CHÚA; các ngươi sẽ không tìm ra món ăn đó trong đồng hôm nay đâu. 26 Các ngươi lượm thức ăn trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy là ngày Sa-bát. Trong ngày đó sẽ không có thức ăn nào trên mặt đất.”

27 Vào ngày thứ bảy có mấy người đi ra lượm thức ăn nhưng chẳng tìm được gì hết. 28 CHÚA liền bảo Mô-se, “Các ngươi sẽ bất tuân huấn lệnh ta cho đến bao giờ? 29 Nầy, CHÚA đã lập nên ngày Sa-bát để các ngươi nghỉ ngơi. Nên ngày thứ sáu CHÚA ban cho các ngươi thức ăn đủ hai ngày, nhưng đến ngày thứ bảy, các ngươi phải nghỉ. Không đi đâu cả.” 30 Vậy dân chúng nghỉ ngơi ngày thứ bảy.

31 Dân Ít-ra-en gọi thức ăn đó là ma-na. Vì nó giống như hột ngò trắng, ăn giống như bánh kẹp pha mật ong. 32 Sau đó Mô-se bảo, “CHÚA phán, ‘Hãy để dành hai lít thức ăn nầy cho con cháu chúng ta. Để chúng nó thấy thức ăn ta cho các ngươi trong sa mạc khi ta mang các ngươi ra khỏi Ai-cập.’”

33 Mô-se bảo A-rôn, “Hãy lấy một cái hũ đổ ma-na đầy vào. Đặt hũ đó trước mặt CHÚA, để dành lưu lại cho con cháu các ngươi.” 34 Vậy A-rôn làm theo điều CHÚA dặn Mô-se. Ông để hũ đựng ma-na trước Hộp Giao Ước để giữ cho an toàn. 35 Dân Ít-ra-en ăn ma-na trong 40 năm cho đến khi vào xứ họ định cư tức biên giới xứ Ca-na-an. 36 Lường họ dùng cho ma-na là hai lít, khoảng một phần mười ê-pha.

Nước phun ra từ tảng đá

17 Cả cộng đồng Ít-ra-en rời sa mạc Xin và đi từ nơi nầy đến nơi kia theo như CHÚA dặn. Họ đóng trại ở Rê-phi-đim nhưng ở đó không có nước uống. Họ liền gây sự với Mô-se, “Kiếm nước cho chúng tôi uống.”

Mô-se trả lời, “Sao các ngươi gây sự với tôi? Sao các ngươi thử CHÚA?”

Nhưng dân chúng khát nước quá nên họ oán trách Mô-se. Họ bảo, “Ông mang chúng tôi ra khỏi xứ Ai-cập làm gì? Có phải để chúng tôi, con cái và súc vật chúng tôi chết khát không?”

Nên Mô-se kêu cầu cùng CHÚA, “Con làm thế nào đối với dân nầy đây? Thiếu điều họ muốn ném đá giết con.”

CHÚA phán cùng Mô-se, “Hãy đi trước dân chúng, mang theo một số bô lão trong Ít-ra-en cùng đi. Cũng hãy mang theo cây gậy con đã dùng để đập nước sông Nin. Rồi đi. Ta sẽ đứng trước mặt con nơi một tảng đá trên núi Hô-rếp. Lấy cây gậy đập tảng đá thì nước sẽ phun ra cho dân chúng uống.”

Mô-se làm y như vậy trước sự chứng kiến của các bô lão Ít-ra-en. Ông đặt tên chỗ đó là Mát-xa [a], vì dân Ít-ra-en đã thử CHÚA khi họ hỏi, “CHÚA có ở với chúng tôi hay không?” Ông cũng gọi nơi đó là Mê-ri-ba [b] vì họ cãi nhau với Mô-se.

Dân A-ma-léc tấn công dân Ít-ra-en

Đến Rê-phi-đim, dân A-ma-léc tấn công dân Ít-ra-en. Nên Mô-se bảo Giô-suê, “Hãy chọn một số người đi đánh dân A-ma-léc. Ngày mai ta sẽ đứng trên đỉnh đồi, cầm cây gậy của Thượng Đế trong tay.”

10 Giô-suê làm theo lời Mô-se ra đánh dân A-ma-léc trong khi Mô-se, A-rôn và Hu-rơ lên đỉnh đồi. 11 Hễ Mô-se giơ tay bao lâu lên thì dân Ít-ra-en thắng thế, nhưng khi Mô-se bỏ tay xuống thì dân A-ma-léc thắng thế.

