Sáng Thế 11:27-25:19
Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version
Câu truyện về gia đình Thê-ra
27 Đây là gia phổ của Thê-ra. Thê-ra sinh Áp-ram, Na-ho, và Ha-ran. Ha-ran sinh ra Lót. 28 Ha-ran qua đời trong thành U-rơ thuộc miền Ba-by-lôn [a], nơi sinh trưởng, trong khi cha mình hãy còn sống. 29 Cả Áp-ram và Na-ho đều lập gia đình. Vợ Áp-ram tên Sa-rai, vợ Na-ho tên Minh-ca. Nàng là con gái Ha-ran, là người sinh ra Minh-ca và Ích-ca. 30 Sa-rai hiếm muộn không sinh con được.
31 Thê-ra mang Áp-ram, con mình, và Lót, cháu mình, con dâu Sa-rai tức vợ của Áp-ram, di cư ra khỏi thành U-rơ, xứ Ba-by-lôn. Họ dự định đi qua xứ Ca-na-an, nhưng đi đến thành Ha-ran thì định cư tại đó. 32 Thê-ra hưởng thọ 205 tuổi rồi qua đời tại Ha-ran.
Thượng Đế gọi Áp-ram
12 CHÚA bảo Áp-ram, “Hãy rời bỏ xứ sở,
thân nhân và gia đình cha con,
đi đến xứ ta sẽ chỉ cho.
2 Ta sẽ làm cho con trở thành một dân lớn
và sẽ ban phước cho con.
Ta sẽ khiến con nổi danh
và là nguồn phước cho nhiều người.
3 Ta sẽ ban phước cho kẻ chúc phước con
và nguyền rủa kẻ hại con.
Mọi dân tộc trên đất sẽ nhờ con
mà được phước.”
Áp-ram đi đến vùng Ca-na-an
4 Vậy Áp-ram rời Ha-ran theo như CHÚA đã dặn bảo, có Lót cùng đi. Lúc đó Áp-ram đã 75 tuổi. 5 Ông mang Sa-rai vợ mình, Lót cháu mình và mọi vật thuộc về mình cùng các đầy tớ ông đã có tại Ha-ran và lên đường ra đi, dự định đến đất Ca-na-an, sau cùng thì tới nơi. 6 Áp-ram đi qua suốt cả xứ đến tận cây sồi lớn Mô-rê thuộc Sê-chem. Lúc đó dân Ca-na-an đang cư ngụ trong xứ nầy.
7 CHÚA hiện ra [b] cùng Áp-ram và bảo, “Ta sẽ cấp đất nầy cho dòng dõi con.” Vì thế tại đó, Áp-ram xây một bàn thờ cho CHÚA, Đấng đã hiện ra cùng ông. 8 Rồi từ Sê-chem ông đi đến núi phía đông của Bê-tên và dựng trại tại đó. Bê-tên nằm về phía tây, còn A-hi [c] nằm về phía đông. Nơi ấy Áp-ram xây một bàn thờ nữa cho CHÚA và thờ phụng Ngài. 9 Rồi ông tiếp tục đi đến vùng Nê-ghép.
Áp-ram đi xuống Ai-cập
10 Lúc ấy trong xứ có cơn đói kém, nên Áp-ram đi xuống Ai-cập để sống, vì trong xứ không đủ lương thực. 11 Trước khi đến Ai-cập ông bảo Sa-rai vợ mình, “Anh biết em là người đàn bà đẹp. 12 Khi người Ai-cập thấy em họ sẽ bảo, ‘Cô nầy là vợ hắn.’ Họ sẽ giết anh và để em sống. 13 Nên em hãy bảo họ rằng em là em của anh, để họ biệt đãi anh, nhờ đó mạng sống anh được bảo toàn.”
14 Khi Áp-ram đến Ai-cập, người Ai-cập thấy Sa-rai rất đẹp. 15 Các quan chức Ai-cập thấy bà và trầm trồ với vua Ai-cập về nhan sắc Sa-rai. Họ đưa bà vào cung vua, 16 nhà vua đối xử rất tốt với Áp-ram, vì tưởng Áp-ram là anh Sa-rai. Vua cấp cho Áp-ram chiên, gia súc, lừa đực, lừa cái, tôi trai tớ gái và lạc đà rất nhiều.
17 Nhưng CHÚA giáng bệnh tật khủng khiếp trên vua và những gia nhân vì chuyện Sa-rai, vợ của Áp-ram. 18 Nên vua liền mời Áp-ram lại hỏi, “Anh làm gì cho ta vậy? Tại sao không nói thẳng với ta rằng Sa-rai là vợ anh? 19 Tại sao anh bảo, ‘Cô ta là em gái tôi’ để đến nỗi ta đã lấy nàng làm vợ? Bây giờ vợ anh đây. Nhận lại rồi đi đi!” 20 Rồi vua truyền cho thuộc cấp đưa Áp-ram ra khỏi Ai-cập. Vậy Áp-ram và vợ mình mang theo các tài sản đi ra khỏi xứ.
Áp-ram và Lót chia tay nhau
13 Áp-ram, vợ ông, và Lót rời Ai-cập mang theo các tài sản và đi về vùng Nê-ghép, miền nam Ca-na-an. 2 Áp-ram rất giàu, có vô số gia súc, bạc và vàng.
3 Sau đó ông rời vùng Nê-ghép trở về lại Bê-tên, nơi ông dựng trại trước kia, tức nơi nằm giữa Bê-tên và A-hi [d], 4 là chỗ ông đã xây một bàn thờ. Vậy ông thờ phụng CHÚA tại đó.
Áp-ram và Lót chia rẽ nhau
5 Trong thời gian cùng đi với Áp-ram, Lót cũng có rất nhiều bầy gia súc và lều trại. 6 Áp-ram và Lót có quá nhiều gia súc đến nỗi đất không đủ cho cả hai người cư ngụ, 7 vì thế mà những bọn chăn gia súc của Áp-ram và Lót bắt đầu gây sự với nhau. Trong khi đó dân Ca-na-an và dân Phê-ri-xít đang sống trong xứ.
8 Áp-ram bảo Lót, “Bác với cháu không nên gây sự với nhau làm gì, và bọn chăn gia súc chúng ta cũng không nên cãi nhau vì chúng ta là thân nhân ruột thịt. 9 Thôi chúng ta nên chia tay nhau. Cả xứ ở trước mặt cháu đó. Nếu cháu chọn phía Bắc, bác sẽ đi phía Nam. Nếu cháu chọn phía Nam, bác sẽ đi phía Bắc.”
10 Lót nhìn quanh thấy toàn vùng thung lũng sông Giô-đanh có nhiều nước, giống như vườn của CHÚA, như xứ Ai-cập về hướng Xoa. (Đó là trước khi CHÚA hủy diệt Xô-đôm và Gô-mô-rơ.) 11 Vì thế Lót chọn vùng phía Đông và định cư trong thung lũng sông Giô-đanh. Vậy là Áp-ram và Lót chia tay nhau. 12 Áp-ram sống trong xứ Ca-na-an, còn Lót sống trong các thành phố nằm trong thung lũng sông Giô-đanh, rồi dời lều đến Xô-đôm. 13 Dân Xô-đôm rất độc ác và phạm tội nặng cùng CHÚA.
