Add parallel Print Page Options

32 Hỡi trời, hãy nghe ta nói.
    Hỡi đất, hãy lắng tai nghe lời ta.
Lời giáo huấn của ta rơi xuống như mưa;
    lời ta rớt xuống như sương.
Chúng giống như mưa rào trên cỏ;
    và đổ xuống như mưa trên cây non.
Ta sẽ loan báo danh của CHÚA.
    Hãy ca ngợi Thượng Đế vì Ngài cao cả!
Ngài như khối đá; mọi điều Ngài làm đều hoàn hảo,
    Ngài luôn luôn công bằng.
Ngài là Thượng Đế thành tín, không bao giờ làm quấy,
    Ngài là Đấng chính trực công bình.
Chúng đã làm điều ác chống nghịch Ngài.
    Chúng không trung thành với Ngài;
Chúng quanh quẹo và dối trá.
Các ngươi trả ơn CHÚA như thế sao,
    hỡi dân ngu dại và thiếu hiểu biết?
Ngài là Cha và là Đấng Tạo Hoá ngươi,
    Đấng đã dựng nên và tạo thành ngươi.

Hãy nhớ lại ngày xưa.
    Hãy suy nghĩ lại những năm qua.
Hãy bảo cha ngươi kể cho ngươi nghe;
    Hỏi các bô lão, họ sẽ thuật cho ngươi biết;
Đấng Chí Cao đã ban đất cho các dân tộc,
    phân chia các chủng tộc.
Ngài định ranh giới cho các dân theo số của dân tộc Ít-ra-en.
CHÚA chọn dân Ngài làm phần mình,
    và chọn dân tộc Gia-cốp làm của riêng Ngài.

10 Ngài tìm thấy họ trong một sa mạc
    đầy giông gió và hoang vu.
Ngài đùm bọc họ và nuôi dưỡng họ,
    Bảo vệ họ như người yêu dấu.
11 Ngài như chim ưng xây tổ và vỗ cánh trên các chim con.
    Nó giương cánh ra đỡ các chim con
    và mang chúng trên cánh mình.
12 Chỉ một mình CHÚA dẫn dắt họ,
    không có thần ngoại quốc nào giúp đỡ Ngài.
13 CHÚA mang họ lên các đỉnh cao của xứ
    và dùng trái cây trong đồng nuôi dưỡng họ.
Ngài cho họ ăn mật ong nơi tảng đá,
    Lấy dầu ra từ tảng đá cứng.
14 Họ có sữa đông do bò cái sản xuất
    và sữa ra từ bầy gia súc;
    có chiên và dê mập béo.
Có chiên và dê từ Ba-san cùng lúa mì tốt nhất.
    Các ngươi uống rượu nho.

15 Ít-ra-en trở nên mập béo và đạp đá lung tung;
    chúng mập mạp và rắn chắc.
Chúng rời bỏ Thượng Đế là Đấng dựng nên mình
    và từ bỏ Tảng Đá đã cứu mình.
16 Chúng dùng các thần ngoại quốc để khiến Thượng Đế ghen tức
    và nổi giận với những tượng chạm đáng ghê tởm.
17 Chúng dâng sinh tế cho yêu quỉ,
    không phải cho Thượng Đế,
cho những thần chúng không hề biết,
    những thần từ các xứ quanh đó,
thần mà tổ tiên chúng nó không sợ.
18 Các ngươi đã bỏ Thượng Đế là Khối Đá, Cha các ngươi,
    và quên Thượng Đế Đấng đã sinh các ngươi ra.

19 CHÚA thấy điều nầy và từ bỏ chúng;
    các con trai con gái Ngài đã chọc giận Ngài.
20 Ngài bảo, “Ta sẽ quay mặt khỏi chúng nó để xem chúng nó ra sao.
    Chúng nó là dân gian ác,
    là con cái phản nghịch.
21 Chúng dùng những vật không phải là thần để làm ta ganh tức,
    dùng những tượng chạm không ra gì để chọc giận ta.
Cho nên ta sẽ dùng những người không phải là dân ta
    để khiến chúng nó ganh tức;
Ta sẽ dùng một dân không hiểu biết
    đế khiến chúng tức giận.
22 Cơn giận ta đã bốc lửa,
    cháy phừng xuống đến tận chỗ kẻ chết ở.
    Ta sẽ thiêu đốt đất đai và mùa màng,
    Ta sẽ đốt chân núi.

23 Ta sẽ chồng chất khốn khổ lên trên đầu chúng
    và bắn các mũi tên vào chúng.
24 Chúng sẽ chết đói và bệnh hoạn,
    bị các dịch lệ tiêu diệt.
Ta sẽ sai ác thú đến với chúng
    và rắn độc cũng lướt tới.
25 Trong phố sẽ có gươm giáo;
    trong nhà chúng sẽ có sự kinh hoàng.
Thanh niên, thiếu nữ sẽ chết,
    Hài nhi và người già cả cũng đồng chung số phận.
26 Ta sẽ phân tán chúng ra như ta nói,
    sẽ không còn ai nhớ tới chúng nữa.
27 Nhưng ta không muốn kẻ thù chúng huênh hoang;
    vì kẻ thù chúng sẽ lầm tưởng và khoe khoang rằng,
‘Chúng ta đã thắng rồi!
    CHÚA không có đóng vai trò gì trong việc nầy cả.’