12 Lâu dần, khi Mô-se mỏi tay thì mấy người kia lấy một tảng đá lớn để Mô-se ngồi lên. Rồi A-rôn và Hu-rơ đỡ cánh tay Mô-se lên A-rôn đỡ tay bên nầy còn Hu-rơ đỡ tay bên kia. Hai người giữ tay Mô-se như thế cho đến khi mặt trời lặn. 13 Vì thế trong trận ấy Giô-suê đánh bại dân A-ma-léc.

14 Rồi CHÚA bảo Mô-se, “Hãy ghi lại trận đánh nầy vào sách để dân chúng nhớ. Đồng thời đừng quên cho Giô-suê biết rằng ta sẽ tận diệt dân A-ma-léc khỏi mặt đất.”

15 Rồi Mô-se dựng một bàn thờ, đặt tên “CHÚA là Ngọn Cờ của tôi.” 16 Mô-se bảo, “Tôi giương cao ngọn cờ của CHÚA [c]. Ngài sẽ chiến đấu chống lại dân A-ma-léc cho đến đời đời.”

Giê-trô ghé thăm Mô-se

18 Giê-trô, cha vợ của Mô-se, là thầy tế lễ xứ Mi-đi-an. Ông nghe hết những điều Thượng Đế làm cho Mô-se và Ít-ra-en, dân của Ngài, và CHÚA đã dẫn dân Ít-ra-en ra khỏi xứ Ai-cập ra sao. Lúc đó Mô-se đã cho Xíp-bô-ra, vợ mình về ở với Giê-trô, cha vợ mình, cùng với hai con trai. Con trai đầu tên Ghẹt-sôn vì khi sinh nó ra Mô-se bảo, “Tôi là một lữ khách tạm cư ở một nước ngoài.” Con trai thứ nhì tên Ê-li-ê-xe, vì khi nó sinh ra, Mô-se bảo, “Thượng Đế của cha tôi là Đấng trợ giúp tôi. Ngài cứu tôi khỏi tay vua Ai-cập.” Nên Giê-trô, cha vợ của Mô-se mang vợ và hai con trai Mô-se đi gặp ông. Giê-trô đóng trại trong sa mạc gần núi của Thượng Đế.

Giê-trô cho người nhắn trước với Mô-se rằng, “Ta, Giê-trô, cha vợ của con, đang đi đến thăm con cùng với vợ và hai con trai con.”

Mô-se đi ra đón cha vợ, cúi mọp xuống và hôn cha vợ. Sau khi hai người thăm hỏi sức khoẻ của nhau thì họ đi vào lều của Mô-se. Mô-se thuật lại cho cha vợ mình những gì CHÚA làm cho vua Ai-cập và người Ai-cập để giải cứu dân Ít-ra-en. Ông cũng kể lại những khó khăn dọc đường và CHÚA giải cứu họ ra sao.

Giê-trô rất vui nghe biết những điều tốt CHÚA làm cho Ít-ra-en khi Ngài giải cứu họ khỏi tay người Ai-cập. 10 Ông bảo,

“Đáng chúc tụng CHÚA.
    Ngài đã cứu con khỏi tay vua cùng người Ai-cập,
    Ngài cũng đã cứu dân chúng khỏi quyền lực của người Ai-cập.
11 Bây giờ ta biết CHÚA lớn hơn các thần,
    vì Ngài làm những điều đó cho những ai khinh thường dân Ít-ra-en.”

12 Rồi Giê-trô, cha vợ Mô-se dâng một của lễ toàn thiêu và các của lễ khác cho Thượng Đế. A-rôn và các bô lão của Ít-ra-en đến thăm cha vợ Mô-se và dùng bữa ăn thánh chung trước mặt Thượng Đế.

13 Hôm sau Mô-se giải quyết những vụ tranh chấp giữa dân chúng. Dân chúng đứng chầu chực quanh ông từ sáng cho đến tối.

14 Khi cha vợ Mô-se thấy việc ông làm cho dân chúng, mới hỏi, “Con làm gì cho dân chúng vậy? Tại sao chỉ có một mình con giải quyết những vụ tranh chấp, còn tất cả dân chúng thì chỉ đứng chầu chực quanh con từ sáng đến tối?”

