Add parallel Print Page Options

Phao-lô đáp tàu sang La-mã

27 Họ quyết định gởi chúng tôi sang Ý nên chỉ định một sĩ quan tên Giu-li-út, phục vụ trong quân lực hoàng đế, canh giữ Phao-lô và các tù nhân khác. Chúng tôi xuống một chiếc tàu, khởi hành từ thành A-ra-mi và sắp đi các hải cảng vùng Tiểu Á. A-ri-tạc, quê ở Tê-sa-lô-ni-ca thuộc miền Ma-xê-đoan cùng đi với chúng tôi. Hôm sau chúng tôi đến Xi-đôn. Giu-li-út rất tử tế với Phao-lô, cho phép ông đi thăm bạn hữu để họ lo những thứ cần dùng. Chúng tôi rời Xi-đôn và chạy gần đảo Chíp vì gặp gió ngược. Chúng tôi băng qua biển gần Xi-xi-li và Băm-phi-li, rồi cập bến Mi-ra thuộc Lý-sa. Ở đó, viên sĩ quan thấy có chiếc tàu từ thành A-lịch-sơn đến và sắp khởi hành sang Ý, nên ông cho chúng tôi qua tàu ấy.

Trong nhiều ngày tàu đi rất chậm. Phải khó khăn lắm chúng tôi mới đến được Ni-đu, nhưng rồi không đi được nữa vì gặp gió ngược, nên chúng tôi đi ven theo hướng Nam của đảo Cơ-rết gần Xanh-môn. Thật rất vất vả mới qua khỏi đảo ấy rồi chúng tôi đến một nơi gọi là Mỹ-cảng, gần thành La-xa.

Chúng tôi thiệt mất nhiều thì giờ mà nếu giương buồm ra đi cũng nguy hiểm, hơn nữa đã gần ngày cữ ăn của người Do-thái nên Phao-lô cảnh cáo, 10 “Thưa các bạn, tôi thấy chuyến đi nầy rất nguy hiểm. Chúng ta có thể mất mạng cùng với chiếc tàu nầy và hàng hóa.” 11 Nhưng viên thuyền trưởng và người chủ tàu không nghe Phao-lô, còn viên sĩ quan thì tin lời họ hơn lời Phao-lô. 12 Vì hải cảng ấy không tiện để trú lúc mùa đông nên đa số người đồng ý tiếp tục đi. Họ hi vọng chạy đến cảng Phượng Hoàng rồi trú qua mùa đông tại đó. Phượng Hoàng là một thành phố nằm trên đảo Cơ-rết, có một hải cảng hướng về phía Tây Nam và Tây Bắc.

Gặp bão

13 Khi thấy gió xuôi thổi từ phía Nam tới, các thủy thủ trên tàu tưởng rằng, “Đây là gió thuận, chúng ta nên ra đi,” vì thế họ nhổ neo, cho thuyền chạy dọc theo đảo Cơ-rết. 14 Nhưng bỗng có một luồng gió mạnh gọi là “gió Đông Bắc” từ đảo thổi xuống. 15 Tàu bị kẹt trong luồng gió ngược ấy, không chạy tới được nên chúng tôi để mặc gió đưa tàu đi đâu thì đi. 16 Gió thổi tàu chúng tôi trôi dạt đến phía dưới một đảo nhỏ tên Cầu Đá. Họ hết sức vất vả lắm mới kéo được chiếc thuyền cấp cứu lên tàu. 17 Sau khi kéo lên được rồi, họ cột dây thừng chung quanh tàu để tàu khỏi vỡ tung. Họ sợ tàu tấp phải bãi phù sa vùng Xia-tít, nên họ hạ buồm xuống để gió đưa tàu đi. 18 Hôm sau cơn bão lại càng dữ dội hơn, đến nỗi họ phải ném bớt hàng hóa xuống biển [a]. 19 Qua bữa sau nữa họ đích thân ném các máy móc trên tàu xuống biển. 20 Trong nhiều ngày chúng tôi chẳng thấy mặt trời hay trăng sao gì cả mà cơn bão càng ngày càng mạnh, chúng tôi hết hi vọng được cứu sống.