28 Ít-ra-en không hiểu biết;
    chúng chẳng có trí hiểu gì.
29 Ta ước gì chúng khôn ngoan và hiểu điều nầy;
    Ước gì chúng có thể thấy số phận chúng ra sao.
30 Một người không đánh đuổi nổi một ngàn người,
    hai người không đánh đuổi nổi mười ngàn người
vì Khối Đá của chúng bán đứng chúng,
    và vì CHÚA từ bỏ chúng.
31 Khối đá của các dân đó không phải như Khối Đá của chúng ta;
    các kẻ thù chúng ta cũng công nhận như thế.
32 Dây nho của chúng là từ Xô-đôm mà ra,
    và đồng ruộng chúng như Gô-mô-rơ.
Trái nho chúng đầy nọc độc;
    Chùm nho chúng rất đắng.
33 Rượu chúng như nọc rắn,
    như nọc độc rắn hổ mang.

34 Ta đã để dành điều nầy,
    và khóa cất trong kho ta.
35 Ta sẽ trừng phạt những kẻ làm quấy,
    ta sẽ báo trả chúng.
Trước sau bước chân chúng sẽ vấp ngã,
    vì ngày khốn đốn chúng đã gần kề,
và sự hình phạt chúng sẽ đến rất nhanh.”

36 CHÚA sẽ bênh vực dân Ngài
    và tỏ lòng nhân ái đối với tôi tớ Ngài.
Ngài sẽ khiến cho sức mạnh nó tiêu tan,
    không còn ai sống sót,
    từ tôi mọi đến người tự do.
37 Rồi Ngài sẽ hỏi,
    “Các thần chúng nó đâu?
Tảng đá mà chúng ỷ lại đâu rồi?
38 Ai là kẻ ăn mỡ từ các của lễ chúng
    hoặc uống rượu từ của lễ uống của chúng?
Các thần đó hãy đến giúp ngươi đi!
    Hãy nhờ chúng bảo vệ ngươi đi!

39 Bây giờ ngươi sẽ biết rằng ta là Thượng Đế duy nhất!
    Không có thần nào khác ngoài ta.
Ta sai sự sống và sự chết đến;
    Ta làm cho bị thương, rồi ta chữa lành.
Không ai thoát khỏi tay ta.
40 Ta giơ tay lên trời và thề quyết như sau:
    Vì rằng ta hằng sống,
41 Ta sẽ mài gươm sáng loáng của ta,
    ta sẽ cầm gươm trong tay mà phân xử.
Ta sẽ trừng phạt kẻ thù ta
    và báo trả kẻ ghét ta.
42 Máu của chúng sẽ dính đầy các mũi tên ta;
    gươm ta sẽ ăn thịt chúng.
Huyết sẽ chảy từ những kẻ bị giết và kẻ bị bắt làm tù.
    Các lãnh tụ của kẻ thù sẽ bị chém đầu.

43 Hãy vui lên, hỡi các dân,
    cùng với dân Ngài
vì Ngài sẽ trả thù các ngươi về huyết của các tôi tớ Ngài.
    Ngài sẽ trừng phạt các kẻ thù mình,
    và Ngài sẽ cất tội lỗi của đất và của dân Ngài.”

Mô-se dạy cho dân chúng hát bài nầy

44 Mô-se và Giô-suê con của Nun phổ biến mọi lời của bài ca nầy cho dân chúng nghe.

45 Sau khi Mô-se nói những lời đó cho toàn thể dân Ít-ra-en xong, 46 thì ông bảo họ: “Hãy ghi tạc mọi lời ta nói với các ngươi hôm nay, và dặn con cái các ngươi vâng giữ mọi luật lệ nầy. 47 Đây không phải là những lời tầm thường mà là những lời sống cho các ngươi! Nhờ những lời nầy các ngươi sẽ sống lâu trong xứ mà ngươi sẽ nhận làm sản nghiệp sau khi băng qua sông Giô-đanh.”

Mô-se lên núi Nê-bô

48 Cùng ngày đó CHÚA lại nói cùng Mô-se như sau, 49 “Hãy lên núi A-ba-rim, đến ngọn núi Nê-bô trong xứ Mô-áp, đối ngang Giê-ri-cô. Hãy nhìn toàn xứ Ca-na-an mà ta sẽ ban cho dân Ít-ra-en làm sản nghiệp. 50 Ngươi sẽ qua đời và về cùng tổ tiên trên ngọn núi mà ngươi sẽ leo lên như anh ngươi là A-rôn đã chết trên núi Hô-rơ và về cùng tổ tiên. 51 Cả hai ngươi đã phạm tội cùng ta trong các suối Mê-ri-ba Ca-đe trong sa mạc Xin, còn ngươi không tôn thánh ta trước mặt dân Ít-ra-en. 52 Bây giờ ngươi chỉ được nhìn xứ đó từ đàng xa mà thôi. Ngươi sẽ không được vào đất mà ta sẽ ban cho dân Ít-ra-en.”

Mô-se chúc phước cho dân chúng

33 Mô-se, người của Thượng Đế chúc phước như sau cho dân Ít-ra-en trước khi ông qua đời. Ông nói:

“CHÚA đến từ núi Si-nai
    và mọc lên như mặt trời từ Sê-ia [a];
    từ núi Pha-ran Ngài tỏ ra sự oai nghiêm Ngài.
Ngài đến với hàng ngàn người thánh [b],
    từ các núi miền Nam [c].
Chắc hẳn CHÚA yêu thương dân Ngài
    và chăm sóc những ai thuộc về Ngài.
Họ thờ lạy dưới chân Ngài,
    và được Ngài dạy dỗ.
Mô-se ban cho chúng tôi những luật lệ nầy là di sản cho dân chúng Gia-cốp.
CHÚA làm vua trên Ít-ra-en khi các lãnh tụ của dân chúng nhóm họp lại,
    khi các chi tộc Ít-ra-en tập họp.”

Phúc lành của Ru-bên

“Nguyện cho dân Ru-bên được sống, không bị chết,
    nhưng dân số ít ỏi thôi.”