15 Mô-se giải thích cho cha vợ mình rằng, “Sở dĩ dân chúng đến với con là nhờ Thượng Đế giúp giải quyết những tranh chấp của họ. 16 Khi họ gặp bất hoà thì đến với con. Con sẽ phân xử ai phải ai quấy. Con cho họ biết luật lệ và lời dạy bảo của Thượng Đế.”

17 Cha vợ Mô-se bảo ông, “Con làm thế nầy không đúng. 18 Con và những người tới gặp con sẽ mệt đuối. Việc nầy quá sức con. Con cáng đáng một mình không nổi đâu. 19 Bây giờ hãy nghe cha, để cha cho con vài ý kiến. Cha muốn Thượng Đế phù hộ con. Con phải thay mặt dân chúng thưa với Thượng Đế về những bất hoà của họ. 20 Khuyên răn họ về luật lệ và những điều giáo huấn, đồng thời dạy họ cách sống và hành động cho phải lẽ. 21 Nhưng con nên chọn một số người có khả năng trong dân chúng tức những người kính sợ Thượng Đế, đáng tin, không tham của hối lộ, làm lệch lạc phán quyết của mình.

Cắt cử họ chỉ huy dân chúng, để họ coi sóc từng ngàn, từng trăm, từng năm chục và từng mười người một. 22 Những người chỉ huy nầy sẽ thường xuyên giải quyết những tranh chấp của dân chúng. Họ sẽ mang những trường hợp khó xử đến con giải quyết, còn họ sẽ giải quyết những trường hợp đơn giản. Do đó sẽ bớt gánh nặng cho con, vì họ san sẻ công tác với con. 23 Nếu con làm như thế, theo như Thượng Đế đã truyền dặn con, thì con có thể làm tròn phận sự, còn dân chúng ra về thảnh thơi vì những mối bất hòa của họ được giải quyết.”

24 Mô-se nghe theo ý kiến của cha vợ mình và làm theo như Giê-trô khuyên. 25 Ông chọn những người có khả năng trong vòng dân Ít-ra-en và đề cử họ chỉ huy dân chúng; họ coi sóc hàng ngàn, hàng trăm, hàng năm chục, và hàng mười người. 26 Các người chỉ huy ấy có mặt để giải quyết những tranh chấp giữa vòng dân chúng. Họ trình những trường hợp khó khăn lên cho Mô-se, còn tự họ giải quyết những trường hợp đơn giản.

27 Mô-se tiễn cha vợ mình lên đường, rồi Giê-trô lên đường trở về nhà.

Footnotes

  1. Xuất Hành 17:7 Mát-xa Nghĩa là “thách thức” hay “thử nghiệm.”
  2. Xuất Hành 17:7 Mê-ri-ba Nghĩa là “cãi nhau” hay “phản loạn.”
  3. Xuất Hành 17:16 Tôi giương … CHÚA Hay “Tôi giơ tay lên hướng về ngôi của Chúa.”

Lương Thực Từ Trời

16 Toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên nhổ trại rời khỏi Ê-lim đi vào Ðồng Hoang Sin, vùng đất nằm giữa Ê-lim và Si-nai; đó là ngày mười lăm, tháng thứ hai, sau khi họ rời khỏi xứ Ai-cập. Cả hội chúng I-sơ-ra-ên oán trách Môi-se và A-rôn trong đồng hoang. Dân I-sơ-ra-ên nói với họ, “Ước gì chúng tôi bị chết bởi tay Chúa trong xứ Ai-cập khi được ngồi bên nồi thịt và ăn bánh no nê còn hơn là để hai ông đem chúng tôi vào đồng hoang nầy để cả hội chúng phải chết đói.”

Chúa phán với Môi-se, “Nầy, Ta sẽ ban mưa bánh từ trời xuống cho các ngươi; mỗi ngày dân chúng sẽ đi ra và lấy đủ bánh cho ngày ấy. Ta sẽ dùng cách đó để thử chúng, xem chúng có vâng lời Ta chăng. Ngày thứ sáu, chúng sẽ lấy về gấp đôi số lượng chúng lấy trong những ngày khác.”