14 Sau khi Lót ra đi rồi, CHÚA bảo Áp-ram, “Hãy nhìn quanh con từ bắc đến nam, từ đông sang tây. 15 Tất cả vùng đất mà con nhìn thấy, ta sẽ ban cho con và dòng dõi con đời đời. 16 Ta sẽ khiến cho dòng dõi con đông như cát bụi trên đất. Ai có thể đếm được cát bụi trên đất mới có thể đếm được con cháu con. 17 Hãy đứng dậy! Đi khắp vùng đất mà ta sẽ cấp cho con.”
18 Vậy Áp-ram dời trại và đi đến định cư gần các cây sồi lớn tại Mam-rê nơi thành Hếp-rôn. Ông xây một đền thờ cho CHÚA tại đó.
Lót bị giặc bắt
14 Lúc ấy Am-ra-phên làm vua vùng đất Ba-by-lôn [e], A-ri-ốc là vua Ê-la-sa, Kết-rô-lao-me là vua Ê-lam, còn Ti-đan là vua Gô-im. 2 Tất cả các vua nầy họp nhau lại đánh các vua: Bê-ra của Xô-đôm, Biếc-sa, vua Gô-mô-rơ, Si-náp vua Ách-ma, Sê-mê-be vua Giê-bô-im và vua của Bê-la. (Bê-la cũng có tên là Xoa.)
3 Các vua bị tấn công tập họp các đạo quân trong thung lũng Xi-đim (bây giờ là Biển Chết). 4 Trước đây họ thần phục Kết-rô-lao-me trong mười hai năm, nhưng đến năm thứ mười ba thì họ dấy loạn. 5 Đến năm thứ mười bốn, Kết-rô-lao-me, cùng các vua đồng minh, tiến đánh và thắng dân Rê-pha-ít trong vùng Ách-tê-rốt Ka-na-im, dân Giu-xít trong vùng Cham, và dân Ê-mít trong vùng Sa-vê Ki-ri-át-tha-im. 6 Họ cũng đánh thắng dân Hô-rít trong vùng đồi núi Sê-ia [f] đến tận Ên Pha-ran [g] gần sa mạc. 7 Xong họ trở về tiến đánh Ên-mích-phát tức Ca-đe. Họ đánh thắng dân A-ma-léc, dân A-mô-rít sống trong vùng Ha-xa-xôn Tha-ma.
8 Lúc đó các vua Xô-đôm, Gô-mô-rơ, Ách-ma, Giê-bô-im và Bê-la giàn trận trong thung lũng Xi-đim [h]. (Bê-la còn có tên là Xoa.) 9 Họ đánh nhau với Kết-rô-lao-me, vua Ê-lam; Ti-đan, vua Gô-im; Am-ra-phên, vua Ba-by-lôn [i]; và A-ri-ốc, vua Ê-la-xa; bốn vua chống năm vua.
10 Trong thung lũng Xi-đim có nhiều hố nhựa chai. Khi các vua Xô-đôm và Gô-mô-rơ cùng đạo quân họ bỏ chạy thì một số quân sĩ rơi vào trong các hố nhựa chai, nhưng số còn lại chạy trốn lên núi.
11 Bấy giờ vua Kết-rô-lao-me và đạo quân ông đoạt hết tài sản của dân Xô-đôm và Gô-mô-rơ, kể luôn thực phẩm của họ. 12 Họ cũng bắt Lót, cháu Áp-ram đang cư ngụ tại Xô-đôm, và đoạt hết tài sản ông ta rồi bỏ đi. 13 Một trong những người trốn thoát được đến báo với Áp-ram, người Do-Thái, thuật lại cho ông nghe mọi việc. Trong lúc đó Áp-ram đang dựng lều gần các cây sồi lớn của Mam-rê người A-mô-rít. Mam-rê là anh của Ết-côn và A-ne. Họ đồng ý họp nhau giúp Áp-ram.
Áp-ram giải cứu Lót
14 Khi Áp-ram nghe tin Lót đã bị giặc bắt, ông liền tập họp 318 gia nhân đã được huấn luyện thuần thục, sinh trưởng trong trại mình. Ông hướng dẫn họ rượt đuổi quân thù cho đến thành Đan. 15 Đêm đó ông chia gia nhân ra thành nhiều toán, mở cuộc tấn công bất ngờ quân thù. Họ rượt đuổi chúng chạy tới Hô-ba, phía bắc thành Đa-mách. 16 Áp-ram mang về đầy đủ mọi thứ giặc đã cướp, cùng các đàn bà và nhiều người khác, luôn cả Lót và tài sản ông ta nữa.
17 Sau khi đánh thắng Kết-rô-lao-me và các vua đồng minh, Áp-ram trở về. Trên đường về, vua Xô-đôm ra đón ông tại thung lũng Sa-ve, bây giờ gọi là Thung lũng Vua.
Mên-chi-xê-đéc
18 Mên-chi-xê-đéc mang bánh và rượu ra. Ông là thầy tế lễ của Thượng Đế Tối Cao 19 và chúc phước cho Áp-ram như sau,
“Áp-ram ơi, nguyện ông được Thượng Đế Tối Cao,
Đấng sáng tạo trời đất, ban phúc lành.
20 Chúc tụng Thượng Đế Tối Cao,
Đấng đã giúp ông thắng quân thù.”
Rồi Áp-ram lấy một phần mười chiến lợi phẩm dâng cho Mên-chi-xê-đéc. 21 Vua Xô-đôm bảo Áp-ram, “Ông hãy giữ những thứ nầy cho mình đi. Chỉ giao lại cho tôi những người bị bắt thôi.”
22 Nhưng Áp-ram bảo vua Xô-đôm rằng, “Tôi đã hứa với CHÚA, Thượng Đế Tối Cao, Đấng dựng nên trời đất, 23 rằng những gì thuộc về vua tôi sẽ không giữ, dù một sợi chỉ hay một sợi dây giày đi nữa, để vua khỏi nói rằng, ‘Nhờ ta mà Áp-ram được giàu có.’ 24 Tôi chỉ giữ lại bằng số thực phẩm mà các thanh niên trai tráng đã ăn thôi. Nhưng hãy cấp cho A-ne, Ết-côn và Mam-rê phần của họ trong số chiến lợi phẩm thu được, vì họ cùng tham chiến với tôi.”
Giao ước của Thượng Đế với Áp-ram
15 Sau các việc ấy CHÚA phán với Áp-ram trong một sự hiện thấy, “Áp-ram ơi, đừng sợ. Ta sẽ bảo vệ con, ta sẽ cho con phần thưởng lớn.”