Phúc lành của Giu-đa

Về dân chúng Giu-đa, Mô-se chúc như sau:

“Lạy CHÚA, xin nghe lời khẩn nguyện của Giu-đa;
    mang họ trở về cùng dân mình.
Họ dùng tay để tự vệ.
    Xin giúp họ đánh quân thù!”

Phúc lành của Lê-vi

Về dân Lê-vi, Mô-se chúc như sau:

“Lạy CHÚA, Thu-mim và U-rim của Ngài thuộc về Lê-vi mà Ngài yêu.
    Lạy CHÚA, Ngài thử họ ở Ma-sa
    và tranh luận với họ nơi các suối Mê-ri-ba [d].
Họ nói như sau về cha và mẹ mình,
    ‘Tôi không biết họ.’
Họ không biệt đãi anh em mình
    hay thiên vị con cái mình,
khi bảo vệ lời Ngài và canh giữ giao ước Ngài.
10 Họ dạy luật lệ cho dân Gia-cốp,
    và truyền lời giáo huấn Ngài cho dân Ít-ra-en.
Họ thắp hương trước mặt Ngài,
    và dâng của lễ toàn thiêu trên bàn thờ Ngài.
11 Lạy CHÚA, xin giúp họ thêm mạnh;
    chúc phước công việc tay họ làm.
Xin hãy đánh bại những kẻ tấn công họ,
    và đừng để kẻ thù ngóc đầu lên được.”

Phúc lành của Bên-gia-min

12 Còn về dân Bên-gia-min, Mô-se chúc như sau:

“Những kẻ được CHÚA yêu sẽ sống trong cánh tay Ngài,
    vì CHÚA gìn giữ họ suốt ngày.
Những kẻ Ngài yêu sẽ nghỉ ngơi với Ngài.”

Phúc lành của Giô-xép

13 Mô-se nói như sau về dân chúng Giô-xép:

“Nguyện CHÚA ban phước cho đất họ bằng sương móc kỳ diệu từ trời,
    và bằng nước từ các suối dưới đất,
14 bằng những trái cây tốt nhất mà mặt trời mang lại,
    cùng những cây trái tốt nhất mà mặt trăng mang đến.
15 Nguyện các núi xưa sinh sản ra mùa màng tốt,
    và các núi đời đời sinh ra các trái cây ngon nhất.
16 Nguyện toàn trái đất sinh sản ra trái cây ngon ngọt,
    và nguyện CHÚA là Đấng sống giữa bụi cây cháy mãn nguyện.
Nguyện những phúc lành nầy ban trên đầu của Giô-xép,
    trên trán của hoàng tử giữa vòng anh em mình.
17 Giô-xép có vẻ oai nghi của con bò đực đầu lòng;
    người mạnh như con bò rừng.
Người sẽ húc các quốc gia khác,
    thậm chí đến các quốc gia ở xa.
Đó là một vạn người Ép-ra-im,
    và hàng ngàn người Ma-na-xe.”

Phúc lành của Xê-bu-lôn và Y-xa-ca

18 Về dân Xê-bu-lôn, Mô-se chúc như sau:

“Hỡi Xê-bu-lôn, hãy vui mừng khi ngươi đi ra.
Còn Y-xa-ca ơi, hãy vui mừng trong lều trại ngươi.
19 Chúng sẽ gọi các dân lên núi,
    nơi họ dâng của lễ công bình.
Họ sẽ hưởng mọi vật trong biển,
    và hưởng những vật quí giấu kín trong cát nơi bờ biển.”

Phúc lành của Gát

20 Mô-se nói như sau về dân Gát:

“Hãy ca ngợi CHÚA đã ban thêm đất cho Gát!
    Gát như con sư tử, xâu xé tay chân và đầu.
21 Họ chọn đất tốt nhất cho mình.
    Họ nhận phần lớn, như phần cấp cho sĩ quan.
Khi các lãnh tụ của dân chúng họp lại,
    thì dân Gát làm điều đẹp lòng CHÚA,
và họ phân xử công minh cho dân Ít-ra-en.”

Phúc lành của Đan

22 Về dân Đan, Mô-se chúc như sau:

“Đan như sư tử con nhảy ra khỏi Ba-san.”

Phúc lành của Nép-ta-li

23 Về dân Nép-ta-li, Mô-se chúc như sau:

“Nép-ta-li vui hưởng lòng nhân từ,
    và ơn phước CHÚA.
Ngươi sẽ nhận phần đất phía tây và phía nam.”

Phúc lành của A-se

24 Còn về dân A-se [e], Mô-se chúc:

“A-se là con trai được phước nhất;
    nguyện ngươi được các anh em yêu thích.
Nguyện ngươi ngâm chân trong dầu ô liu.
25 Các cổng của ngươi sẽ có các khóa sắt và đồng,
    ngươi sẽ mạnh mẽ suốt đời.”

Mô-se ca tụng Thượng Đế

26 “Không ai giống như Thượng Đế của Ít-ra-en,
    Ngài ngự qua các từng trời để giúp đỡ ngươi,
    Ngài cỡi trên các đám mây trong sự uy nghi Ngài.
27 Thượng Đế hằng sống là nơi trú ẩn an toàn của ngươi,
    và tay Ngài sẽ nâng đỡ ngươi mãi mãi.
Ngài sẽ đánh đuổi kẻ thù ngươi trước mặt ngươi và bảo rằng,
    ‘Hãy tiêu diệt kẻ thù!’
28 Dân Ít-ra-en sẽ nằm xuống bình yên.
    Suối của Gia-cốp là của ngươi.
Đất đai ngươi đầy ngũ cốc và rượu mới,
    nơi bầu trời nhễu sương xuống.
29 Hỡi Ít-ra-en, ngươi có phúc!
    Không ai giống như ngươi vì ngươi là dân được CHÚA cứu.
Ngài là cái thuẫn và là Đấng hỗ trợ ngươi;
    Ngài là gươm vinh hiển ngươi.
Các kẻ thù ngươi sẽ sợ sệt ngươi,
    còn ngươi sẽ dẫm lên các nơi thánh của chúng nó.”