Vậy Môi-se và A-rôn nói với toàn dân I-sơ-ra-ên, “Ðến chiều tối anh chị em sẽ biết rằng chính Chúa đã đem anh chị em ra khỏi xứ Ai-cập. Rồi đến sáng mai, anh chị em sẽ thấy vinh hiển của Chúa, bởi Ngài đã nghe tiếng anh chị em oán trách Chúa. Vì chúng tôi đâu là gì mà anh chị em oán trách chúng tôi?”

Môi-se lại nói, “Chiều nay Chúa sẽ ban cho anh chị em thịt để ăn, rồi sáng mai anh chị em sẽ được no nê vì ăn bánh, bởi Chúa đã nghe tiếng oán trách mà anh chị em đã oán trách Ngài; chứ chúng tôi là ai? Những lời anh chị em oán trách không phải là oán trách chúng tôi, nhưng là oán trách Chúa.”

Ðoạn Môi-se nói với A-rôn, “Xin anh nói với toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên, ‘Hãy lại gần Chúa, vì Ngài đã nghe tiếng oán trách của anh chị em.’”

10 Khi A-rôn nói với cả hội chúng I-sơ-ra-ên, họ hướng mắt nhìn về đồng hoang, và nầy, vinh quang Chúa hiện ra trên mây. 11 Chúa phán với Môi-se, 12 “Ta đã nghe tiếng oán trách của dân I-sơ-ra-ên. Hãy nói với chúng, ‘Vào chạng vạng tối nay các ngươi sẽ được ăn thịt; đến sáng mai các ngươi sẽ có bánh ăn no nê; bấy giờ các ngươi sẽ biết rằng Ta là Chúa, Ðức Chúa Trời của các ngươi.’”

13 Khi trời sắp tối các chim cút bay đến phủ khắp doanh trại; sáng hôm sau, lại có một lớp sương phủ xung quanh doanh trại. 14 Khi lớp sương đó tan đi, kìa, trên mặt đồng hoang có một chất gì như một lớp mỏng mịn màng, mịn như bột phủ trên mặt đất. 15 Khi dân I-sơ-ra-ên thấy vậy, họ hỏi nhau, “Thứ gì vậy?”[a] Vì họ không biết đó là thứ gì.

Môi-se nói với họ, “Ðây là bánh Chúa ban cho anh chị em để ăn. 16 Ðây là điều Chúa đã truyền, ‘Mỗi người cần bao nhiêu, cứ lấy đủ dùng cho mình, khoảng hai lít[b] cho mỗi người, cứ theo số người ở trong lều mà lấy đủ dùng cho mọi người.’”

17 Dân I-sơ-ra-ên làm như vậy. Một số lấy nhiều, một số lấy ít. 18 Rồi họ lấy ô-me[c] ra đong, ai lấy nhiều cũng không dư, ai lấy ít cũng không thiếu; cứ tùy sức mỗi người ăn được bao nhiêu thì lấy bấy nhiêu. 19 Môi-se nói với họ, “Ðừng ai để vật ấy còn thừa lại đến ngày mai.” 20 Tuy nhiên vẫn có một số người không nghe lời Môi-se; họ để dành một phần đến sáng hôm sau; vật ấy bèn sinh giòi và bốc mùi hôi thối; do đó Môi-se giận họ. 21 Vậy sáng nào cũng thế, họ đi ra hốt lớp bột ấy làm lương thực cho mình, ai cần bao nhiêu thì hốt bấy nhiêu; nhưng khi ánh nắng mặt trời bắt đầu nóng, lớp bột ấy liền tan chảy.

22 Ðến ngày thứ sáu họ lấy số lượng gấp đôi, mỗi người bốn lít.[d] Khi những người lãnh đạo hội chúng đến hỏi Môi-se, 23 ông trả lời họ, “Ðây là điều Chúa đã truyền: ‘Ngày mai là ngày yên nghỉ, ngày Sa-bát thánh để tôn kính Chúa, hãy nướng món gì anh chị em muốn nướng, nấu món gì anh chị em muốn nấu, những gì còn dư hãy để dành cho sáng mai.’” 24 Vậy họ để dành bột ấy đến sáng mai, y như Môi-se đã truyền cho họ, và bột ấy không bị hôi thối hay bị sinh giòi.

25 Môi-se nói, “Hãy lấy bột ấy mà ăn hôm nay, vì hôm nay là ngày Sa-bát để tôn kính Chúa. Hôm nay anh chị em sẽ không thấy bột ấy ngoài đồng. 26 Trong sáu ngày anh chị em sẽ ra lấy về dùng, nhưng đến ngày thứ bảy, là ngày Sa-bát, sẽ không có bột ấy.”

