Añadir traducción en paralelo Imprimir Opciones de la página

Gia đình Gia-cốp gia tăng

Khi đi xuống Ai-cập, Gia-cốp mang theo các con trai, và mỗi người con mang theo gia đình mình. Sau đây là tên các con trai của Ít-ra-en: Ru-bên, Xi-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, Y-xa-ca, Sa-bu-lôn, Bên-gia-min, Đan, Nép-ta-li, Gát, và A-se. Tất cả con cháu Gia-cốp tổng cộng là 70 người. Giô-xép, con Gia-cốp đã cư ngụ tại Ai-cập.

Ít lâu sau, Giô-xép và các anh em qua đời cùng với những người đương thời. Nhưng dân Ít-ra-en có đông con nên dân số gia tăng rất nhanh. Họ trở nên rất hùng mạnh. Người Ít-ra-en lan tràn khắp xứ Ai-cập.

Dân Ít-ra-en gặp khó khăn

Rồi một vua mới lên cai trị nước Ai-cập. Vua nầy không quen biết Giô-xép. Vua bảo dân chúng, “Xem nầy! Dân Ít-ra-en đã trở nên quá đông và quá hùng mạnh, chúng ta không kham nổi! 10 Nếu chúng ta không làm gì cả thì họ sẽ còn gia tăng hơn nữa. Nay mai nếu xảy ra chiến tranh, họ rất có thể nhập với quân thù đánh chúng ta rồi trốn ra khỏi nước!”

11 Nên người Ai-cập gây khổ nhọc cho dân Ít-ra-en. Họ đặt các cai nô lệ trên người Ít-ra-en, bắt xây các thành Phi-thom và Ram-se để làm trung tâm chứa hàng cho nhà vua.

12 Nhưng người Ai-cập càng hành hạ cực nhọc bao nhiêu, dân Ít-ra-en càng sinh sản thêm bấy nhiêu, lan tràn khắp nơi. Nên người Ai-cập đâm ra sợ hãi người Ít-ra-en 13 và càng hành hạ họ thêm.

14 Họ gây khổ nhọc cho người Ít-ra-en. Họ bắt người Ít-ra-en trộn vữa để đúc gạch, cùng làm những việc đồng áng. Người Ai-cập không nương tay chút nào trong việc hành hạ người Ít-ra-en.

Các bà đỡ vâng lời Thượng Đế

15 Hai bà đỡ [a] người Do-thái [b], tên Síp-ra và Phu-a, giúp đỡ đẻ cho phụ nữ Ít-ra-en. Vua Ai-cập dặn các bà ấy như sau, 16 “Khi các chị đi đỡ đẻ cho phụ nữ Do-thái thì hãy lưu ý. Nếu là con gái thì để cho sống, còn nếu con trai thì giết đi!”

17 Nhưng các bà đỡ kính sợ Thượng Đế nên không vâng lệnh vua. Họ để cho các bé trai sống hết.

18 Vua Ai-cập liền gọi các bà đỡ lại hỏi, “Tại sao các chị làm vậy? Tại sao các chị để cho các bé trai sống?”

19 Các bà đỡ thưa, “Các phụ nữ Do-thái khoẻ hơn các phụ nữ Ai-cập. Họ sinh con trước khi chúng tôi đến.” 20 Thượng Đế tỏ lòng nhân từ với các bà đỡ. Dân Do-thái tiếp tục gia tăng nên càng ngày càng hùng mạnh. 21 Vì các bà đỡ kính sợ Thượng Đế nên Ngài ban phước cho họ có gia đình.

22 Vua ra lệnh cho toàn dân, “Hễ khi nào người Do-thái sinh con trai thì ném xuống sông Nin, nhưng con gái thì để cho sống.”