21 Vì ai cũng nhịn đói đã lâu nên Phao-lô đứng lên khuyên, “Các bạn à, nếu các bạn nghe tôi đừng rời đảo Cơ-rết thì chắc hẳn đã tránh được cảnh trạng nguy khốn và thiệt hại nầy. 22 Nhưng bây giờ tôi khuyên các bạn hãy vững lòng vì không ai trong chúng ta sẽ mất mạng đâu. Chỉ mất tàu thôi. 23 Đêm qua, một thiên sứ của Thượng Đế mà tôi phục vụ và thờ phụng đến với tôi. 24 Thiên sứ bảo rằng, ‘Phao-lô ơi, đừng sợ. Ngươi sẽ phải đứng trước mặt Xê-xa. Thượng Đế hứa rằng Ngài sẽ cứu mạng mọi người cùng đi với ngươi.’ 25 Cho nên, hãy can đảm lên các bạn. Tôi tin nơi Thượng Đế rằng mọi việc sẽ xảy ra đúng theo lời thiên sứ bảo tôi. 26 Nhưng chúng ta sẽ bị mắc cạn ở một đảo nào đó.”

27 Đến đêm thứ mười bốn mà chúng tôi vẫn còn lênh đênh trên biển A-ria-tích. Khoảng nửa đêm, các thủy thủ tưởng đã gần đến đất, 28 nên họ thả trái dò xuống nước, thấy sâu một trăm hai mươi bộ. Chạy được một khoảng nữa, họ lại thả trái dò xuống thì thấy sâu chín mươi bộ. 29 Sợ tàu đụng phải đá ngầm nên các thủy thủ quăng bốn cái neo xuống biển rồi chờ đến sáng. 30 Một số thủy thủ định bỏ tàu trốn đi nên hạ thuyền cấp cứu xuống, giả vờ như đang quăng neo phía trước mũi thuyền. 31 Nhưng Phao-lô bảo viên sĩ quan và các binh sĩ khác rằng, “Nếu mấy người ấy không ở lại trong tàu thì các anh không giữ mạng sống được đâu.” 32 Vì thế quân lính cắt đứt dây thừng cho thuyền cấp cứu rơi tòm xuống biển.

33 Gần đến rạng đông, Phao-lô khuyên mọi người nên ăn đôi chút. Ông bảo, “Mười bốn ngày qua anh em đã chờ đợi, trông ngóng mà không ăn uống gì. 34 Tôi khuyên anh em nên ăn chút ít đi để lấy lại sức. Dù một sợi tóc trên đầu của anh em cũng sẽ không mất đâu.” 35 Nói xong, Phao-lô cầm bánh mì tạ ơn Thượng Đế trước mặt mọi người. Rồi ông bẻ bánh ăn. 36 Mọi người cảm thấy phấn khởi cũng bắt đầu ăn. 37 Trên tàu có tất cả hai trăm bảy mươi sáu người. 38 Sau khi đã ăn uống xong, họ bắt đầu quăng lúa gạo xuống biển để nhẹ tàu.

Tàu bị tan vỡ

39 Khi mặt trời lên, các thủy thủ nhìn thấy đất. Tuy không biết đó là vùng đất nào nhưng họ thấy có cái vịnh, với bãi biển nên muốn hướng cho tàu chạy thẳng vào bãi, nếu được. 40 Vì thế, họ cắt dây thừng buộc neo cho neo rơi xuống biển đồng thời họ tháo dây thừng buộc bánh lái tàu. Rồi họ giương cánh buồm trước, hướng vào gió để chạy thẳng vào bờ. 41 Nhưng tàu đụng phải bãi cát. Mũi tàu bị kẹt cứng không động đậy được còn đuôi tàu thì bị sóng lớn đánh nên vỡ tan.