27 Nhưng trong ngày thứ bảy vẫn có một số người đi ra lấy, và họ chẳng tìm được gì. 28 Chúa phán với Môi-se, “Các ngươi cứ từ chối, không vâng theo điều răn và mệnh lệnh Ta cho đến bao giờ? 29 Kìa, Chúa đã ban cho các ngươi ngày Sa-bát, vì thế ngày thứ sáu Ngài đã ban cho các ngươi lương thực đủ ăn cho hai ngày. Ai nấy trong các ngươi hãy ở tại chỗ mình; đừng rời khỏi nơi mình trong ngày thứ bảy.” 30 Vậy dân chúng nghỉ ngơi trong ngày thứ bảy.

31 Nhà I-sơ-ra-ên gọi vật ấy là ma-na. Nó giống như hột ngò, màu trắng, có mùi vị tựa bánh tráng tẩm mật ong. 32 Môi-se nói, “Ðây là mệnh lệnh Chúa đã truyền, ‘Hãy lấy hai lít[e] ma-na giữ lại cho những thế hệ về sau, để chúng thấy thứ lương thực Ta đã nuôi các ngươi trong đồng hoang, khi Ta đem các ngươi ra khỏi xứ Ai-cập.’”

33 Vậy Môi-se nói với A-rôn, “Xin anh lấy một cái bình, đổ hai lít[f] ma-na vào trong đó, rồi đặt bình ấy trước mặt Chúa, và giữ như vậy từ thế hệ nầy qua thế hệ khác.” 34 Theo như lệnh Chúa đã truyền cho Môi-se, A-rôn đặt bình ấy trước Chứng Cớ,[g] để lưu giữ.

35 Dân I-sơ-ra-ên ăn ma-na bốn mươi năm, cho đến khi họ vào trong xứ có thể canh tác được. Họ cứ ăn ma-na cho đến khi họ tiến vào bờ cõi xứ Ca-na-an. 36 Một ô-me là một phần mười của một ê-pha.[h]

Nước Từ Vầng Ðá Tuôn Ra

(Dân 20:1-13)

17 Từ Ðồng Hoang Sin, toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên nhổ trại ra đi từng chặng, như Chúa đã truyền cho họ. Họ hạ trại ở Rê-phi-đim, nhưng nơi đó chẳng có nước cho dân uống. Dân gây sự với Môi-se và nói, “Hãy cho chúng tôi nước uống.”

Môi-se nói với họ, “Tại sao anh chị em gây sự với tôi? Tại sao anh chị em muốn thử Chúa?”

Tuy nhiên tại đó dân chúng quá khát nước, nên họ oán trách Môi-se và nói, “Tại sao ông đem chúng tôi ra khỏi Ai-cập, để chúng tôi, các con nhỏ chúng tôi, và các đàn súc vật của chúng tôi chết khát?”

Môi-se kêu cầu với Chúa, “Con phải làm gì với dân nầy bây giờ? Thiếu điều họ muốn ném đá con.”

Chúa phán với Môi-se, “Hãy đi trước dân I-sơ-ra-ên và đem một vài trưởng lão I-sơ-ra-ên đi với ngươi. Hãy cầm theo cây gậy ngươi đã dùng để đập vào nước Sông Nin và hãy đi. Nầy, Ta sẽ đứng tại đó, trước mặt ngươi, trên vầng đá ở Hô-rếp. Hãy đập vào vầng đá ấy, nước từ vầng đá ấy sẽ phun ra, để dân có nước uống.”

Môi-se làm y như vậy, trước mặt các trưởng lão của I-sơ-ra-ên. Ông đặt tên nơi đó là Ma-sa[i] và Mê-ri-ba,[j] vì dân I-sơ-ra-ên đã gây sự và thử Chúa rằng, “Không biết Chúa có thật sự ở giữa chúng ta chăng?”

Dân A-ma-léc Tấn Công Dân I-sơ-ra-ên và Bị Bại

Lúc ấy quân A-ma-léc đến và tấn công I-sơ-ra-ên ở Rê-phi-đim. Môi-se nói với Giô-suê, “Hãy chọn một số người trong chúng ta để ra đối phó với quân A-ma-léc. Ngày mai ta sẽ đứng trên đỉnh đồi với cây gậy của Ðức Chúa Trời trong tay.”