Cậu bé Mô-se

Có một người thuộc họ Lê-vi, kết hôn với một cô gái cũng thuộc họ Lê-vi. Nàng mang thai và sinh một bé trai. Thấy con mình kháu khỉnh, nên đem giấu nó suốt ba tháng. Sau ba tháng, thấy không thể giấu được nữa, nàng lấy một cái thúng trét nhựa để nó nổi trên nước. Nàng đặt đứa bé vào thúng rồi thả trong đám lau sậy dọc theo bờ sông Nin. Chị đứa bé đứng xa xa nhìn, để theo dõi mọi việc.

Lúc đó công chúa Ai-cập xuống sông tắm, còn các đầy tớ gái thì đi dọc theo bờ sông. Nàng thấy cái thúng trong đám lau sậy, liền sai các đầy tớ gái đến lấy. Khi mở thúng ra, công chúa thấy một bé trai đang khóc nên động lòng thương. Nàng nói, “Đây là một trong những con của người Do-thái [c].”

Lúc đó chị của đứa bé hỏi công chúa, “Cô có muốn cháu đi kêu một người đàn bà Do-thái để nuôi nó không?”

Công chúa đáp, “Ừ, em đi kiếm giùm tôi đi.”

Nên cô đi kêu mẹ đứa trẻ.

Công chúa bảo người đàn bà, “Chị hãy nuôi đứa bé nầy cho tôi, tôi sẽ trả công cho chị.”

Nên người đàn bà mang đứa nhỏ về nuôi. 10 Khi đứa nhỏ đã lớn, người đàn bà mang nó vào cho công chúa. Công chúa nhận nó làm con nuôi và đặt tên là Mô-se [d], vì nàng đã vớt nó ra khỏi nước.

Mô-se muốn giúp đồng bào mình

11 Mô-se lớn lên, rồi trưởng thành. Một ngày nọ ông đi thăm dân mình, thì thấy họ bị bắt buộc làm việc rất cực nhọc. Ông thấy một người Ai-cập đánh một người Do-thái là đồng bào mình. 12 Nhìn quanh quất không thấy ai, ông liền giết người Ai-cập rồi vùi xác trong cát.

13 Hôm sau Mô-se trở lại thấy hai người Do-thái đang đánh nhau. Ông bảo người có lỗi rằng, “Sao anh đánh đồng bào ruột thịt của mình?”

14 Người đó trả lời, “Ai cử anh làm quan cai trị và thẩm phán cho chúng tôi? Bộ anh muốn giết tôi như đã giết người Ai-cập hôm qua sao?”

Nghe vậy, Mô-se đâm hoảng và nghĩ thầm, “Thôi chết, mọi người biết hết chuyện tôi làm rồi!”

Mô-se cư ngụ trong xứ Mi-đi-an

15 Khi vua nghe việc Mô-se làm, thì tìm cách giết ông. Mô-se liền chạy trốn khỏi xứ Ai-cập và đến sinh sống trong xứ Mi-đi-an. Tới nơi rồi, ông ngồi cạnh một giếng nước. 16 Ở Mi-đi-an có một thầy tế lễ có bảy cô con gái. Các cô ấy đi đến giếng lấy nước để đổ vào máng cho bầy gia súc của cha mình uống. 17 Có mấy chú chăn chiên đến đuổi các cô đi, nên Mô-se ra tay bênh vực các cô và lấy nước cho bầy gia súc của cha các cô uống.

18 Khi các cô về nhà cha mình, là Rêu-ên [e], thì ông hỏi, “Sao hôm nay các con về sớm vậy?”

19 Các cô đáp, “Có một ông người Ai-cập bênh vực chúng con khỏi bọn chăn chiên. Ông ta lấy nước và cho súc vật uống giùm chúng con.”

20 Người cha hỏi, “Ông ta đâu rồi? Sao các con bỏ ông ta ngoài đó vậy? Mời ông ta vào dùng bữa với chúng ta.”

21 Mô-se bằng lòng ở lại với ông ấy. Ông gả con gái mình là Xíp-bô-ra cho Mô-se làm vợ. 22 Nàng sinh ra một con trai. Mô-se đặt tên là Ghẹt-sôn [f], vì ông đang sống ở nước ngoài.