Mô-se qua đời

34 Rồi Mô-se từ bình nguyên Mô-áp leo lên núi Nê-bô đến đỉnh núi Phích-ga đối ngang Giê-ri-cô. Từ đó CHÚA chỉ cho ông toàn xứ từ Ghi-lê-át cho đến Đan, toàn miền Nép-ta-li và xứ Ép-ra-im vùng Ma-na-xe, toàn đất Giu-đa cho đến Địa-trung-hải, và vùng sa mạc miền nam cùng toàn thung lũng Giê-ri-cô cho đến Xoa. (Giê-ri-cô trước kia gọi là thành cây chà là.) Rồi CHÚA bảo Mô-se, “Đây là xứ mà ta hứa cho Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp khi ta nói cùng họ, ‘Ta sẽ ban đất nầy cho dòng dõi các ngươi.’ Mô-se, ta đã để cho ngươi nhìn thấy xứ đó nhưng ngươi sẽ không được vào.”

Rồi Mô-se, tôi tớ CHÚA qua đời tại đó trong xứ Mô-áp, như CHÚA đã phán. Ngài chôn ông trong xứ Mô-áp trong thung lũng đối ngang Bết-Phê-ô. Nhưng cho đến ngày nay không ai biết mộ ông ở đâu. Khi qua đời Mô-se được một trăm hai mươi tuổi. Mắt ông không lòa, ông vẫn khỏe mạnh. Dân Ít-ra-en than khóc Mô-se trong ba mươi ngày và lưu lại trong bình nguyên Mô-áp cho đến khi thời gian than khóc đã qua.

Giô-suê lên thay Mô-se

Lúc bấy giờ Giô-suê con trai của Nun được đầy dẫy sự khôn ngoan vì Mô-se đã đặt tay trên ông. Dân Ít-ra-en vâng lời Giô-suê và làm theo mọi điều CHÚA truyền dặn Mô-se.

10 Từ trước đến giờ chưa có một nhà tiên tri nào trong Ít-ra-en như Mô-se, người mà CHÚA biết mặt đối mặt 11 được Ngài sai làm các dấu kỳ, phép lạ trong xứ Ai-cập cho nhà vua, quần thần và toàn xứ. 12 Mô-se có quyền năng, làm nhiều phép lạ lớn lao cho toàn dân Ít-ra-en trông thấy.

Footnotes

  1. Phục Truyền Luật Lệ 33:2 Sê-ia Hay “Ê-đôm.”
  2. Phục Truyền Luật Lệ 33:2 người thánh Đây có thể là các thiên sứ.
  3. Phục Truyền Luật Lệ 33:2 từ các núi miền Nam Câu nầy trong bản Hê-bơ-rơ không rõ nghĩa.
  4. Phục Truyền Luật Lệ 33:8 Ma-sa … suối Mê-ri-ba Xin xem truyện nầy ở Dân 20:1-13.
  5. Phục Truyền Luật Lệ 33:24 A-se A-se có nghĩa là “được phước” hay “vui mừng.”