10 Vậy Giô-suê làm như lời Môi-se đã bảo ông. Ông xuống đánh quân A-ma-léc trong khi Môi-se, A-rôn, và Hu-rơ đi lên đỉnh đồi. 11 Hễ khi Môi-se đưa tay lên thì quân I-sơ-ra-ên thắng hơn, nhưng khi ông hạ tay xuống thì quân A-ma-léc thắng hơn. 12 Hai tay Môi-se mỏi, nên người ta dựng một hòn đá lên cho ông ngồi, rồi A-rôn và Hu-rơ đỡ hai tay ông lên, một người bên nầy, và một người bên kia. Vậy hai tay của ông cứ được đưa lên cho đến khi mặt trời lặn. 13 Giô-suê dùng gươm đánh bại A-ma-léc với dân ông ấy.

14 Bấy giờ Chúa phán với Môi-se, “Hãy chép điều nầy vào một cuốn sách để ghi nhớ, và đọc cho Giô-suê nghe rõ rằng: Ta sẽ xóa sạch kỷ niệm về A-ma-léc dưới trời.” 15 Môi-se cho xây một bàn thờ và đặt tên, “Chúa Là Biểu Kỳ của Tôi.”[k] 16 Ông nói, “Vì tay của A-ma-léc đã đưa lên chống lại ngai của Chúa, cho nên giữa Chúa và A-ma-léc sẽ có chiến tranh từ đời nầy sang đời khác.”[l]

Giê-trô Ðến Thăm Môi-se

18 Giê-trô, tư tế của người Mi-đi-an, nhạc phụ của Môi-se, đã nghe tất cả những gì Ðức Chúa Trời làm cho Môi-se và cho I-sơ-ra-ên dân Ngài, thể nào Chúa đã đem dân I-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập. Số là trước đó Môi-se đã gởi vợ ông là Xíp-pô-ra về cho nhạc phụ ông. Ông cụ đã nhận bà lại với hai con trai của bà. Tên của một cậu là Ghẹt-sôm, (vì ông nói, “Tôi là một kiều dân nơi đất khách quê người”), còn tên của cậu kia là Ê-li-ê-xe[m] (vì ông nói, “Ðức Chúa Trời của tổ tiên tôi là Ðấng giúp đỡ tôi và đã giải cứu tôi thoát khỏi gươm của Pha-ra-ôn”). Giê-trô nhạc phụ của Môi-se đến trong đồng hoang, nơi Môi-se đang hạ trại trên núi của Ðức Chúa Trời, dẫn theo hai con trai và vợ Môi-se đến cho ông. Cụ cho người nhắn tin với Môi-se, “Cha là Giê-trô nhạc phụ của con đang trên đường đến thăm con; có vợ và hai con trai con đi với cha.”

Môi-se đi ra đón nhạc phụ ông. Ông sấp mình xuống trước mặt cụ và ôm hôn cụ. Hai người hỏi thăm nhau, rồi họ vào trong lều. Môi-se thuật lại cho nhạc phụ ông nghe mọi điều Chúa đã làm cho Pha-ra-ôn và cho dân Ai-cập vì cớ dân I-sơ-ra-ên. Ông cũng kể cho cụ nghe những khó khăn họ gặp phải dọc đường, và thể nào Chúa đã giải cứu họ. Giê-trô vui mừng về các ơn lành Chúa đã làm cho dân I-sơ-ra-ên trong việc giải thoát họ ra khỏi tay dân Ai-cập.

10 Giê-trô nói, “Chúc tụng Chúa, Ðấng đã giải thoát quý vị khỏi tay dân Ai-cập và khỏi tay Pha-ra-ôn. 11 Bây giờ tôi biết rằng Chúa là Ðấng vĩ đại hơn tất cả các thần, vì Ngài đã giải thoát dân I-sơ-ra-ên ra khỏi tay người Ai-cập, những kẻ đã đối xử với họ cách kiêu căng.”[n] 12 Sau đó Giê-trô nhạc phụ của Môi-se dâng một của lễ thiêu và các con vật hiến tế lên Ðức Chúa Trời. A-rôn và tất cả các trưởng lão của I-sơ-ra-ên đến dùng bữa với nhạc phụ của Môi-se trước thánh nhan Ðức Chúa Trời.