Thượng Đế quyết định giúp đỡ người Ít-ra-en

23 Sau đó khá lâu, vua Ai-cập qua đời. Dân Ít-ra-en than van vì họ bị bắt buộc làm việc quá nhọc nhằn. Khi họ kêu xin, Thượng Đế nghe tiếng họ. 24 Ngài nghe tiếng than khóc của họ và nhớ lại giao ước Ngài lập với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. 25 Ngài thấy nỗi cực nhọc của dân Ít-ra-en và ái ngại cho họ.

Bụi cây cháy

Một ngày nọ, Mô-se đang chăn chiên cho Giê-trô. Giê-trô là thầy tế lễ của vùng Mi-đi-an và là cha vợ Mô-se. Khi dẫn bầy súc vật về phía tây sa mạc, Mô-se đến Hô-rếp [g] là núi của Thượng Đế. Một thiên sứ của CHÚA hiện ra cùng ông trong đám lửa phát ra từ một bụi cây.

Mô-se thấy bụi cây đang cháy nhưng không tàn. Nên ông bảo, “Ta phải đến gần xem chuyện lạ nầy mới được. Tại sao bụi cây nầy cháy mãi không tàn?”

Khi thấy Mô-se đến gần xem bụi cây, Thượng Đế từ trong bụi cây gọi ông, “Mô-se, Mô-se!”

Mô-se liền thưa, “Dạ, con đây.”

Thượng Đế bảo, “Chớ đến gần hơn nữa. Hãy cởi dép ra, vì con đang đứng trên đất thánh. Ta là Thượng Đế của tổ tiên con, Thượng Đế của Áp-ra-ham, Thượng Đế của Y-sác và Thượng Đế của Gia-cốp.”

Mô-se lấy tay che mặt lại, vì ông sợ nhìn thấy Thượng Đế.

CHÚA bảo, “Ta đã trông thấy nỗi khổ cực của dân ta trong xứ Ai-cập. Ta đã nghe thấy tiếng kêu than của họ, khi các cai nô lệ hành hạ họ. Ta rất lo âu về sự đau khổ của họ, nên ta ngự xuống để giải cứu họ khỏi tay người Ai-cập. Ta sẽ mang họ ra khỏi xứ đó và dẫn họ đến một xứ tốt tươi [h], và phì nhiêu, không còn gặp khốn khổ nữa [i]. Đó là đất của dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-ri-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít. Ta đã nghe tiếng kêu than của dân Ít-ra-en và đã thấy cách người Ai-cập hành hạ họ. 10 Nên ta sai con đi đến vua Ai-cập. Hãy đi, dẫn dắt dân ta, tức dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập!”

11 Nhưng Mô-se thưa cùng Thượng Đế, “Con là ai mà đến với vua và dẫn dắt dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập được?”

12 Thượng Đế bảo, “Ta sẽ ở cùng con. Đây là dấu hiệu ta sai con: Sau khi con dẫn dân chúng ra khỏi Ai-cập, các con sẽ thờ phụng ta trên hòn núi nầy.”

13 Mô-se thưa cùng Thượng Đế, “Khi con đi đến dân Ít-ra-en con sẽ bảo họ, ‘Thượng Đế của cha ông các anh em sai tôi đến cùng anh em.’ Nhưng nếu họ hỏi, ‘Tên Ngài là gì?’ thì con nói làm sao?”

14 Thượng Đế đáp, “Ta là Đấng Hằng Hữu [j]. Khi con đi đến cùng dân Ít-ra-en thì cứ bảo họ, ‘Đấng Hằng Hữu sai tôi đến cùng anh em.’”

15 Thượng Đế bảo Mô-se, “Con phải bảo dân chúng như sau: ‘CHÚA là Thượng Đế của tổ tiên anh em, tức Thượng Đế của Áp-ra-ham, Thượng Đế của Y-sác, và Thượng Đế của Gia-cốp. Ngài sai tôi đến cùng anh em.’ Đó là danh vĩnh viễn của ta, từ nay về sau dân chúng sẽ biết ta qua danh đó.”