Bài Ca của Môi-se

32 “Hỡi các tầng trời, xin hãy nghe những gì tôi sẽ nói;
Hỡi trái đất, xin lắng nghe những lời của miệng tôi.
Nguyện lời dạy của tôi như những giọt mưa rơi,
Nguyện lời khuyên bảo của tôi tựa sương đọng lại,
Như mưa lất phất rơi trên đồng cỏ,
Như mưa rào đổ nhẹ xuống đồng xanh.
Vì tôi xưng tụng thánh danh của Chúa,
Xin hãy quy mọi sự vĩ đại về cho Ðức Chúa Trời chúng ta.
Ngài là Vầng Ðá,
Công việc của Ngài thật trác tuyệt;
Mọi đường lối của Ngài thật công chính vẹn toàn.
Ngài là Ðức Chúa Trời thành tín, không chút dối gian;
Công chính và chính trực là Ngài.
Thế nhưng con dân Ngài đã đối với Ngài thật tồi tệ;
Họ đã quá hư đốn và chẳng đáng làm con của Ngài;
Họ đúng là một dòng dõi ngang bướng và gian tà.
Hỡi dân điên rồ và vô ơn bạc nghĩa,
Anh chị em đền đáp ơn Chúa như vậy sao?
Há chẳng phải chính Ngài là cha của anh chị em,
Ðấng đã dựng nên anh chị em,
Ðấng đã tạo thành anh chị em và lập vững anh chị em sao?
Hãy nhớ lại những ngày xa xưa;
Hãy ngẫm suy những năm của các thế hệ rất lâu về trước;
Hãy hỏi cha của anh chị em, ông ấy sẽ bảo cho,
Hãy hỏi các vị trưởng lão, họ sẽ nói cho anh chị em rõ.
Khi Ðấng Tối Cao chia sản nghiệp cho các dân,
Khi Ngài chia thế giới ra từng vùng để nhân loại ở,
Ngài ấn định bờ cõi cho các dân,
Dựa theo số con cái của I-sơ-ra-ên.[a]
Phần của Chúa chính là dân của Ngài;
Gia-cốp là phần sản nghiệp của Ngài.
10 Ngài đã tìm thấy ông trong một vùng hoang vắng,
Giữa đồng hoang gió hú thú gầm;
Ngài che chở ông và chăm sóc ông,
Ngài bảo vệ ông như con ngươi của mắt Ngài.
11 Ngài như đại bàng lượn bay quanh tổ nó,
Bay lượn bên trên, giục các con nhỏ của nó tập bay,
Dang cánh ra cõng các con nó trên lưng,
Ðưa chúng lên trời cao bằng đôi cánh của mình.
12 Chúa là Ðấng duy nhất dẫn dắt ông;
Không có thần ngoại bang nào ở bên ông.
13 Ngài đặt ông ở những địa vị quyền thế trong xứ;[b]
Ngài nuôi ông bằng sản phẩm của ruộng đồng;
Ngài cho ông ăn mật ong từ các tổ ong trong kẽ đá.
Ông dùng dầu ô-liu trồng trong các rẫy đầy những đá hoa cương;
14 Ông ăn sữa chua từ đàn bò,
Ông uống sữa tươi từ đàn chiên và đàn dê,
Ông ăn thịt những chiên con và chiên đực mập béo;
Ông ăn thịt bò của Ba-san và thịt dê hảo hạng,
Ông hưởng lúa mì loại ngon thượng hạng;
Ông[c] uống những thứ rượu ngon hạng nhất thời bấy giờ.
15 Giê-su-run[d] được mập béo, rồi lại giơ chân đá ngược;
Anh chị em đã mập, béo, và phì ra rồi!
Ông đã bỏ Ðức Chúa Trời, Ðấng đã dựng nên ông;
Ông đã khinh khi Vầng Ðá giải cứu ông.
16 Họ đã làm cho Ngài ghen tức với các thần xa lạ;
Họ đã dùng những việc gớm ghiếc để chọc giận Ngài.
17 Họ đã cúng tế cho các quỷ chứ nào phải dâng hiến lên Ðức Chúa Trời;
Thần của họ là những thần họ không biết;
Tức những thần khi vào trong xứ rồi họ mới phát hiện chúng ra,
Chúng là những thần mà tổ tiên anh chị em không sợ.
18 Anh chị em đã làm ngơ với Vầng Ðá đã sinh ra mình;
Anh chị em đã quên hẳn Ðức Chúa Trời, Ðấng đã tạo ra mình.
19 Chúa thấy thế, Ngài chán ngán họ;
Ngài ẩn mặt khỏi các con trai và các con gái của Ngài.
20 Ngài phán, ‘Ta sẽ ẩn mặt Ta khỏi chúng;
Ðể Ta xem, đến cuối cùng chúng sẽ ra sao;
Vì bọn chúng là giống nòi tráo trở,
Những đứa con không tình nghĩa trung thành.
21 Chúng đã làm cho Ta phải ghen với những gì không phải là thần;
Chúng chọc giận Ta bằng các thần tượng chúng thờ.
Vì thế Ta sẽ làm cho chúng phải ghen tức với một dân chẳng ra gì,
Dùng một dân ngu si khiến chúng phải tức tối bực mình.
22 Vì lửa giận của Ta đã phừng lên nghịch lại chúng;
Lửa ấy đã cháy bùng đến tận vực sâu của âm phủ;
Lửa ấy thiêu đốt đất đai và hoa màu sinh ra trên đất;
Lửa ấy cháy tận nền các núi non hùng vĩ.
23 Ta sẽ chồng chất các tai vạ trên chúng;
Ta sẽ bắn các mũi tên của Ta vào chúng:
24 Nạn đói sẽ khiến chúng hao mòn;
Khí hậu nóng cháy khô khan sẽ làm chúng kiệt quệ;
Ôn dịch sẽ khiến chúng tang thương;
Răng của thú dữ do Ta sai đến sẽ cắn xé chúng;
Nọc của rắn độc bò trong bụi đất sẽ gây chết chóc cho chúng.
25 Ngoài đường gươm giáo sẽ gây nên tang tóc,
Còn trong nhà sẽ đầy nỗi kinh hoàng;
Trai tráng hay thiếu nữ thanh xuân cũng vậy;
Trẻ thơ còn bú hay người già tóc bạc phơ đều chẳng được miễn trừ.
26 Ta đã nghĩ, Ta sẽ rải chúng ra khắp bốn phương trên đất;
Ta sẽ xóa chúng khỏi trí nhớ của loài người;
27 Nhưng Ta ngại làm như thế kẻ thù của chúng sẽ được thêm khích lệ;
Quân thù của chúng có thể sẽ hiểu lầm và bảo, “Chúng ta đắc thắng là nhờ sức lực của tay mình,
Chiến thắng nầy không phải tất cả là Chúa đã làm đâu.”
28 Thật vậy, bọn chúng là một dân không trí tuệ;
Chúng chẳng có khả năng phán đoán nghĩ suy.
29 Nếu chúng có chút khôn ngoan, chúng đã nghĩ ra điều ấy;
Chúng có thể suy ra kết cuộc sẽ thế nào.
30 Làm sao một người có thể rượt đuổi cả ngàn người,
Còn hai người có thể làm cho vạn người chạy trốn,
Trừ phi Vầng Ðá của họ đã bán bỏ họ,
Tức Chúa của họ đã lìa bỏ họ rồi?
31 Vì vầng đá của chúng chẳng giống như Vầng Ðá của chúng ta;
Quân thù của chúng ta đều biết rõ điều ấy.
32 Nho của chúng lấy ra từ giống nho ở Sô-đôm,
Từ vườn nho ở Gô-mô-ra;
Trái nho của chúng là trái nho độc,
Chùm nho của chúng chỉ có toàn trái đắng.
33 Rượu của chúng đều là nọc của rắn độc,[e]
Nọc độc chết người của rắn bành mang.
34 Việc đoán phạt nầy Ta há đã không giữ trong kho,
Niêm phong nó trong kho báu của Ta sao?
35 Sự báo thù thuộc về Ta, Ta sẽ báo trả;
Sắp đến lúc chân chúng sẽ thình lình trượt ngã,
Bởi vì ngày hoạn nạn của chúng đã gần;
Những điều ấy sẽ xảy đến rất nhanh cho chúng.’