2 Nhưng Áp-ram thưa, “Lạy CHÚA là Thượng Đế, CHÚA sẽ ban gì cho con? Con không có con trai, nên sau khi con qua đời thì Ê-li-ê-xe, người nô lệ từ Đa-mách sẽ hưởng hết tài sản của con.” 3 Áp-ram tiếp, “CHÚA xem, Ngài không cho con đứa con trai nào, nên kẻ nô lệ được sinh trong nhà con sẽ hưởng tài sản của con.”
4 Nhưng CHÚA phán cùng Áp-ram rằng, “Kẻ nô lệ đó không phải là người thừa hưởng tài sản con đâu. Con sẽ có một con trai ruột, là người sẽ hưởng tài sản con.”
5 Rồi Thượng Đế dẫn Áp-ram ra ngoài và bảo, “Hãy ngước nhìn bầu trời! Các ngôi sao nhiều vô số không thể đếm nổi. Con cháu con cũng đông như vậy.”
6 Áp-ram tin CHÚA. Ngài chấp nhận ông. Đức tin ấy khiến ông trở nên công chính trước mặt CHÚA. 7 CHÚA bảo Áp-ram, “Ta là CHÚA, đã đem con ra khỏi thành U-rơ, xứ Canh-đê, để cấp cho con đất nầy.”
8 Nhưng Áp-ram thưa, “Lạy CHÚA là Thượng Đế, làm sao con biết chắc con sẽ hưởng đất nầy?”
9 CHÚA bảo Áp-ram, “Hãy mang cho ta một con bò cái tơ ba tuổi, một con dê ba tuổi, một con chiên đực ba tuổi, một con cu đất và một con bồ câu con.”
10 Áp-ram mang các súc vật ấy đến cùng Thượng Đế. Ông giết các súc vật, chặt ra làm đôi, đặt mỗi nửa miếng đối diện nhau. Nhưng ông không chặt các con chim ra làm đôi. 11 Sau đó có các con chim lớn đáp xuống định ăn thịt các súc vật ấy, nhưng Áp-ram đuổi chúng đi.
12 Khi mặt trời lặn, thì Áp-ram ngủ mê. Trong khi ông đang ngủ, một bóng tối kinh khiếp ập đến. 13 CHÚA phán cùng Áp-ram rằng, “Con có thể biết chắc rằng, con cháu con sẽ phải đi qua xứ khác, làm người nước ngoài. Tại đó dân bản xứ sẽ bắt chúng nó làm nô lệ trong bốn trăm năm. 14 Nhưng ta sẽ phạt dân tộc đã bắt chúng làm nô lệ. Con cháu con sẽ ra khỏi xứ ấy, mang theo nhiều tài sản.
15 Phần con, Áp-ram, con sẽ qua đời bình yên và được chôn cất lúc cao tuổi. 16 Sau khi cháu chít con ra đời, chúng nó sẽ về lại xứ nầy. Phải cần thời gian lâu như thế vì ta chưa sẵn sàng trừng phạt tội ác dân A-mô-rít.”
17 Sau khi mặt trời lặn thì trời tối sầm lại. Bỗng nhiên có một nồi lửa bốc khói [j] và một cây đuốc cháy sáng đi qua lại giữa các phần thịt đã chặt của các súc vật [k] dâng lễ.
18 Ngày đó CHÚA lập giao ước với Áp-ram. Ngài nói, “Ta sẽ ban cho dòng dõi con vùng đất nằm giữa sông Ai-cập [l] và sông lớn Ơ-phơ-rát. 19 Đó là đất của dân Kê-nít, dân Kê-ni-xít, dân Cát-mô-nít, 20 dân Hi-tít, dân Phê-ri-sít, dân Rê-pha-ít, 21 dân A-mô-rít, dân Ca-na-an, dân Ghi-rê-sít và dân Giê-bu-sít.”
Ích-ma-ên ra đời
16 Sa-rai, vợ Áp-ram không có con nhưng bà có một cô nô lệ người Ai-cập tên Ha-ga. 2 Sa-rai bảo Áp-ram, “CHÚA không cho tôi sinh con, nên ông hãy đến với đứa nô lệ tôi. Nếu nó sinh con thì có thể tôi có gia đình đầy đủ qua nó.” Áp-ram làm theo lời Sa-rai.
3 Mười năm sau khi sinh sống ở Ca-na-an thì Sa-rai đưa Ha-ga cho chồng mình là Áp-ram để làm vợ. Ha-ga là nữ nô lệ của Sa-rai từ Ai-cập. 4 Áp-ram ăn nằm với Ha-ga. Nàng mang thai. Khi biết mình mang thai, Ha-ga không còn kính trọng bà chủ mình là Sa-rai như trước nữa. 5 Nên Sa-rai bảo Áp-ram, “Lỗi nầy là do ông. Tôi giao con nô lệ tôi cho ông, mà từ khi mang thai nó xem thường tôi. Hãy để CHÚA phân xử xem ai phải, ông hay tôi.”
6 Nhưng Áp-ram bảo Sa-rai, “Em là chủ của con nô lệ. Muốn xử sao đối với nó cũng được tùy ý.” Sa-rai liền hành hạ Ha-ga nên Ha-ga bỏ trốn.
Ích-ma-ên, con trai của Ha-ga
7 Thiên sứ của CHÚA thấy Ha-ga ngồi bên giếng nước trong sa mạc, nơi con đường dẫn đến Su-rơ. 8 Thiên sứ hỏi, “Ha-ga, nô lệ của Sa-rai, cô từ đâu đến đây? Cô định đi đâu?”
Ha-ga đáp, “Tôi chạy trốn khỏi chủ tôi là Sa-rai.”
9 Thiên sứ của CHÚA bảo, “Cô hãy trở về với chủ và phục tùng bà ấy.” 10 Thiên sứ tiếp, “Tôi sẽ làm cho dòng dõi cô đông đến nỗi không thể đếm được.”
11 Thiên sứ tiếp,
“Cô hiện đang mang thai.
Cô sẽ sinh con trai.
Hãy đặt tên nó là Ích-ma-ên [m]
vì CHÚA đã nghe biết cô bị ngược đãi.
12 Ích-ma-ên sẽ giống như con lừa hoang.
Nó sẽ chống lại mọi người,
còn mọi người cũng sẽ chống nó.
Nó sẽ tấn công tất cả các anh em mình [n].”
13 Cô nô lệ đặt tên cho CHÚA, Đấng đã nói chuyện cùng mình. Cô bảo, “Ngài là ‘Thượng Đế, Đấng nhìn thấy tôi,’” vì cô tự nhủ, “Phải chăng tôi đã nhìn thấy Thượng Đế, mà vẫn còn sống?” 14 Ở đó có cái giếng, nằm giữa Ka-đe và Bê-rết, giếng đó mang tên Bia-la-hai-roi [o].
15 Ha-ga sinh một trai cho Áp-ram. Áp-ram đặt tên nó là Ích-ma-ên. 16 Khi Ha-ga sinh Ích-ma-ên thì Áp-ram được tám mươi sáu tuổi.