16 “Hãy đi tập họp các bô lão và bảo họ như sau: ‘CHÚA là Thượng Đế của tổ tiên anh em, là Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, đã hiện ra cùng tôi. Ngài bảo: Ta lo lắng cho các con, ta đã thấy tình trạng của các con tại Ai-cập. 17 Ta đã hứa sẽ rút các con ra khỏi cảnh khốn khó tại Ai-cập. Ta sẽ dẫn các con đi đến xứ dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Phê-ri-sít, dân Hê-vít và dân Giê-bu-sít. Đó là một miền đất phì nhiêu.’

18 Các bô lão sẽ nghe lời con. Rồi con và các bô lão của dân Ít-ra-en sẽ đi đến vua Ai-cập và thưa rằng, ‘CHÚA là Thượng Đế của người Do-thái đã hiện ra cùng chúng tôi. Xin vua hãy cho phép chúng tôi đi vào sa mạc ba ngày đặng dâng của lễ cho Thượng Đế, CHÚA chúng tôi.’

19 Nhưng ta biết vua Ai-cập sẽ không cho các con đi đâu. Chỉ có một quyền năng lớn lao mới buộc người thả các con đi. 20 Nên ta sẽ dùng quyền năng lớn của ta để địch lại nước Ai-cập. Ta sẽ dùng các phép lạ đánh Ai-cập. Sau đó, vua sẽ để cho các con ra đi. 21 Ta sẽ làm cho người Ai-cập có thiện cảm với người Ít-ra-en. Nên khi các con ra đi họ sẽ biếu quà cho các con.

22 Mỗi người đàn bà hãy xin người láng giềng Ai-cập hoặc bất cứ người đàn bà Ai-cập nào sống chung nhà với mình những của báu: bạc, vàng, và áo quần. Các con hãy đeo những tặng phẩm đó vào con cái các con khi rời Ai-cập. Đó là cách các con sẽ lột trần người Ai-cập.”

Notas al pie

  1. Xuất Hành 1:15 bà đỡ Hay “cô mụ.”
  2. Xuất Hành 1:15 Do-thái Còn gọi là Hê-bơ-rơ hay Ít-ra-en. Đây cũng có thể có nghĩa là “dòng dõi Ê-be” (xem Sáng 10:25-31) hay “dân tộc phía bên kia sông Ơ-phơ-rát.”
  3. Xuất Hành 2:6 Do-thái Hay “Hê-bơ-rơ.” Xem thêm các câu 7, 11, 13.
  4. Xuất Hành 2:10 Mô-se Tên Mô-se trong tiếng Do-thái nghe giống như “lấy ra” hay “vớt ra.”
  5. Xuất Hành 2:18 Rêu-ên Ông ta cũng có tên là Giê-trô.
  6. Xuất Hành 2:22 Ghẹt-sôn Nghĩa là “người xa lạ tại đó.”
  7. Xuất Hành 3:1 Hô-rếp Còn gọi là núi “Si-nai.”
  8. Xuất Hành 3:8 xứ tốt tươi Nguyên văn, “xứ chảy sữa và mật.”
  9. Xuất Hành 3:8 không còn … khốn khổ nữa Hay “vùng đất rộng lớn.”
  10. Xuất Hành 3:14 Đấng Hằng Hữu Hay “Ta là Ta, Đấng Hằng Hữu.”