42 Quân lính định giết tù vì sợ họ nhảy xuống biển bơi vào bờ trốn thoát. 43 Nhưng Giu-li-út muốn cứu Phao-lô nên gạt bỏ ý định ấy. Trái lại, ông ra lệnh cho ai biết bơi thì nhảy xuống nước bơi vào bờ trước. 44 Những người còn lại theo sau bằng cách ôm các tấm ván hay mảnh gỗ của tàu. Nhờ thế mà mọi người đều bơi vào bờ an toàn.

Phao-lô trên đảo Man-tơ

28 Khi chúng tôi lên bờ an toàn rồi, thì được biết đảo ấy tên Man-tơ. Cư dân trên đảo rất tử tế với chúng tôi. Vì trời lạnh và đang mưa nên họ đốt một đống lửa đón tiếp chúng tôi. Phao-lô ôm một bó củi và đặt trên đống lửa thì tình cờ có một con rắn độc bị nóng bò ra quấn lấy tay ông. Dân cư trên đảo thấy con rắn treo lủng lẳng trên tay Phao-lô nên bảo nhau, “Người nầy chắc là tay giết người! Cho nên dù thoát chết trên biển cả nhưng thần Công Lý [b] vẫn không cho sống.” Nhưng Phao-lô rảy con rắn vào lửa, không sao cả. Dân chúng trên đảo đoán chắc Phao-lô sẽ bị sưng vù lên hoặc ngã xuống chết ngay lập tức. Họ chờ mãi không thấy ông bị việc gì nên đổi ý nói rằng, “Ông nầy đúng là thần!”

Quanh đó có mấy thửa ruộng của Búp-liêu, một người có uy tín trên đảo. Ông mời chúng tôi vào nhà và thết đãi trong ba ngày. Cha của Búp-liêu đang bị sốt rét và kiết lỵ [c]. Phao-lô đến thăm, cầu nguyện, đặt tay lên ông và chữa lành cho. Sau đó, tất cả những người đau yếu nào trên đảo cũng đến với Phao-lô và đều được chữa lành cả. 10-11 Dân chúng tiếp chúng tôi rất niềm nở. Ba tháng sau, khi chúng tôi sắp rời đảo thì họ cung cấp đủ mọi thứ cần dùng cho chúng tôi.

Phao-lô đi La-mã

Chúng tôi lên một chiếc tàu khởi hành từ A-lịch-sơn nhưng trú trên đảo suốt mùa đông. Trước mũi tàu có vẽ hình thần sinh đôi. [d] 12 Chúng tôi dừng lại bến Xi-ra-qui ba ngày. 13 Từ đó chúng tôi giương buồm đi Rê-gum. Hôm sau gió Nam bắt đầu thổi thì ngày sau chúng tôi đến Bu-teo-li. 14 Chúng tôi tìm được một số tín hữu ở đó, họ mời chúng tôi ở lại chơi một tuần. Sau cùng chúng tôi đến La-mã. 15 Các tín hữu địa phương nghe tin chúng tôi đến, nên từ những nơi xa như Chợ A-bi-út [e] và Ba Lữ Quán [f] kéo đến thăm. Gặp gỡ họ, Phao-lô cảm thấy phấn khởi và cảm tạ Thượng Đế.

Phao-lô ở La-mã

16 Đến La-mã, Phao-lô được phép ở riêng, chỉ có một người lính canh giữ mà thôi.

17 Ba ngày sau, ông cho mời các lãnh tụ người Do-thái ở đó đến. Khi họ họp lại, Phao-lô trình bày, “Thưa anh em, tôi chưa hề làm điều gì chống lại dân ta hay phong tục của tổ tiên chúng ta. Nhưng tôi bị bắt ở Giê-ru-sa-lem, rồi bị giải sang cho người La-mã. 18 Sau khi hạch hỏi nhiều điều mà vẫn không tìm thấy lý do nào để xử tử, họ định thả tôi, 19 nhưng người Do-thái ở đó chống đối. Cho nên tôi phải đến La-mã để Xê-xa phân xử chứ không phải để tố cáo dân ta đâu. 20 Vì thế mà tôi muốn gặp các anh em để nói chuyện. Tôi mang xiềng xích nầy là vì tôi tin vào niềm hi vọng của dân Ít-ra-en.”