Phép cắt dương bì—Bằng chứng về giao ước
17 Khi Áp-ram được 99 tuổi, thì CHÚA hiện ra cùng ông và bảo, “Ta là Thượng Đế Toàn Năng [p]. Hãy vâng lời ta và làm điều phải. 2 Ta sẽ lập giao ước giữa chúng ta. Ta sẽ làm cho con trở thành ông tổ của nhiều người.”
3 Áp-ram liền cúi mọp mình xuống đất. Thượng Đế bảo ông, 4 “Ta đang lập giao ước với con: Ta sẽ khiến con trở thành cha của nhiều dân tộc. 5 Nay ta đổi tên con từ Áp-ram [q] ra Áp-ra-ham [r] vì ta sẽ khiến con trở nên cha của nhiều dân tộc. 6 Ta sẽ làm cho dòng dõi con đông đảo. Nhiều dân tộc sẽ từ con mà ra, nhiều vua cũng sẽ là dòng dõi của con. 7 Từ nay ta sẽ lập giao ước giữa ta với con và dòng dõi con: Ta sẽ làm Thượng Đế con và là Thượng Đế của tất cả dòng dõi con. 8 Hiện con đang sống trong xứ Ca-na-an như dân tạm trú, nhưng ta sẽ cấp xứ nầy cho con và dòng dõi con đời đời. Ta sẽ làm Thượng Đế của dòng dõi con.”
9 Rồi CHÚA phán cùng Áp-ra-ham, “Từ nay về sau con và dòng dõi con phải giữ giao ước nầy. 10 Giao ước giữa ta với con và dòng dõi con mà các con phải giữ như sau: Mọi người nam trong các con phải chịu cắt dương bì. 11 Hãy cắt da qui đầu để làm dấu hiệu về giao ước giữa ta với con. 12 Từ nay về sau, khi một bé trai sơ sinh được tám ngày, con phải cắt dương bì cho nó. Tục lệ nầy áp dụng cho mọi bé trai, sinh ra trong dòng dõi con hay bởi các nô lệ của con, tức những người không phải dòng dõi của con. 13 Hãy cắt dương bì cho mọi bé trai sinh ra trong nhà con hay được mua làm nô lệ. Thân thể các con sẽ được ghi dấu như thế để chứng tỏ các con là một phần của giao ước vĩnh viễn. 14 Người nam nào không chịu cắt dương bì sẽ bị loại khỏi dân tộc mình [s] vì con đó đã phá giao ước ta.”
Y-sác, đứa con của lời hứa
15 Thượng Đế phán cùng Áp-ra-ham, “Ta sẽ đổi tên Sa-rai [t], vợ con, ra Sa-ra. 16 Ta sẽ ban phúc cho nàng và cho nàng một con trai, con sẽ là cha nó. Nàng sẽ làm mẹ của nhiều dân. Vua của nhiều dân tộc sẽ từ nàng mà ra.”
17 Áp-ra-ham sấp mặt xuống đất và cười. Ông tự nhủ, “Có đàn ông nào mà sinh con khi đã gần một trăm tuổi không? Còn Sa-ra đã chín mươi tuổi rồi mà sinh con được sao?”
18 Áp-ra-ham thưa cùng Thượng Đế, “Xin Ngài hãy cho Ích-ma-ên nhận ân phúc và sự bảo hộ của Ngài.”
19 Thượng Đế bảo, “Không. Sa-ra vợ con sẽ sinh một con trai, con hãy đặt tên nó là Y-sác [u]. Ta sẽ lập giao ước với nó, một giao ước với dòng dõi nó và còn đời đời.
20 Còn về phần Ích-ma-ên, ta đã nghe điều con xin. Ta sẽ ban phúc và cho nó vô số con cái. Ta sẽ khiến dòng dõi nó tăng thêm nhiều. Nó sẽ làm cha của mười hai đại lãnh tụ, ta sẽ khiến nó thành một dân lớn. 21 Nhưng ta sẽ lập giao ước với Y-sác, đứa con mà Sa-ra sẽ sinh vào thời gian nầy trong năm tới.”
22 Sau khi nói xong với Áp-ra-ham, thì Thượng Đế đứng dậy từ giã ông. 23 Sau đó Áp-ra-ham tập họp Ích-ma-ên, tất cả những người nam sinh trong trại mình và những người nô lệ ông đã mua. Ngày đó Áp-ra-ham cắt dương bì cho mọi người đàn ông và con trai trong trại mình theo như Thượng Đế đã dặn.
24 Khi Áp-ra-ham được cắt dương bì, ông đã 99 tuổi. 25 Còn khi Ích-ma-ên được cắt dương bì thì đã 13 tuổi. 26 Áp-ra-ham và con trai mình được cắt dương bì cùng ngày. 27 Cũng trong ngày đó mọi người nam trong trại Áp-ra-ham được cắt dương bì, gồm tất cả những người sinh ra trong trại ông và các nô lệ ông mua từ những người ngoài.
Ba người khách
18 Sau đó CHÚA lại hiện ra cùng Áp-ra-ham gần các cây sồi lớn tại Mam-rê. Áp-ra-ham đang ngồi nơi cửa lều mình lúc trời đang nắng gắt. 2 Ông ngước lên thấy ba người đứng trước mặt mình. Khi thấy họ, Áp-ra-ham liền từ cửa trại chạy ra chào đón. Ông cúi mọp mình xuống đất trước mặt họ 3 nói, “Thưa quí ông [v], nếu quí ông cho là phải thì xin lưu lại đây với tôi, kẻ tôi tớ quí ông. 4 Tôi sẽ mang nước để quí ông rửa chân. Quí ông sẽ nằm nghỉ dưới gốc cây, 5 rồi tôi sẽ mang ít bánh để quí ông dùng cho lại sức. Sau đó quí ông sẽ lên đường.”
Ba người đó bảo, “Được, hãy làm theo như con nói.”
6 Áp-ra-ham vội vàng về trại bảo Sa-ra, “Hãy mau mau lấy hai mươi lít bột mịn làm bánh đi.” 7 Rồi Áp-ra-ham ra bầy bắt một con bò con tốt nhất. Ông giao cho đầy tớ bảo giết thịt chuẩn bị thức ăn gấp. 8 Áp-ra-ham thết ba người khách thịt bò con đã được nấu trong sữa và bơ. Đang khi họ ăn thì ông đứng hầu dưới gốc cây gần đó.
9 Các người khách hỏi Áp-ra-ham, “Sa-ra vợ con đâu?”
Áp-ra-ham đáp, “Nàng ở trong trại đàng kia.”
10 Một trong các người khách bảo, “Vào ngày nầy năm tới ta sẽ chắc chắn trở lại thăm con. Lúc đó Sa-ra sẽ có một con trai.”
Sa-ra đang nghe lén nơi cửa trại sau lưng Áp-ra-ham. 11 Cả Áp-ra-ham lẫn Sa-ra đều đã già. Vì Sa-ra đã quá tuổi sinh sản bình thường, 12 nên bà cười thầm và tự nhủ, “Hai vợ chồng tôi già rồi làm sao mà sinh con được!”