Con Cháu Gia-cốp Hưng Thịnh

Ðây là tên các con trai của I-sơ-ra-ên đã đến Ai-cập với Gia-cốp, mỗi người đi với gia đình mình: Ru-bên, Si-mê-ôn, Lê-vi, Giu-đa, I-sa-ca, Xê-bu-lun, Bên-gia-min, Ðan, Náp-ta-li, Gát, và A-se. Tổng số những người trong dòng dõi của Gia-cốp là bảy mươi người; còn Giô-sép thì đã sống tại Ai-cập. Giô-sép qua đời, tất cả anh em ông và mọi người trong thế hệ đó đều cũng qua đời. Nhưng con cháu I-sơ-ra-ên vẫn cứ tiếp tục sinh sôi nảy nở rất nhiều. Họ trở nên đông đúc và hùng mạnh. Khắp nước, nơi nào cũng có họ.

Dân I-sơ-ra-ên Bị Áp Bức

Bấy giờ một vua mới lên ngôi trị vì tại Ai-cập; vua ấy không biết Giô-sép. Vua ấy nói với dân của ông, “Này, dân I-sơ-ra-ên đã thành một dân đông đúc và mạnh hơn chúng ta. 10 Hãy đến, chúng ta hãy dùng những biện pháp khôn ngoan để đối phó với chúng, kẻo chúng cứ tiếp tục gia tăng; rồi khi đất nước có chiến tranh, chúng hiệp tác với quân thù, đánh lại chúng ta, và rời khỏi xứ.” 11 Vậy chúng lập các cai nô trên họ, để đàn áp họ bằng lao động khổ sai. Họ bị bắt xây cất các thành dự trữ lương thực cho Pha-ra-ôn; đó là các thành Pi-thom và Ram-se. 12 Nhưng càng bị áp bức bao nhiêu, họ càng gia tăng dân số và tràn ra bấy nhiêu. Vì thế dân Ai-cập đâm ra lo sợ dân I-sơ-ra-ên. 13 Dân Ai-cập bèn bắt dân I-sơ-ra-ên làm những việc khắc nghiệt hơn. 14 Chúng làm cho đời sống họ trở nên trăm bề cay đắng, vì họ phải lao động khổ sai trong việc nhồi đất làm gạch và mọi công việc đồng áng. Hễ việc gì chúng bắt họ làm, chúng đều dùng đó như một phương tiện để hành hạ họ.

Chính Sách Diệt Chủng

15 Bấy giờ vua Ai-cập ra lịnh cho các bà mụ Hê-bơ-rơ, một bà tên Síp-ra và bà kia tên Pu-a, 16 “Khi các ngươi đến giúp các sản phụ Hê-bơ-rơ lúc họ lâm bồn, hãy xem đứa trẻ là trai hay gái. Hễ con trai, hãy giết đi; còn con gái, hãy để cho sống.” 17 Nhưng các bà mụ kính sợ Ðức Chúa Trời. Họ không làm theo lệnh vua Ai-cập đã truyền cho họ, mà họ cứ để cho các bé trai sống. 18 Vua Ai-cập cho gọi các bà mụ vào và hỏi, “Tại sao các ngươi làm như thế, mà để cho các trẻ trai sống?”

19 Các bà mụ trả lời với Pha-ra-ôn, “Bởi vì các sản phụ Hê-bơ-rơ không giống như các sản phụ Ai-cập; họ rất khỏe mạnh. Trước khi cô mụ đến, thì họ đã sinh rồi.” 20 Ðức Chúa Trời ban phước cho các bà mụ. Dân I-sơ-ra-ên cứ gia tăng đông đúc và trở nên rất hùng mạnh. 21 Vì các bà mụ kính sợ Ðức Chúa Trời, nên Ngài ban phước cho gia đình họ. 22 Bấy giờ Pha-ra-ôn truyền lịnh cho toàn dân của ông, “Tất cả con trai do người Hê-bơ-rơ sinh ra đều phải đem ném xuống Sông Nin cho chết; chỉ để các con gái sống mà thôi.”