Lời Khuyên của Giê-trô

(Phục 1:9-18)

13 Hôm sau Môi-se ngồi xét xử dân, trong khi đoàn dân đứng đợi quanh Môi-se từ sáng sớm đến chiều tối. 14 Khi nhạc phụ của Môi-se trông thấy mọi điều ông làm cho dân, cụ nói, “Con làm gì cho dân vậy? Tại sao con ngồi xét xử một mình trong khi mọi người phải đứng đợi quanh con từ sáng sớm đến chiều tối như thế?”

15 Môi-se trả lời nhạc phụ ông, “Bởi vì dân muốn đến gặp con để thỉnh ý Ðức Chúa Trời. 16 Khi có chuyện tranh tụng, họ đến với con, và con phân xử đôi bên. Con cũng cho họ biết luật lệ và mệnh lệnh của Ðức Chúa Trời.”

17 Nhạc phụ của Môi-se nói với ông, “Những gì con đang làm đó không tốt. 18 Con sẽ làm cho mình sớm kiệt lực, không những con mà luôn cả những người dân đang chờ con, vì công việc nầy quá nặng nề cho con; con không thể giải quyết hết một mình được. 19 Bây giờ con hãy nghe cha nói. Cha muốn khuyên con mấy lời, và cầu xin Ðức Chúa Trời ở với con: Con là người đại diện cho dân trước mặt Ðức Chúa Trời, để con có thể trình dâng những nan đề của họ lên Ðức Chúa Trời. 20 Con nên dạy họ các luật lệ và mệnh lệnh của Ngài, để họ biết phải đi theo đường nào và phải làm gì. 21 Ngoài ra con cũng phải tìm trong dân những người có khả năng, những người kính sợ Ðức Chúa Trời, đáng tin cậy, ghét lợi lộc bất chính, rồi lập những người ấy lên làm những người chỉ huy trên ngàn người, trăm người, năm mươi người, và mười người. 22 Hãy để họ xét xử dân thường xuyên. Khi nào có việc quan trọng, họ sẽ đem đến con; còn những việc thường, con hãy để cho những người ấy xét xử. Như vậy công việc của con sẽ nhẹ đi, vì họ sẽ chia sẻ bớt gánh nặng cho con. 23 Nếu con làm được như thế, và Ðức Chúa Trời cũng truyền cho con như vậy, con mới có thể gánh vác nổi, và tất cả những người đến chờ để được xét xử nầy cũng sẽ sớm được về nhà họ bình an.”

24 Môi-se nghe theo lời khuyên của nhạc phụ ông và làm theo mọi điều cụ khuyên bảo. 25 Môi-se chọn những người có khả năng trong toàn dân I-sơ-ra-ên, rồi lập họ lên làm đầu trên dân, để họ chỉ huy ngàn người, trăm người, năm mươi người, và mười người. 26 Hằng ngày những người ấy xét xử dân. Những trường hợp khó xử họ đem đến Môi-se, còn những trường hợp thường, họ xét xử lấy.

27 Sau đó Môi-se tiễn nhạc phụ ông ra về, và cụ đã lên đường trở về xứ mình.

Footnotes

  1. Xuất Hành 16:15 nt: Hebrew “man hu
  2. Xuất Hành 16:16 nt: một ô-me (khoảng 2 lít)
  3. Xuất Hành 16:18 Dụng cụ đong lường thời xưa, khoảng 2 lít
  4. Xuất Hành 16:22 nt: hai ô-me
  5. Xuất Hành 16:32 nt: một ô-me
  6. Xuất Hành 16:33 nt: một ô-me
  7. Xuất Hành 16:34 nt: tức để trước Rương Giao Ước
  8. Xuất Hành 16:36 Khoảng 22 lít
  9. Xuất Hành 17:7 Ma-sa nghĩa là thử
  10. Xuất Hành 17:7 Mê-ri-ba nghĩa là gây gỗ, hay cãi cọ
  11. Xuất Hành 17:15 nt: Yahweh Nissi
  12. Xuất Hành 17:16 Câu 16 nầy trong Hebrew không rõ nghĩa
  13. Xuất Hành 18:4 Có nghĩa là Ðức Chúa Trời là Ðấng giúp đỡ tôi
  14. Xuất Hành 18:11 Phần sau của câu nầy trong Hebrew không rõ nghĩa