13 CHÚA hỏi Áp-ra-ham, “Tại sao Sa-ra cười? Tại sao nàng bảo, ‘Tôi già rồi làm sao sinh con được?’ 14 Có việc gì quá khó đối với CHÚA không? Vào ngày nầy năm tới, ta sẽ trở lại. Sa-ra sẽ có một con trai.”
15 Sa-ra sợ nên chối, “Tôi có cười đâu.”
Nhưng CHÚA bảo, “Con thật có cười đó.”
16 Các người khách đứng dậy ra về theo hướng Xô-đôm. Áp-ra-ham cùng đi với họ một khoảng để tiễn đưa.
Áp-ra-ham thương lượng với Thượng Đế
17 CHÚA bảo, “Ta có nên giấu Áp-ra-ham biết điều ta sắp làm không? 18 Áp-ra-ham chắc hẳn sẽ trở thành một dân lớn và hùng cường. Các dân tộc trên đất sẽ nhờ người nầy mà được phước. 19 Ta đã chọn Áp-ra-ham để khuyên dạy con cháu và dòng dõi mình sống theo ý muốn Thượng Đế, tức là sống phải lẽ. Rồi ta, là CHÚA, sẽ ban cho Áp-ra-ham điều ta đã hứa.”
20 Rồi CHÚA bảo, “Ta đã nghe nhiều tiếng kêu than về dân cư hai thành Xô-đôm và Gô-mô-rơ. Chúng nó rất gian ác. 21 Ta sẽ đi xuống xem thử có phải quả thật chúng xấu như thế chăng. Nếu không, ta sẽ biết.”
22 Vậy các người đó quay đi về hướng Xô-đôm. Nhưng Áp-ra-ham còn đứng đó trước mặt CHÚA. 23 Áp-ra-ham đến gần CHÚA thưa, “CHÚA dự định tiêu diệt người tốt cùng với người ác sao? 24 Nếu trong thành có năm mươi người tốt thì CHÚA cũng tiêu diệt thành sao? Chắc hẳn CHÚA sẽ không tiêu diệt thành vì có năm mươi người tốt sinh sống ở đó. 25 Chắc CHÚA sẽ không tiêu diệt người tốt cùng với người xấu? Nếu không, hóa ra CHÚA đối xử với người tốt và người xấu như nhau sao? CHÚA là thẩm phán của cả trái đất. Chắc hẳn Ngài sẽ làm điều công bình chứ?”
26 CHÚA phán, “Nếu ta tìm được năm mươi người tốt trong thành Xô-đôm, ta sẽ không tiêu diệt thành vì năm mươi người ấy.”
27 Áp-ra-ham tiếp, “Dù con đây là tro bụi cũng xin bạo gan thưa cùng CHÚA. 28 Giả sử chỉ có bốn mươi lăm người tốt trong thành thì sao? Chả lẽ thiếu năm người mà CHÚA cũng tiêu diệt cả thành sao?”
CHÚA bảo, “Nếu ta tìm được bốn mươi lăm người tốt ở đó, ta cũng sẽ không tiêu diệt thành.”
29 Áp-ra-ham lại hỏi, “Nếu giả như chỉ có bốn mươi người tốt ở đó, CHÚA cũng tiêu diệt thành sao?”
CHÚA bảo, “Nếu tìm được bốn mươi người, ta sẽ không tiêu diệt thành đó.”
30 Áp-ra-ham thưa tiếp, “Xin CHÚA đừng nổi giận với con, cho con hỏi câu nầy. Nếu Ngài chỉ tìm được có ba mươi người tốt trong thành đó thì Ngài có tiêu diệt thành không?”
CHÚA bảo, “Nếu tìm được ba mươi người tốt ở đó, ta sẽ không tiêu diệt thành.”
31 Áp-ra-ham hỏi thêm, “Con xin bạo gan thưa cùng CHÚA. Giả sử như chỉ có hai mươi người tốt trong thành thì sao?”
Ngài đáp, “Nếu tìm được hai mươi người tốt ở đó, ta sẽ không tiêu diệt thành.”
32 Áp-ra-ham hỏi tiếp, “Xin CHÚA đừng nổi giận cùng con, xin cho phép con hỏi câu chót. Nếu chỉ có mười người thì sao?”
CHÚA đáp, “Nếu tìm được mười người, ta sẽ không tiêu diệt thành đó.”
33 Sau khi CHÚA nói chuyện với Áp-ra-ham xong thì Ngài ra đi, còn Áp-ra-ham trở về nhà mình.
Lót rời khỏi Xô-đôm
19 Hai thiên sứ đến Xô-đôm vào lúc chiều tối, khi Lót đang ngồi nơi cửa thành. Nhìn thấy họ, Lót đứng dậy đến trước mặt cúi mọp xuống đất để chào. 2 Lót thưa, “Xin mời các ngài vào nhà tôi nghỉ đêm. Các ngài sẽ rửa chân rồi ngày mai hãy lên đường.”
Các thiên sứ đáp, “Không, đêm nay chúng tôi sẽ ngủ ngoài công viên thành phố.”
3 Nhưng Lót năn nỉ quá nên họ bằng lòng vào nhà. Lót dọn bữa ăn cho họ. Ông nướng bánh mì không men, rồi họ ăn.
4 Trước khi họ đi ngủ thì toàn thể đàn ông trong thành Xô-đôm, từ già đến trẻ, kéo đến bao vây nhà Lót. 5 Họ gọi Lót, “Ê, hai người mới đến nhà anh đêm nay đâu? Mang họ ra đây để chúng ta ăn nằm với họ.”
6 Lót bước ra ngoài gặp họ, rồi đóng cửa nhà sau lưng mình. 7 Ông bảo, “Không được, anh em ơi! Chớ có làm việc ác nầy. 8 Nầy, tôi có hai đứa con gái còn trinh trắng, chưa hề ngủ với đàn ông nào. Tôi sẽ đưa chúng nó cho các anh em. Các anh em làm gì cũng được, nhưng xin anh em chớ đụng đến hai người nầy. Họ đã đến nhà tôi. Tôi có bổn phận phải bảo vệ họ [w].”
9 Bọn đàn ông vây quanh nhà Lót đáp, “Đi chỗ khác!” Rồi chúng bảo nhau, “Thằng Lót nầy đến ở thành phố chúng ta như kiều dân mà bây giờ còn dám lên mặt dạy chúng ta nữa à?” Rồi chúng bảo Lót, “Chúng tôi sẽ xử với anh còn tệ hơn với hai người nầy.” Chúng bắt đầu xô ông và định xông tới phá cửa.
10 Nhưng hai người ở nhà Lót mở cửa lôi ông vào, và đóng ập cửa lại. 11 Rồi hai người ấy khiến bọn người ở ngoài cửa bị mù, đến nỗi già trẻ đều lần mò mà không tìm được cửa.