Môi-se Ðược Sinh Ra

Thuở ấy có một người thuộc dòng họ Lê-vi lập gia đình với một thiếu nữ cùng dòng họ Lê-vi. Vợ ông có thai và sinh một con trai. Bà thấy đứa con quá dễ thương nên giấu và nuôi nó được ba tháng. Ðến khi thấy không thể giấu được nữa, bà lấy một cái thúng đan bằng sậy, dùng nhựa chai và hắc ín trét cả trong lẫn ngoài. Kế đó bà để đứa bé trong thúng, rồi đem thúng ấy đặt vào giữa đám sậy nơi bờ sông. Chị của đứa bé đứng xa xa trông chừng em, xem có chuyện gì xảy đến cho đứa bé chăng.

Bấy giờ công chúa của Pha-ra-ôn xuống tắm nơi bờ sông trong khi các nữ tỳ của nàng đi dạo trên bờ. Nàng thấy một cái thúng giữa đám sậy, nên sai một nữ tỳ của nàng đến bưng nó ra. Khi mở nắp ra nàng thấy có một đứa bé. Nhìn thấy đứa bé khóc, nàng động lòng thương xót và bảo, “Ðây chắc là một đứa bé của người Hê-bơ-rơ.”

Chị của đứa bé lại gần thưa với công chúa Pha-ra-ôn, “Em có thể đi kiếm một bà vú người Hê-bơ-rơ để giúp công chúa cho nó bú không?”

Công chúa Pha-ra-ôn đáp, “Hãy đi đi.” Vậy cô bé ấy chạy đi kêu mẹ của đứa bé đến. Công chúa Pha-ra-ôn nói với bà, “Hãy đem đứa bé nầy về và nuôi nó cho tôi. Tôi sẽ chu cấp cho bà.” Thế là bà ấy đem đứa bé về nhà nuôi. 10 Khi đứa bé đã khôn lớn, bà đem nó vào cho công chúa Pha-ra-ôn. Công chúa nhận nó làm con nàng. Nàng đặt tên nó là Môi-se; nàng bảo, “Vì ta đã cứu nó ra khỏi nước.”

Môi-se Trốn Ðến Xứ Mi-đi-an

11 Khi Môi-se đã trưởng thành, một ngày kia ông đi ra thăm đồng bào ông và trông thấy cảnh họ làm lao động khổ sai. Ông thấy một người Ai-cập đang đánh một người Hê-bơ-rơ, tức một người cùng dòng giống với ông. 12 Ông nhìn tới nhìn lui và chẳng thấy ai, ông giết người Ai-cập, rồi vùi thây hắn dưới cát. 13 Hôm sau ông cũng ra thăm đồng bào ông; khi thấy hai người Hê-bơ-rơ đánh nhau, ông nói với người có lỗi, “Tại sao anh đánh đồng bào của mình?”

14 Người ấy đáp, “Ai lập ông làm người cai trị chúng tôi và làm quan để xét xử chúng tôi? Ông định giết tôi như đã giết người Ai-cập kia phải không?”

Bấy giờ Môi-se phát sợ và nghĩ, “Chắc chắn việc nầy đã bị lộ rồi.”

15 Khi Pha-ra-ôn nghe việc đó, ông cho tìm bắt để giết Môi-se. Nhưng Môi-se trốn thoát được cuộc lùng bắt[a] của Pha-ra-ôn và đến ẩn cư trong xứ Mi-đi-an. Bấy giờ ông ngồi nghỉ cạnh một giếng nước.

16 Thuở ấy vị tế sư của dân Mi-đi-an có bảy cô con gái. Các cô ấy đến giếng kéo nước và đổ vào máng cho đàn chiên của cha họ uống. 17 Bấy giờ có mấy cậu chăn chiên đến sau nhưng lại bắt họ phải tránh ra để nhường chỗ. Thấy vậy Môi-se đứng dậy, binh vực các cô ấy, và cho đàn chiên của họ được tiếp tục uống nước. 18 Khi họ về đến nhà, Rê-u-ên cha họ hỏi, “Sao hôm nay các con về sớm thế?”

19 Họ đáp, “Một người Ai-cập kia binh vực chúng con, chống cự với bọn chăn chiên. Người ấy còn phụ kéo nước với chúng con và cho đàn chiên chúng con uống nước.”