21 Họ đáp, “Chúng tôi chưa nhận được thư từ gì từ Giu-đia nói về vụ của anh. Không ai trong vòng các anh em Do-thái mới đến đây đem tin hoặc nói điều gì không hay về anh. 22 Nhưng chúng tôi muốn nghe ý kiến anh, vì biết rằng mọi người khắp nơi đều chống lại đạo nầy.”

23 Phao-lô và những người Do-thái đồng ý chọn một ngày họp lại. Vào hôm ấy có rất đông người Do-thái đến chỗ ông trọ. Ông dành suốt ngày nói chuyện với họ. Dùng luật pháp Mô-se và các lời tiên tri, ông giải thích về Nước Trời và tìm cách thuyết phục họ tin những lời viết về Chúa Giê-xu. 24 Có người tin lời Phao-lô, có kẻ chẳng chịu tin. 25 Cho nên họ bất đồng ý với nhau và bắt đầu tản mác ra về sau khi Phao-lô nói với họ một điều nữa: “Thánh Linh nói rất đúng về tổ tiên các anh qua nhà tiên tri Ê-sai,

26 ‘Hãy đi bảo cùng dân nầy rằng:
Các ngươi nghe thì nghe,
    nhưng không hiểu gì.
Nhìn thì nhìn
    mà chẳng học được gì.
27 Vì dân nầy đã trở nên ương ngạnh.
Có tai mà không nghe,
    họ nhắm mắt lại.
Nếu không, họ hiểu được
    mắt họ thấy được,
    tai họ nghe được.
Trí họ thật hiểu
    rồi họ sẽ trở về cùng ta
    để được chữa lành.’ (A)

28 Anh em nên biết rằng Thượng Đế đã đem sự cứu rỗi nầy đến cho các dân không phải Do-thái và họ bằng lòng tiếp nhận!” 29 [g]

30 Phao-lô ở suốt hai năm tại một nhà thuê, tiếp đón những người đến thăm. 31 Ông mạnh dạn rao giảng Nước Trời và dạy dỗ về Chúa Giê-xu, không bị ai ngăn trở cả.

Footnotes

  1. Công Vụ Các Sứ đồ 27:18 ném bớt hàng hóa xuống biển Để làm cho tàu nhẹ bớt, khó chìm.
  2. Công Vụ Các Sứ đồ 28:4 thần Công Lý Người ta tin rằng có một nữ thần tên Công Lý thường trừng phạt những người ác.
  3. Công Vụ Các Sứ đồ 28:8 kiết lỵ Một bệnh tương tự như tiêu chảy.
  4. Công Vụ Các Sứ đồ 28:10 thần sinh đôi Các tượng thần Các-to và Bô-lút, hai vị thần trong thần thoại xưa của Hi-lạp.
  5. Công Vụ Các Sứ đồ 28:15 Chợ A-bi-út Một thị trấn cách La-mã khoảng 43 dặm (69 cây số).
  6. Công Vụ Các Sứ đồ 28:15 Ba Lữ Quán Một thị trấn cách La-mã khoảng 30 dặm (48 cây số).
  7. Công Vụ Các Sứ đồ 28:29 Vài bản Hi-lạp về sau thêm câu 29: “Sau khi Phao-lô nói như thế, người Do-thái ra về, cãi nhau dữ dội.”