Chạy thoát khỏi thành Xô-đôm
12 Hai người hỏi Lót, “Anh còn có thân nhân nào nữa trong thành nầy không? Anh có con rể, con trai, con gái hay bà con nào nữa không? Nếu có thì bảo họ phải rời thành ngay, 13 vì chúng tôi sắp tiêu diệt thành nầy. CHÚA đã nghe những việc độc ác trong thành cho nên Ngài sai chúng tôi đến để tiêu diệt thành.”
14 Nên Lót đi ra nói với các con rể tương lai, đã hứa hôn với con gái mình rằng, “Hãy mau mau ra khỏi thành nầy, vì CHÚA sắp sửa tiêu diệt nó!” Nhưng họ tưởng Lót nói đùa.
15 Sáng sớm hôm sau các thiên sứ hối thúc Lót. Họ bảo, “Nhanh lên. Mang vợ và hai con gái anh đi ra để các con không bị tiêu diệt khi ta trừng phạt thành nầy.”
16 Nhưng Lót lừng khừng. Cho nên hai người ấy nắm tay Lót, cùng vợ và hai con gái ông, dẫn ra khỏi thành. CHÚA tỏ lòng thương xót đối với Lót và gia đình ông. 17 Sau khi mang họ ra khỏi thành rồi một trong hai người bảo, “Hãy chạy cứu mạng mau lên! Chớ ngoái cổ nhìn và đừng dừng lại nơi nào trong thung lũng. Hãy chạy lên núi. Nếu không các con sẽ bị tiêu diệt đó.”
18 Nhưng Lót năn nỉ một trong hai người đó, “Xin làm ơn đừng bắt tôi đi xa như thế! 19 Các ngài đã nhân từ thương xót mà cứu mạng tôi, nhưng tôi không thể chạy lên núi kịp đâu. Thảm họa sẽ chụp bắt tôi, tôi sẽ mất mạng. 20 Kia có cái thành nhỏ không xa lắm. Xin cho tôi chạy đến đó. Vì là thành nhỏ, chắc tôi được an toàn.”
21 Thiên sứ bảo Lót, “Được, ta cho phép anh. Ta sẽ không tiêu diệt thành đó. 22 Nhưng phải chạy nhanh đến đó vì chúng tôi không thể tiêu diệt Xô-đôm trước khi anh đã đến đó an toàn.” (Thành đó tên là Xoa vì nó nhỏ.)
Thành Xô-đôm và Gô-mô-rơ bị tiêu diệt
23 Khi mặt trời vừa mọc thì Lót cũng vừa đến Xoa. 24 CHÚA giáng mưa lửa diêm sinh từ trời xuống trên Xô-đôm và Gô-mô-rơ, 25 đốt cháy tiêu hai thành đó. Ngài cũng tiêu diệt toàn thung lũng Giô-đanh, hủy diệt mọi người trong các thành đó, luôn cả cây cối vùng ấy.
26 Ngay lúc đó vợ Lót quay lại nhìn, nên bà liền biến thành cột muối.
27 Sáng sớm hôm sau Áp-ra-ham dậy, đi đến nơi ông đã đứng trước mặt CHÚA. 28 Nhìn về hướng Xô-đôm và Gô-mô-rơ và toàn thung lũng Giô-đanh, ông thấy khói từ dưới đất bốc lên giống như khói của lò lửa.
29 Khi Thượng Đế tiêu diệt các thành trong thung lũng thì Ngài nhớ đến Áp-ra-ham. Nên Ngài cứu mạng Lót, nhưng hủy diệt thành phố Lót sinh sống.
Lót và hai cô con gái
30 Lót sợ không dám ở lâu trong Xoa nên ông và hai cô con gái đi vào trong núi sống trong một cái hang. 31 Một hôm cô chị bảo cô em, “Cha chúng ta nay đã già rồi. Ai trên đất nầy cũng có vợ có chồng nhưng quanh đây không có đàn ông nào để lấy chúng ta theo như lệ thường. 32 Thôi chúng ta hãy phục rượu cho cha say rồi đến nằm với cha. Chúng ta sẽ nhờ cha mà sinh con để lưu truyền nòi giống.”
33 Hôm đó hai cô phục rượu cho cha khiến ông say. Cô chị đến nằm với cha mình. Nhưng Lót chẳng biết lúc nào cô ta nằm xuống hay lúc nào cô ta dậy hết.
34 Hôm sau cô chị bảo cô em, “Hôm qua chị đã đến nằm với cha rồi. Đêm nay chúng ta hãy phục rượu cho cha say nữa, để em vào với cha. Làm như thế để nhờ cha mà lưu truyền nòi giống.” 35 Cho nên đêm đó hai cô lại phục rượu cho cha say nữa, rồi cô em vào nằm với cha mình. Lần nầy Lót cũng không hay lúc nào nàng nằm hay lúc nào nàng dậy hết.
36 Vậy hai cô con gái mang thai qua cha mình. 37 Cô chị sinh ra một con trai đặt tên là Mô-áp [x]. Nó là ông tổ của các dân Mô-áp mà hiện nay vẫn còn. 38 Cô em cũng sinh ra một con trai đặt tên là Bên-Am-mi [y]. Nó là ông tổ của dân Am-môn hiện nay vẫn còn đó.
Áp-ra-ham đi xuống Ghê-ra
20 Áp-ra-ham rời Hếp-rôn đi đến miền Nê-ghép, cư ngụ giữa Ca-đe và Su-rơ một thời gian. Khi đến Ghê-ra 2 thì ông bảo mọi người rằng Sa-ra là em gái mình. A-bi-mê-léc, vua Ghê-ra nghe thế liền sai mấy đầy tớ cho bắt Sa-ra. 3 Nhưng một đêm kia Thượng Đế bảo A-bi-mê-léc trong chiêm bao rằng, “Con sẽ chết, vì người đàn bà con lấy đã có chồng rồi.”
4 Nhưng A-bi-mê-léc chưa lại gần Sa-ra nên ông thưa, “Lạy CHÚA, Ngài sẽ tiêu diệt cả một dân tộc vô tội sao? 5 Chính Áp-ra-ham đã bảo con, ‘Người đàn bà nầy là em gái tôi,’ mà chính nàng cũng đã nói với con, ‘Ông nầy là anh tôi.’ Cho nên con vô tội. Con đâu có biết mình làm sai trái?”
6 Thượng Đế trả lời A-bi-mê-léc trong mộng, “Phải, ta biết con không biết mình làm sai. Cho nên ta không cho phép con phạm tội cùng ta và đụng đến nàng. 7 Hãy trả lại vợ cho Áp-ra-ham. Ông ta là nhà tiên tri đó. Ông ta sẽ cầu khẩn cho con thì con mới khỏi chết. Nếu con không trả Sa-ra lại thì con và cả nhà chắc chắn sẽ chết.”