20 Rê-u-ên nói với các con gái ông, “Người ấy đâu rồi? Tại sao các con bỏ người ta ngoài đó? Hãy ra mời người ấy về dùng bữa.”

21 Sau đó Môi-se đồng ý sống với gia đình của Rê-u-ên. Rê-u-ên gả Xíp-pô-ra con gái ông làm vợ Môi-se. 22 Nàng sinh cho Môi-se một con trai. Ông đặt tên nó là Ghẹt-sôm,[b] vì ông nói, “Tôi là một kiều dân nơi đất khách quê người.”

23 Sau một thời gian khá lâu, vua Ai-cập băng hà. Dân I-sơ-ra-ên rên siết dưới gánh nặng làm nô lệ, và họ kêu cứu. Tiếng kêu cứu của họ vì bị áp bức dưới ách nô lệ thấu đến Ðức Chúa Trời. 24 Ðức Chúa Trời nghe tiếng rên siết của họ, và Ðức Chúa Trời nhớ lại giao ước Ngài đã lập với Áp-ra-ham, I-sác, và Gia-cốp. 25 Ðức Chúa Trời đoái xem dân I-sơ-ra-ên, và Ðức Chúa Trời quan tâm đặc biệt đến họ.

Môi-se và Bụi Gai Cháy

Môi-se chăn bầy chiên của Giê-trô[c] nhạc phụ ông, tế sư của dân Mi-đi-an. Ông dẫn bầy chiên qua bên kia đồng hoang, đến Núi Hô-rếp, tức núi của Ðức Chúa Trời. Tại đó Thiên Sứ của Chúa hiện ra với ông trong ngọn lửa giữa một bụi gai cháy. Ông nhìn bụi gai cháy, và kìa, nó không tàn. Môi-se tự nhủ, “Ta phải tẽ bước lại xem cảnh lạ kỳ nầy, và coi thử tại sao bụi gai lại không tàn.” Khi Chúa thấy ông tẽ bước lại xem, Ðức Chúa Trời từ trong bụi gai gọi ông, “Hỡi Môi-se! Môi-se!”

Ông đáp, “Thưa, có tôi đây.”

Ðức Chúa Trời phán, “Chớ lại gần nữa. Hãy cởi giày của ngươi ra, vì chỗ ngươi đứng là đất thánh.” Ngài lại phán, “Ta là Ðức Chúa Trời của tổ tiên ngươi, Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Ðức Chúa Trời của I-sác, và Ðức Chúa Trời của Gia-cốp.” Nghe thế Môi-se liền che mặt ông vì ông sợ nhìn thấy Ðức Chúa Trời.

Chúa phán, “Ta đã thấy nỗi khổ của dân Ta ở Ai-cập. Ta đã nghe tiếng kêu van của chúng vì bọn cai nô của chúng. Phải, Ta đã biết nỗi khốn khổ của chúng, vì thế Ta ngự xuống để cứu chúng khỏi tay dân Ai-cập và đem chúng ra khỏi xứ ấy, để đưa chúng vào một xứ tốt đẹp và rộng rãi, một xứ đượm sữa và mật, xứ của dân Ca-na-an, dân Hít-ti, dân A-mô-ri, dân Pê-ri-xi, dân Hi-vi, và dân Giê-bu-si. Nầy, tiếng kêu van của dân I-sơ-ra-ên đã thấu đến Ta, và Ta đã thấy cảnh dân Ai-cập áp bức chúng như thế nào. 10 Vậy bây giờ hãy đi. Ta sai ngươi đến gặp Pha-ra-ôn để đem dân Ta, tức dân I-sơ-ra-ên, ra khỏi Ai-cập.”

11 Nhưng Môi-se thưa với Ðức Chúa Trời, “Con là ai mà dám đến với Pha-ra-ôn và đem dân I-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập?”