Phao-lô Ðược Giải Ðến Rô-ma

27 Khi có quyết định cho chúng tôi đi tàu qua I-ta-ly, họ trao Phao-lô và một số tù nhân khác cho một đại đội trưởng tên là Giu-li-u thuộc quân đoàn Âu-gút-tơ.[a]

Chúng tôi xuống một chiếc tàu xuất hành từ Hải Cảng A-ra-my-ti-um; tàu ấy tính nhổ neo chạy ghé các hải cảng dọc vùng A-si-a. Chúng tôi giăng buồm ra khơi. Ðồng hành với chúng tôi có A-ri-tạc là người Ma-xê-đô-ni-a ở Thành Thê-sa-lô-ni-ca. Hôm sau chúng tôi ghé vào Hải Cảng Si-đôn. Giu-li-u đối xử tử tế với Phao-lô; ông cho phép Phao-lô đi thăm các bạn bè và để họ chăm sóc ông. Từ đó chúng tôi ra khơi và đi vòng lên phía bắc Ðảo Chíp-rơ bởi vì gặp gió ngược. Sau khi chúng tôi vượt qua hải phận của Si-li-si-a và Pam-phy-li-a, chúng tôi đến Hải Cảng My-ra, thuộc miền Ly-si-a. Ở đó ông đại đội trưởng tìm được một chiếc tàu từ A-léc-xan-ria sắp nhổ neo đi I-ta-ly, nên ông cho chúng tôi chuyển sang tàu đó.

Tàu đi rất chậm; mất rất nhiều ngày và phải vất vả lắm chúng tôi mới đến được gần Cơ-ni-đu. Vì gặp gió ngược nên tàu phải chạy vòng xuống phía nam Ðảo Cơ-rết, đối ngang Sanh-môn. Tàu cứ chạy dọc theo bờ biển và phải vất vả lắm mới vào được một nơi gọi là Mỹ Cảng,[b] gần Thành La-sê.

Gặp Bão Giữa Biển

Chúng tôi phải ở đó khá lâu. Bấy giờ kỳ kiêng ăn đã qua rồi, và chuyến hải hành càng trở nên nguy hiểm hơn. Phao-lô khuyên họ; 10 ông nói với họ, “Thưa các ông, tôi nhận thấy chuyến hải hành này từ đây trở đi thật nguy hiểm. Chúng ta có thể bị thiệt hại lớn, không những có thể sẽ mất cả hàng hóa lẫn chiếc tàu, mà còn nguy cả đến tính mạng chúng ta nữa.”

11 Nhưng ông đại đội trưởng tin lời của viên tài công và người chủ tàu hơn lời của Phao-lô. 12 Vì hải cảng đó không thích hợp cho tàu đậu trong mùa đông, nên đa số tán đồng việc nhổ neo ra đi, với hy vọng có thể đến được Phê-nít để tạm trú qua mùa đông; đó là một hải cảng trên Ðảo Cơ-rết, hướng về phía tây nam và tây bắc. 13 Thấy gió nam thổi nhẹ, họ tưởng có thể thực hiện được dự tính, nên họ nhổ neo cho tàu chạy dọc theo bờ Ðảo Cơ-rết. 14 Nhưng chẳng bao lâu, một trận cuồng phong có tên là “Gió Ðông Bắc” từ trên đảo quật xuống. 15 Thế là chiếc tàu bị bão cuốn đi. Vì không thể cho tàu chạy ngược với gió bão để trở vào bờ, chúng tôi đành để cho tàu cứ trôi theo chiều gió. 16 Khi tàu trôi về phía nam của một đảo nhỏ tên là Cau-đa, chúng tôi phải khó khăn lắm mới giữ lại được chiếc xuồng cấp cứu. 17 Sau khi kéo được chiếc xuồng ấy lên, họ tìm cách giữ cho tàu khỏi vỡ, nên đã lấy dây thừng buộc vòng dưới đáy tàu lại. Sau đó họ sợ chiếc tàu bị mắc cạn ngoài khơi Ðảo Sy-ti, nên họ thả neo xuống và cứ để tàu trôi theo chiều gió. 18 Ngày hôm sau tàu chúng tôi liên tục bị bão dồi dập dữ dội, nên họ quăng các hàng hóa xuống biển cho nhẹ tàu. 19 Ðến ngày thứ ba họ tự tay quăng các đồ thiết bị trên tàu xuống biển. 20 Trải qua nhiều ngày chúng tôi không thấy mặt trời hay một vì sao nào, trong khi đó gió bão vẫn thổi mạnh và không chịu dứt. Cuối cùng chúng tôi đành chấp nhận hết hy vọng được cứu thoát.