8 Nên sáng sớm hôm sau, A-bi-mê-léc triệu tập các cận thần và thuật lại cho họ nghe sự việc ông thấy trong mộng. Ai nấy đều đâm sợ. 9 A-bi-mê-léc liền gọi Áp-ra-ham lại bảo, “Anh đã làm gì cho chúng ta vậy? Ta đã làm gì sai trái với anh? Tại sao anh gây tội tày đình cho nước ta, bằng cách khiến ta làm điều sai trái? 10 Tại sao anh lại hành động như vậy?”
11 Áp-ra-ham thưa, “Tôi nghĩ trong xứ nầy không có ai kính sợ Thượng Đế cả, nên có thể sẽ có người giết tôi để đoạt Sa-ra. 12 Thật ra nàng là em gái tôi. Nàng là con của cha tôi nhưng khác mẹ, và tôi lấy nàng làm vợ. 13 Khi Thượng Đế bảo tôi rời nhà cha tôi đi lang thang đây đó thì tôi dặn Sa-ra, ‘Em phải làm ơn cho anh một điều. Bất cứ đi đâu cũng phải nói anh là anh của em nghe chưa.’”
14 Rồi A-bi-mê-léc cấp cho Áp-ra-ham một số chiên, gia súc, tôi trai tớ gái, và cũng trả lại vợ, là Sa-ra cho ông. 15 Rồi vua bảo, “Hãy xem quanh xứ ta! Ngươi muốn định cư đâu tùy ý.”
16 A-bi-mê-léc bảo Sa-ra, “Ta cho anh ngươi hai mươi lăm cân bạc để đền bù lại điều hiểu lầm của người ta về ngươi. Ta muốn mọi người biết rằng ngươi vô tội.”
17 Sau đó Áp-ra-ham cầu khẩn cùng CHÚA. Ngài chữa lành cho A-bi-mê-léc, cùng hoàng hậu và các tớ gái, để họ có con. 18 Vì CHÚA đã không cho người đàn bà nào trong nhà A-bi-mê-léc có con cả, để phạt vua về tội đoạt vợ của Áp-ra-ham.
Sa-ra sinh con
21 CHÚA chăm lo cho Sa-ra như Ngài nói, nên Ngài thực hiện lời hứa mình. 2 Sa-ra thụ thai và sinh một con trai cho Áp-ra-ham trong tuổi già. Mọi việc xảy ra đúng thời điểm như Thượng Đế phán. 3 Áp-ra-ham đặt tên con là Y-sác, tức con mà Sa-ra sinh ra cho mình. 4 Khi Y-sác được tám ngày thì Áp-ra-ham cắt dương bì cho con mình theo như Thượng Đế dặn.
5 Lúc Y-sác ra đời thì Áp-ra-ham được một trăm tuổi. 6 Sa-ra bảo, “Thượng Đế đã làm cho tôi cười. Ai nghe tin nầy cũng sẽ cười với tôi. 7 Không ai có thể bảo rằng tôi có thể cho con bú được. Nhưng tuy Áp-ra-ham đã già mà tôi lại sinh cho ông một con trai.”
Ha-ga và Ích-ma-ên bị đuổi đi
8 Y-sác lớn lên và khi cậu bé đủ tuổi ăn thức ăn bình thường thì Áp-ra-ham bày một bữa tiệc lớn ăn mừng. 9 Nhưng Sa-ra thấy đứa con, mà người nữ nô lệ Ha-ga đã sinh cho Áp-ra-ham, cười giỡn [z]. 10 Nên Sa-ra bảo Áp-ra-ham, “Ông hãy đuổi con nhỏ nô lệ nầy và con nó đi đi. Con nó sẽ không được hưởng chút gia tài nào hết; con tôi sẽ hưởng tất cả.”
11 Lời yêu cầu nầy khiến Áp-ra-ham khó xử, vì nó cũng là con mình. 12 Nhưng Thượng Đế bảo Áp-ra-ham, “Đừng quá băn khoăn về đứa trẻ và người nữ nô lệ. Hãy làm theo điều Sa-ra yêu cầu. Dòng dõi mà ta hứa với con sẽ ra từ Y-sác. 13 Ta cũng sẽ làm cho dòng dõi của con trai người nữ nô lệ thành ra một dân lớn vì nó cũng là con trai con.”
14 Sáng sớm hôm sau Áp-ra-ham lấy ít thức ăn và một túi da đựng đầy nước. Ông trao mọi thứ cho Ha-ga rồi đuổi nàng đi. Mang các thứ đó theo người, Ha-ga đi lang thang trong sa mạc gần Bê-e-sê-ba.
15 Chẳng bao lâu, túi đựng nước cạn, Ha-ga để con mình dưới một bụi cây. 16 Rồi nàng đi một khoảng xa xa xong ngồi xuống. Nàng nghĩ, “Con tôi thế nào cũng chết. Tôi không có can đảm nhìn cảnh đau lòng nầy.” Nàng ngồi đó và òa khóc.
17 Thượng Đế nghe tiếng đứa trẻ, nên từ thiên đàng thiên sứ của Thượng Đế gọi Ha-ga, “Ha-ga, có việc gì vậy? Đừng sợ! Thượng Đế đã nghe tiếng đứa trẻ đàng kia. 18 Hãy đến cầm tay đỡ nó dậy. Ta sẽ khiến dòng dõi nó thành ra một dân lớn.” 19 Rồi CHÚA chỉ cho Ha-ga thấy một giếng nước. Nàng đến đó lấy nước đổ đầy bình cho đứa nhỏ uống.
20 Thượng Đế ở cùng đứa nhỏ khi nó khôn lớn. Ích-ma-ên sống trong sa mạc và trở nên tay bắn cung rất giỏi. 21 Nó sống trong sa mạc Pha-ran. Mẹ nó tìm cho nó một người vợ gốc Ai-cập.
Áp-ra-ham thương lượng với A-bi-mê-léc
22 Sau đó A-bi-mê-léc cùng Phi-côn, viên tư lệnh quân đội, đến bảo Áp-ra-ham, “Việc gì anh làm cũng được Thượng Đế phù hộ cả. 23 Vậy tại đây trước mặt Thượng Đế anh hãy cam kết với ta rằng anh sẽ đối xử tốt với tôi, con cái và dòng dõi tôi. Hãy tỏ lòng tử tế cùng tôi và cùng xứ mà anh đang cư ngụ như một kiều dân, giống như tôi đã tử tế với anh.”
24 Áp-ra-ham đáp, “Tôi xin cam kết.” 25 Sau đó Áp-ra-ham phàn nàn cùng A-bi-mê-léc về vụ những tôi tớ của vua chiếm đoạt một giếng nước.
26 Nhưng A-bi-mê-léc bảo, “Ta chẳng biết ai làm chuyện đó. Sao đến hôm nay anh mới nói? Từ trước tới giờ tôi có nghe chuyện nầy đâu?”
27 Rồi Áp-ra-ham biếu A-bi-mê-léc một số chiên cừu, gia súc và hai bên kết ước với nhau. 28 Áp-ra-ham đặt bảy [aa] con cừu cái trước mặt A-bi-mê-léc.