36 Chúa sẽ minh oan cho dân Ngài,
Ngài sẽ thương xót các đầy tớ Ngài,
Khi Ngài thấy sức lực của họ chẳng còn nữa,
Khi kẻ nô lệ hay người tự do đều chẳng còn ai.
37 Bấy giờ Ngài sẽ hỏi, ‘Các thần của chúng,
Những vầng đá nơi chúng nương náu,
38 Những kẻ hưởng các phần béo tốt nhất của các con vật hiến tế chúng dâng,
Những kẻ uống rượu chúng hiến qua các lễ quán đâu rồi?
Hãy để những kẻ ấy trỗi dậy và giúp đỡ các ngươi!
Hãy để chúng bảo vệ các ngươi!
39 Này, bây giờ, khá biết rằng ấy là Ta, chính Ta là Ðấng ấy;
Chẳng có thần nào khác ngoài Ta.[f]
Ta có quyền làm cho chết, và Ta làm cho sống lại;
Ta khiến cho bị thương, và Ta chữa cho mạnh lành;
Không ai có thể thoát khỏi tay Ta.
40 Ta đưa tay Ta lên trời mà thề rằng:
Như Ta hằng sống đời đời,
41 Ta sẽ mài lưỡi gươm bóng láng của Ta cho sắc bén,
Tay Ta sẽ cầm lấy nó để thi hành sự đoán phạt;
Ta sẽ báo thù những kẻ chống nghịch Ta;
Ta sẽ báo trả những kẻ ghét Ta.
42 Ta sẽ cho những mũi tên của Ta uống máu,
Và lưỡi gươm của Ta sẽ ăn thịt quân thù,
Tức máu của quân thù ngã chết nơi chiến trận và tàn quân bại trận;
Ðầu của những kẻ để tóc dài thề chống Ta đến cùng đều bị rơi.’

43 Hỡi các dân các nước, hãy cùng với dân Ngài dâng lời ca ngợi,
Hãy thờ phượng Ngài, hỡi tất cả các ngươi,[g]
Vì Ngài sẽ bắt chúng đền nợ máu các tôi tớ Ngài,
Ngài sẽ báo thù những kẻ chống nghịch Ngài,
Ngài sẽ báo trả những kẻ ghét Ngài,[h]
Và Ngài sẽ xá tội[i] cho xứ và cho dân Ngài.”

Luật Pháp và Sự Sống Còn của Dân I-sơ-ra-ên

44 Môi-se cùng với Giô-suê con của Nun đến và nói tất cả những lời của bài ca ấy cho dân nghe. 45 Sau khi Môi-se nói xong tất cả những lời ấy cho toàn dân I-sơ-ra-ên, 46 ông nói với họ, “Hãy ghi lòng tạc dạ tất cả những lời tôi làm chứng giữa anh chị em ngày nay. Anh chị em hãy truyền những lời ấy lại cho con cháu mình, để chúng cũng hết lòng vâng giữ mọi lời của bộ luật pháp nầy. 47 Ðây chẳng phải là việc không có giá trị gì đối với anh chị em, nhưng chính là sự sống còn của anh chị em, vì nhờ nó anh chị em mới có thể sống lâu trong xứ mà anh chị em sẽ đi qua Sông Giô-đanh để chiếm lấy.”

Môi-se Gần Qua Ðời

48 Chính ngày hôm đó Chúa nói với Môi-se, 49 “Ngươi hãy đi lên rặng Núi A-ba-rim nầy, đến Núi Nê-bô, trong xứ Mô-áp, đối ngang Giê-ri-cô, và hãy nhìn vào xứ Ca-na-an, nơi Ta sẽ ban cho dân I-sơ-ra-ên làm sản nghiệp. 50 Ngươi sẽ qua đời tại đó, tức trên núi ngươi sẽ đi lên, rồi ngươi sẽ được đem về với tổ tiên ngươi, như A-rôn anh ngươi đã qua đời trên Núi Hô-rơ và đã được đem về với tổ tiên của ông ấy vậy, 51 bởi vì ở giữa dân I-sơ-ra-ên, các ngươi đã không tin Ta trong vụ nước ở Mê-ri-ba Ca-đe trong Ðồng Hoang Xin, và bởi vì hai ngươi đã không tôn thánh Ta giữa dân I-sơ-ra-ên. 52 Vậy ngươi có thể trông thấy xứ ấy từ xa, nhưng ngươi sẽ không vào xứ ấy, tức xứ Ta ban cho dân I-sơ-ra-ên.”

Những Lời Chúc Phước Cuối Cùng của Môi-se

33 Ðây là những lời chúc phước mà Môi-se, người của Ðức Chúa Trời, đã chúc phước cho dân I-sơ-ra-ên trước khi ông qua đời. Ông nói,

Chúa đã từ trên Núi Si-nai ngự xuống,
Ngài như ánh bình minh từ dãy Núi Sê-i-rơ chiếu sáng trên họ,
Từ trên Núi Pa-ran Ngài đã tỏa rạng ra;
Ði theo Ngài có hàng vạn đấng thánh;
Lửa từ tay phải Ngài khắc luật vào bảng đá.[j]
Quả thật Ngài yêu thương dân Ngài;
Tất cả đấng thánh của Ngài đều ở trong tay Ngài;
Họ phủ phục nơi chân Ngài chờ lệnh,
Họ chờ lệnh Ngài sai phái họ đi.
Môi-se truyền cho chúng ta luật pháp,
Ðó là gia sản cho hội chúng của dòng dõi Gia-cốp.
Ngài là vua ở giữa Giê-su-run,[k]
Khi các nhà lãnh đạo của dân họp lại,
Tức khi các chi tộc của I-sơ-ra-ên hiệp lại với nhau.
Nguyện Ru-bên vẫn sống mãi và không bị mất đi,
Dầu dân số của ông ít ỏi.”