21 Mọi người trên tàu chẳng màng ăn uống gì đã khá lâu, nên Phao-lô đứng giữa họ và nói, “Thưa các ông, nếu các ông nghe lời tôi mà không rời khỏi Cơ-rết thì chúng ta đã tránh được những thiệt hại và mất mát này rồi. 22 Nhưng bây giờ tôi khuyên các ông hãy can đảm lên, không ai trong các ông sẽ thiệt mạng, chỉ phải mất chiếc tàu này thôi. 23 Vì đêm qua một thiên sứ của Ðức Chúa Trời, Ðấng tôi thuộc về và phục vụ, đã đứng bên tôi 24 và bảo rằng, ‘Hỡi Phao-lô, đừng sợ. Ngươi cần phải ứng hầu trước tòa án của Sê-sa, và này, Ðức Chúa Trời sẽ cho tất cả những người cùng đi trong chuyến hải hành với ngươi được sống.’ 25 Vậy xin các ông hãy can đảm lên, vì tôi tin rằng Ðức Chúa Trời sẽ làm y như lời Ngài đã phán; 26 chỉ có điều là chúng ta sẽ bị mắc cạn ở một hòn đảo nào đó.”

27 Ðến đêm thứ mười bốn mà tàu chúng tôi vẫn còn trôi dạt trên Biển Át-ria. Khoảng nửa đêm các thủy thủ tưởng rằng tàu đã gần tới đất liền, 28 nên họ thả trái dò xuống và thấy sâu hai mươi sải. Ðể cho tàu trôi một quãng nữa, họ lại thả trái dò xuống và thấy chỉ còn mười lăm sải. 29 Sợ tàu sẽ đụng phải đá ngầm, nên họ thả bốn chiếc neo ở mũi tàu xuống, rồi cầu mong cho mau tới sáng.

30 Lúc ấy các thủy thủ tính bỏ tàu và trốn đi, nên họ thả chiếc xuồng cấp cứu xuống và lấy cớ là đi thả neo ở đàng mũi tàu. 31 Phao-lô nói với ông đại đội trưởng và các binh sĩ, “Nếu những người ấy không ở lại trên tàu, quý ông sẽ không được cứu sống đâu.” 32 Các binh sĩ liền cắt đứt những dây buộc chiếc xuồng cấp cứu để nó rớt xuống biển.

33 Bấy giờ trong khi chờ đợi trời sáng, Phao-lô khuyên mọi người nên ăn chút thực phẩm; ông nói, “Hôm nay là ngày thứ mười bốn rồi mà quý vị cứ trông ngóng, nhịn ăn, và không ăn gì. 34 Vì thế tôi khuyên quý vị hãy ăn chút gì đi, vì quý vị rất cần có sức để được cứu thoát. Không ai trong quý vị sẽ mất một sợi tóc trên đầu đâu.”

35 Sau khi ông nói như thế, ông lấy bánh, tạ ơn Ðức Chúa Trời trước mặt mọi người, rồi bẻ bánh ra, và bắt đầu ăn. 36 Thấy vậy mọi người được lên tinh thần và bắt đầu ăn.

37 Chúng tôi có cả thảy hai trăm bảy mươi sáu người trên tàu. 38 Sau khi đã ăn no, họ ném những bao lúa mì xuống biển cho tàu nhẹ bớt.