12 Ðức Chúa Trời phán, “Ta sẽ ở với ngươi. Ðây là dấu hiệu để ngươi biết rằng chính Ta đã sai ngươi: Khi ngươi đem dân ra khỏi Ai-cập, các ngươi sẽ thờ phượng Ðức Chúa Trời trên núi nầy.”

13 Môi-se thưa với Ðức Chúa Trời, “Nếu con đến với dân I-sơ-ra-ên và nói với họ, ‘Ðức Chúa Trời của tổ tiên anh chị em đã sai tôi đến với anh chị em,’ mà họ hỏi, ‘Danh của Ðấng ấy là gì?’ thì con sẽ nói với họ làm sao?”

14 Ðức Chúa Trời phán với Môi-se, “Ta là Ðấng Tự Hữu Hằng Hữu.”[d] Ngài lại phán, “Ngươi hãy nói với dân I-sơ-ra-ên như thế nầy, ‘Ðấng Tự Hữu đã sai tôi đến với anh chị em.’”

15 Ðức Chúa Trời lại phán với Môi-se, “Ngươi cứ nói với dân I-sơ-ra-ên như thế nầy, ‘Chúa, Ðức Chúa Trời của tổ tiên anh chị em, Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Ðức Chúa Trời của I-sác, và Ðức Chúa Trời của Gia-cốp, đã sai tôi đến với anh chị em.’

Ấy là danh Ta đời đời.
Ấy là hiệu Ta suốt mọi thế hệ.

16 Hãy đi, triệu tập các trưởng lão của I-sơ-ra-ên lại, và nói với chúng, ‘Chúa, Ðức Chúa Trời của tổ tiên quý vị, Ðức Chúa Trời của Áp-ra-ham, của I-sác, và của Gia-cốp, đã hiện ra với tôi và bảo rằng, “Ta đã đoái thăm các ngươi và biết rõ các ngươi đang bị bạc đãi tại Ai-cập. 17 Ta đã phán, Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi nỗi đau khổ ở Ai-cập, để lên xứ của dân Ca-na-an, dân Hít-ti, dân A-mô-ri, dân Pê-ri-xi, dân Hi-vi, và dân Giê-bu-si, một xứ đượm sữa và mật.”’ 18 Chúng sẽ nghe lời ngươi. Ngươi và các trưởng lão của I-sơ-ra-ên sẽ đến với vua Ai-cập, và các ngươi sẽ nói với hắn, ‘Chúa, Ðức Chúa Trời của người Hê-bơ-rơ, đã gặp chúng tôi. Bây giờ xin bệ hạ cho chúng tôi đi ba ngày vào đồng hoang, để chúng tôi dâng tế lễ lên Chúa, Ðức Chúa Trời của chúng tôi.’ 19 Ta biết trước vua Ai-cập sẽ không cho các ngươi đi, trừ phi có một bàn tay mạnh mẽ can thiệp. 20 Vì thế Ta sẽ đưa tay ra đánh Ai-cập. Ta sẽ thể hiện các phép lạ giữa xứ ấy, cuối cùng nó sẽ để các ngươi ra đi. 21 Ta sẽ làm cho dân nầy được lòng người Ai-cập, đến nỗi khi các ngươi ra đi, các ngươi sẽ không ra đi tay không. 22 Mỗi phụ nữ sẽ hỏi xin người lân cận mình và những phụ nữ sống chung nhà với mình các món đồ bằng bạc, các vật quý bằng vàng, và các y phục đắt tiền dành để mặc trong các dịp lễ hội, rồi chất trên các con trai và các con gái các ngươi để mang đi. Các ngươi sẽ tước đoạt của cải dân Ai-cập như vậy.”

Notas al pie

  1. Xuất Hành 2:15 nt: khỏi mặt
  2. Xuất Hành 2:22 Hebrew: Ger là kiều dân, sham là ở đó.
  3. Xuất Hành 3:1 Một tên khác của Rê-u-ên
  4. Xuất Hành 3:14 nt: Ta là Ta