Ðây là những gì ông chúc cho Giu-đa,

“Lạy Chúa, xin nghe tiếng của Giu-đa cầu khẩn,
Xin đem ông về với dân của ông ta;
Xin phù hộ để tay ông bảo vệ chính mình;
Xin Ngài giúp đỡ ông đối phó với quân thù của ông ấy.”

Về Lê-vi ông chúc,

“Xin ban Thum-mim và U-rim của Ngài cho người trung thành với Ngài,
Người Ngài đã thử tại Mát-sa,
Người Ngài đã đối phó trong vụ nước ở Mê-ri-ba,
Người đã nói về cha và mẹ của mình rằng, ‘Con thấy họ không cần đến con hơn Ngài,’
Người đã quên cả thân nhân,
Người đã vì Ngài mà không biết đến con cái;
Vì họ mãi lo vâng theo lời Ngài,
Và gìn giữ giao ước Ngài.
10 Họ dạy cho Gia-cốp luật lệ Ngài,
Và cho I-sơ-ra-ên luật pháp Ngài;
Họ lo việc dâng hương trước thánh nhan Ngài;
Họ thi hành chức vụ dâng các của lễ thiêu trên bàn thờ Ngài.
11 Lạy Chúa, xin ban phước cho những gì thuộc về ông ấy,
Xin chấp nhận những việc do tay ông ấy làm;
Xin bẻ gãy lưng quân thù của ông ấy,
Tức lưng của những kẻ ghét ông ấy,
Hầu chúng không đứng dậy được nữa.”

12 Về Bên-gia-min ông nói,

“Người được Chúa thương sẽ ở an toàn trong Ngài;
Ngài che chở ông ấy suốt ngày;
Ông ấy sẽ ở giữa hai vai Ngài.”[l]

13 Về Giô-sép ông chúc,

“Ðịa phận của ông ấy được Chúa ban phước,
Bằng những ơn phước quý báu từ trời là sương móc,
Bằng những ơn phước dồi dào nằm sâu trong lòng đất là sông suối,
14 Bằng những hoa quả tốt tươi do ánh nắng mặt trời mang lại,
Bằng những cây trái sai quằn lớn lên trong những đêm trăng,
15 Bằng những lâm sản quý báu do rừng già mang lại,
Bằng những sản vật dồi dào của đồi nổng thiên thu,
16 Bằng những thổ sản tốt nhất của đất đai màu mỡ,
Và bằng hồng ân của Ðấng ngự giữa bụi gai.
Nguyện những phước hạnh ấy đổ trên đầu Giô-sép,
Và trên đỉnh đầu của người được biệt riêng ra giữa các anh chị em[m] mình.
17 Quyền uy của ông mạnh như con bò mộng đầu lòng,
Các sừng của ông mạnh như sức mạnh của sừng trâu;
Ông dùng các sừng đó húc các dân các nước,
Ðuổi chúng chạy xa đến cùng tận địa cầu;
Ðó là sức mạnh của hàng vạn người Ép-ra-im,
Ðó là sức mạnh của hàng ngàn người Ma-na-se.”

18 Về Xê-bu-lun ông chúc,

“Hỡi Xê-bu-lun,
Hãy vui mừng, mỗi khi ông xuống thuyền đi viễn phương buôn bán.
Hỡi I-sa-ca,
Nguyện ông được thành công trong các lều trại của ông.
19 Họ mời gọi các dân lên núi,
Tại đó họ dâng những của lễ theo đúng luật truyền.[n]
Họ đã hút lấy những tài nguyên của biển cả,
Và những bửu vật ẩn giấu dưới cát vàng.”

20 Về Gát ông chúc,

“Chúc tụng Ðấng làm cho Gát được mở rộng bờ cõi!
Gát sống kiêu hùng như sư tử giữa rừng,
Nó xé tay và đầu cổ con mồi.
21 Ông chọn phần tốt nhất cho mình,
Vì trong lãnh thổ của ông có phần sản nghiệp dành cho người lãnh đạo;
Ông đến với các thủ lãnh của dân;
Ông thi hành công lý của Chúa,
Và các luật lệ của Ngài cho I-sơ-ra-ên.”

22 Về Ðan ông chúc,

“Ðan là một sư tử tơ,
Từ Ba-san phóng đến.”

23 Về Náp-ta-li ông chúc,

“Hỡi Náp-ta-li, người được no nê hồng ân,
Ðầy tràn những phước hạnh của Chúa,
Hãy chiếm lấy miền tây và miền nam.”

24 Về A-se ông chúc,

“A-se là đứa con được phước nhất trong các con;
Nguyện ông ấy được xem là người được các anh chị em[o] mình ưa thích,
Và nguyện dầu ô-liu do ông sản xuất nhiều đến nỗi ông có thể dùng chúng để dầm chân.
25 Nguyện ông được an ninh bên trong những thành có cổng gài bằng thanh sắt và thanh đồng;
Nguyện sức khỏe của ông bền bỉ theo tuổi thọ của ông.
26 Hỡi Giê-su-run,[p] chẳng có ai giống như Ðức Chúa Trời,
Ðấng cỡi trên các tầng trời đến giúp đỡ ông;
Sự huy hoàng của Ngài thể hiện trên các tầng mây.
27 Ðức Chúa Trời đời đời là Ðấng ông nương náu;
Hai tay hằng hữu của Ngài luôn ở bên dưới để đỡ nâng ông.
Ngài đánh đuổi quân thù của ông đi khỏi mặt ông,
Và phán, ‘Hãy tiêu diệt!’
28 Nhờ đó I-sơ-ra-ên được sống an toàn,
Con cháu[q] của Gia-cốp được an ninh,
Trong một xứ đầy lúa gạo và rượu ngon,
Từ trời cao sương móc vẫn tiếp tục rơi xuống.