Bị Ðắm Tàu

39 Ðến khi trời sáng họ không nhận ra được đó là vùng đất nào, nhưng họ thấy có cái vịnh và một bãi biển, vì thế họ muốn cho tàu vào bờ nếu họ có thể lái tàu vào được. 40 Vậy họ cắt bỏ các neo lại dưới biển, đồng thời tháo dây cột bánh lái ra, rồi căng buồm ở đằng mũi lên, và nương theo chiều gió để lái tàu chạy vào bờ. 41 Nhưng tàu chạy nhằm vào bãi cát ngầm do hai dòng nước xáp lại nhau tạo thành, nên bị mắc cạn tại đó. Mũi tàu đâm vào cát, không nhúc nhích gì được, còn đằng lái thì bị sóng mạnh đập nát hết. 42 Bấy giờ các binh sĩ canh tù bàn với nhau nên giết tất cả các tù nhân kẻo có ai lội đi và trốn thoát. 43 Nhưng ông đại đội trưởng muốn cứu Phao-lô nên ngăn cản họ thực hiện ý định đó. Ông ra lịnh cho những ai biết bơi cứ nhảy xuống nước trước và bơi vào bờ, 44 những người còn lại, một số đã bám vào các tấm ván hoặc những mảnh tàu vỡ và lội vào bờ sau. Thế là tất cả đều được lên bờ an toàn.

Trên Ðảo Man-ta

28 Sau khi đã lên bờ an toàn chúng tôi mới biết đảo đó tên là Man-ta. Dân cư trên đảo đối xử với chúng tôi thật tử tế hiếm có. Vì trời mưa và lạnh nên họ đốt một đống lửa lớn để hoan nghinh tất cả chúng tôi. Phao-lô lượm một bó củi và đem chất vào đống lửa, một con rắn độc bị nóng bò ra và quấn vào tay ông. Khi dân địa phương thấy con rắn độc đeo vào tay Phao-lô, họ nói với nhau, “Người này quả là kẻ sát nhân, nên dù đã thoát chết trên biển, công lý cũng không để cho sống.” Nhưng Phao-lô rảy con rắn độc vào lửa, và không hề hấn gì. Họ nghĩ rằng ông sẽ bị sưng phù lên hoặc sẽ ngã xuống chết tức khắc, nhưng họ đợi mãi mà không thấy có gì bất thường xảy đến cho ông, nên họ đổi ý và nghĩ ông là một vị thần.

Gần nơi ấy là lãnh địa của Púp-li-u vị chúa đảo. Ông ta tiếp đãi chúng tôi rất ân cần trong ba ngày. Lúc ấy cha của Púp-li-u bị nóng lạnh và kiết lỵ, nằm liệt trên giường. Phao-lô đến thăm ông, đặt tay cầu nguyện, và chữa lành cho ông. Thấy thế tất cả những ai trên đảo bị đau ốm đều kéo đến gặp Phao-lô, và họ đều được chữa lành. 10 Họ đã bày tỏ lòng quý trọng chúng tôi bằng nhiều cách; khi chúng tôi xuống tàu ra đi, họ đã cung cấp mọi nhu cầu cho chúng tôi.

Phao-lô Ðến Thủ Ðô Rô-ma

11 Sau ba tháng chúng tôi xuống một chiếc tàu đã đến đảo để tạm trú qua mùa đông; tàu ấy đến từ A-léc-xan-ria và có hình hai thần Anh Em Sinh Ðôi chạm ở đầu tàu. 12 Khi tàu ghé Hải Cảng Sy-ra-cút, chúng tôi ở lại đó ba ngày. 13 Từ đó chúng tôi chạy dọc bờ biển và đến Rê-ghi-um. Một ngày sau gió nồm nổi lên, nên ngày kế tiếp chúng tôi đã đến được Pu-tê-ô-li. 14 Tại đây chúng tôi tìm được anh chị em tín hữu. Họ mời chúng tôi ở lại với họ bảy ngày. Sau đó chúng tôi lên đường đến Rô-ma. 15 Khi anh chị em tín hữu ở Rô-ma nghe tin chúng tôi đến, một số người đã từ khu thương mại Áp-pi-u và vùng Ba Lữ Quán đến gặp chúng tôi. Khi Phao-lô thấy họ, ông cảm tạ Ðức Chúa Trời và cảm thấy vững lòng. 16 Khi chúng tôi vào đến Thủ Ðô Rô-ma, Phao-lô được phép ở riêng một mình với một người lính canh giữ.

Phao-lô Tiếp Kiều Bào Do-thái tại Rô-ma

17 Ba ngày sau Phao-lô mời các vị lãnh đạo cộng đồng Do-thái họp lại. Sau khi họ tụ họp đông đủ, ông nói, “Thưa anh chị em, dù tôi không làm gì chống lại dân tộc chúng ta hay truyền thống của tổ tiên chúng ta, tôi đã bị bắt tại Giê-ru-sa-lem và bị nộp vào tay người La-mã. 18 Khi họ xét xử tôi, họ muốn thả tôi ra, vì họ không tìm được lý cớ nào để kết tội tử hình tôi cả. 19 Nhưng vì người Do-thái đã phản đối việc đó, nên buộc lòng tôi phải kháng cáo lên hoàng đế, chứ tôi không có điều gì chống lại dân tộc mình. 20 Vì lý do đó tôi kính mời anh chị em đến đây để được gặp anh chị em và thưa chuyện với anh chị em việc này; ấy là vì hy vọng của I-sơ-ra-ên mà tôi phải mang xiềng xích này.”

21 Họ đáp, “Chúng tôi chẳng nhận được thư từ gì từ Giu-đê gởi đến, và cũng chẳng có anh em nào đến đây báo cáo hay nói xấu gì về ông. 22 Nhưng chúng tôi muốn nghe ý kiến của ông, bởi vì chúng tôi biết rằng ở nơi nào người ta cũng phản đối đạo giáo này.”

23 Sau đó họ hẹn ngày gặp lại ông. Ðến ngày hẹn họ kéo nhau đến nhà trọ của ông rất đông. Từ sáng đến tối ông giải thích cho họ và làm chứng cho họ về vương quốc Ðức Chúa Trời. Ông trích dẫn Luật Pháp của Môi-se và Các Tiên Tri để thuyết phục họ tin nhận Ðức Chúa Jesus.

24 Một số người chịu thuyết phục về những điều ông nói, nhưng một số khác không tin. 25 Họ bất đồng ý kiến với nhau; trước khi họ ra về, Phao-lô nói thêm những lời này, “Ðức Thánh Linh đã phán những lời này là đúng lắm, khi Ngài dùng đấng Tiên Tri Ê-sai nói với các tổ phụ của anh chị em rằng,

26 ‘Hãy đến với dân này và nói:
Các ngươi cứ nghe mãi nhưng chẳng hiểu chi,
Các ngươi cứ nhìn mãi nhưng chẳng thấy gì.
27 Vì lòng dân này đã trở nên chai lỳ,
Tai họ đã điếc,
Mắt họ đã nhắm;
Kẻo mắt họ thấy,
Tai họ nghe,
Và lòng họ hiểu,
Rồi họ trở lại,
Và Ta chữa lành cho họ chăng.’Ê-sai 6:9-10 LXX

28 Vậy xin anh chị em hãy biết rằng đạo cứu rỗi này đã được truyền ra cho các dân ngoại, và họ sẽ lắng nghe.”

29 Sau khi nghe ông nói những lời ấy, người Do-thái đi ra và bàn cãi với nhau rất sôi nổi.[c]

30 Phao-lô sống tại căn nhà trọ ông thuê trọn hai năm, và tiếp đón mọi người đến thăm ông. 31 Ông giảng cho họ về vương quốc Ðức Chúa Trời và dạy họ về Chúa, tức Ðức Chúa Jesus Christ, một cách tự do, không bị trở ngại gì.

Footnotes

  1. Công Vụ Các Sứ đồ 27:1 ctd: quân đoàn bảo vệ hoàng cung
  2. Công Vụ Các Sứ đồ 27:8 nt: Hải Cảng Ðẹp
  3. Công Vụ Các Sứ đồ 28:29 Nhiều bản cổ không có câu 29 này