29 Hỡi I-sơ-ra-ên, phước thay cho ông!
Nào ai được như ông,
Một dân tộc được Chúa cứu.
Ngài là thuẫn khiên để giúp đỡ ông,
Và là thanh gươm để ban cho ông chiến thắng.
Quân thù của ông sẽ đến phủ phục trước mặt ông;
Còn ông, ông sẽ giày đạp trên những nơi cao của chúng.”

Môi-se Qua Ðời và Ðược Chôn ở Mô-áp

34 Bấy giờ Môi-se từ đồng bằng Mô-áp đi lên Núi Nê-bô, rồi lên đỉnh Núi Pít-ga, đối ngang Giê-ri-cô. Chúa cho ông nhìn thấy cả xứ, từ Ghi-lê-át đến Ðan, toàn vùng Náp-ta-li, lãnh thổ của Ép-ra-im và Ma-na-se, toàn lãnh thổ của Giu-đa cho đến tận Biển Tây, miền Nam và miền đồng bằng, tức vùng Thung Lũng Giê-ri-cô, thành của những cây chà là, chạy dài đến Xô-a.

Chúa phán với ông, “Ðây là xứ Ta đã thề với Áp-ra-ham, I-sác, và Gia-cốp rằng, ‘Ta sẽ ban nó cho dòng dõi các ngươi.’ Bây giờ Ta cho ngươi nhìn thấy nó tận mắt, nhưng ngươi sẽ không đi qua đó.”

Môi-se tôi tớ của Chúa qua đời tại đó, trong xứ Mô-áp, theo lời Chúa đã phán. Ngài chôn ông trong một thung lũng trong xứ Mô-áp, đối ngang Bết Pê-ô, nhưng cho đến ngày nay không ai biết mộ ông ở đâu.

Môi-se được một trăm hai mươi tuổi khi ông qua đời; mắt ông không mờ, khí lực ông không giảm. Dân I-sơ-ra-ên thương khóc ông trong đồng bằng Mô-áp ba mươi ngày; sau đó thời kỳ thọ tang than khóc ông chấm dứt.

Giô-suê con trai của Nun được đầy dẫy thần trí khôn ngoan, vì Môi-se đã đặt tay trên ông ấy. Dân I-sơ-ra-ên vâng lời ông ấy và làm theo mọi điều Chúa đã truyền cho Môi-se.

10 Từ xưa đến nay chưa bao giờ có một vị tiên tri nào dấy lên trong I-sơ-ra-ên như Môi-se, người Chúa biết mặt tận mặt. 11 Không ai có thể sánh được với ông về mọi dấu kỳ và phép lạ mà Chúa đã sai ông thực hiện tại đất Ai-cập để đối phó với Pha-ra-ôn, toàn thể quần thần của vua ấy, và cả nước của vua ấy, 12 cùng mọi việc quyền năng và mọi quyền phép lớn lao khủng khiếp mà Môi-se đã biểu dương trước mắt toàn dân I-sơ-ra-ên.

Footnotes

  1. Phục Truyền Luật Lệ 32:8 Bản LXX và Qumran manuscripts ghi: Dựa theo con số các thần của họ.
  2. Phục Truyền Luật Lệ 32:13 nt: Ngài đặt ông cỡi trên những nơi cao trong xứ
  3. Phục Truyền Luật Lệ 32:14 nt: Ngươi (anh chị em)
  4. Phục Truyền Luật Lệ 32:15 Tức I-sơ-ra-ên hay Gia-cốp
  5. Phục Truyền Luật Lệ 32:33 nt: tan nin (Hebrew); ctd: thủy long, thủy xà
  6. Phục Truyền Luật Lệ 32:39 ctd: Vậy, bây giờ, khá biết rằng, chỉ Ta là Ðức Chúa Trời duy nhất; không có thần nào khác ngoài Ta.
  7. Phục Truyền Luật Lệ 32:43 Vế sau của câu nầy bị mất trong bản Hebrew (MT). Có bản dịch theo Qumran manuscripts và LXX rằng: Hỡi thiên đàng và hỡi dân Ngài, hãy dâng lời ca ngợi; Hãy thờ phượng Ngài, hỡi các thần!
  8. Phục Truyền Luật Lệ 32:43 Bổ túc, dựa theo tài liệu của Qumran manuscripts và LXX. Vế nầy bị mất trong bản Hebrew (MT)
  9. Phục Truyền Luật Lệ 32:43 ctd: Ngài sẽ bày tỏ lòng thương xót, hoặc Ngài sẽ cung cấp phương tiện chuộc tội ..
  10. Phục Truyền Luật Lệ 33:2 Vế cuối của câu nầy trong nguyên tác không rõ nghĩa.
  11. Phục Truyền Luật Lệ 33:5 Một tên khác của I-sơ-ra-ên (trong thi văn)
  12. Phục Truyền Luật Lệ 33:12 ctd: Ngài ngự giữa hai vai (núi đồi) của người ấy
  13. Phục Truyền Luật Lệ 33:16 nt: anh em (đừng quên Ði-na, Sáng 30:21)
  14. Phục Truyền Luật Lệ 33:19 nt: của lễ của sự công chính
  15. Phục Truyền Luật Lệ 33:24 nt: anh em
  16. Phục Truyền Luật Lệ 33:26 Một tên khác của I-sơ-ra-ên (trong thi văn)
  17. Phục Truyền Luật Lệ 33:28 nt: suối của Gia-cốp (ám chỉ con cháu của Gia-cốp)