29 A-bi-mê-léc hỏi Áp-ra-ham, “Anh đặt bảy con cừu cái riêng chi vậy?”
30 Áp-ra-ham đáp, “Xin vua hãy nhận các con cừu nầy từ tay tôi để chứng tỏ rằng vua tin tôi đã đào giếng nầy.”
31 Nên chỗ đó được gọi là Bê-e-sê-ba [ab], vì là nơi họ lập ước với nhau.
32 Sau khi Áp-ra-ham và A-bi-mê-léc lập ước với nhau tại Bê-e-sê-ba thì A-bi-mê-léc và Phi-côn, tư lệnh quân đội ông, trở về xứ Phi-li-tin.
33 Áp-ra-ham trồng một cây me tại Bê-e-sê-ba và cầu khẩn cùng CHÚA, Đấng hằng sống. 34 Áp-ra-ham kiều ngụ trong xứ Phi-li-tin khá lâu.
Thượng Đế thử Áp-ra-ham
22 Sau các việc ấy, Thượng Đế thử đức tin của Áp-ra-ham. Thượng Đế gọi Áp-ra-ham, “Áp-ra-ham!” Ông thưa, “Dạ.”
2 Thượng Đế bảo, “Con hãy bắt đứa con trai một của con là Y-sác, đứa con mà con rất thương yêu, đi đến xứ Mô-ri-a. Hãy dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên một hòn núi mà ta sẽ chỉ cho.”
3 Sáng hôm sau Áp-ra-ham dậy sớm và chuẩn bị yên cương cho lừa. Ông mang Y-sác và hai đứa đầy tớ nữa cùng đi. Sau khi đốn củi để làm của lễ thiêu thì họ lên đường, đi đến nơi Thượng Đế chỉ định. 4 Đến ngày thứ ba, Áp-ra-ham ngước mắt lên thấy địa điểm đó từ đàng xa. 5 Ông bảo mấy đứa đầy tớ, “Mấy chú ở đây với con lừa. Con trai ta và ta sẽ đi đến đàng kia thờ phụng rồi sẽ trở lại với các chú.”
6 Áp-ra-ham chất củi để làm của lễ thiêu lên cho Y-sác vác, còn mình thì cầm dao và lửa. Hai cha con cùng đi.
7 Y-sác gọi Áp-ra-ham cha mình, “Cha ơi!”
Áp-ra-ham đáp, “Cha đây, con!”
Y-sác hỏi, “Thưa cha, mình có lửa và củi đây, nhưng chiên con đâu mà làm của lễ thiêu?”
8 Áp-ra-ham đáp, “Con ơi, Thượng Đế sẽ chuẩn bị chiên con để chúng ta làm của lễ thiêu.” Hai cha con lại tiếp tục đi. 9 Đến nơi Thượng Đế chỉ định, Áp-ra-ham dựng một bàn thờ tại đó. Xong ông đặt củi lên rồi trói con mình là Y-sác đặt nằm lên đống củi trên bàn thờ. 10 Xong Áp-ra-ham giơ dao định giết con mình.
11 Nhưng thiên sứ của CHÚA từ trời kêu xuống, “Áp-ra-ham! Áp-ra-ham!”
Áp-ra-ham đáp, “Thưa, con đây!”
12 Thiên sứ bảo, “Đừng đụng đến con của con! Bây giờ ta biết con thật kính sợ Thượng Đế. Con đã không tiếc con trai, tức con một mình, đối với ta.”
13 Áp-ra-ham ngước lên thấy một con chiên đực đang mắc kẹt sừng trong bụi cây, nên Áp-ra-ham bắt giết nó. Ông dâng nó lên làm của lễ thiêu cho Thượng Đế, thế cho con mình. 14 Vì vậy, Áp-ra-ham gọi chỗ đó là Nơi CHÚA Cung Ứng [ac]. Đến ngày nay người ta vẫn nói “Trên hòn núi của CHÚA mà mọi việc sẽ được cung ứng.” [ad]
15 Thiên sứ của CHÚA từ trời gọi Áp-ra-ham một lần nữa 16 rằng, “CHÚA phán, ‘Vì đối với ta, con đã không tiếc con trai, tức con một của con, nên nhân danh chính mình, ta hứa như sau: 17 Ta chắc chắn sẽ ban phước và cho con vô số con cháu. Chúng nó sẽ đông như sao trên trời, như cát bãi biển. Chúng sẽ chiếm đoạt thành trì của quân thù. 18 Nhờ con cháu con mà nhiều dân tộc trên đất sẽ được phước, vì con vâng lời ta.’”
19 Sau đó Áp-ra-ham trở lại nơi các đầy tớ đang chờ. Họ trở về Bê-e-sê-ba, rồi Áp-ra-ham cư ngụ tại đó.
20 Sau các việc ấy có người báo tin cho Áp-ra-ham, “Na-ho, anh ông, và bà vợ là Minh-ca hiện đã có con. 21 Con trưởng là U-xơ, con thứ nhì là Bu-xơ. Con thứ ba là Kê-mu-ên (cha của A-ram). 22 Rồi họ có thêm Kê-sết, Hát-so, Phinh-đát, Dít-láp và Bê-thu-ên.” 23 Bê-thu-ên sinh Rê-be-ca. Minh-ca là mẹ của tám người con trai còn Na-ho, em của Áp-ra-ham là cha các người ấy. 24 Na-ho cũng có bốn con trai qua người vợ lẽ là Rêu-ma. Tên bốn người đó là Thê-ba, Ga-ham, Ta-hát và Ma-a-ca.
Sa-ra qua đời
23 Sa-ra hưởng thọ được 127 tuổi. 2 Bà qua đời ở Ki-ri-át Ạc-ba (tức Hếp-rôn) trong xứ Ca-na-an. Áp-ra-ham rất đau buồn và than khóc vợ mình. 3 Sau đó ông đứng dậy rời khỏi xác vợ, đến nói chuyện với dân Hê-tít. Ông bảo, 4 “Tôi chỉ là kiều dân ở đây. Mấy anh hãy bán cho tôi một miếng đất để tôi chôn cất vợ tôi.”
5 Dân Hê-tít đáp cùng Áp-ra-ham, 6 “Ông ơi, ông là bậc đáng trọng [ae] của chúng tôi nên ông cứ chọn chỗ nào tốt nhất để chôn cất người quá cố của ông thì chọn. Ông lấy chỗ đất chôn cất nào của chúng tôi cũng được. Không ai trong chúng tôi cản trở việc ông chôn cất vợ ông cả.”
7 Áp-ra-ham đứng dậy cúi mình trước dân xứ đó, tức người Hê-tít. 8 Ông bảo họ, “Nếu mấy anh quả thực muốn cho tôi chôn cất nhà tôi ở đây thì xin nói hộ tôi với Ép-rôn, con của Xô-ha. 9 Hãy yêu cầu ông ta bán cho tôi hang Mặc-bê-la ở cuối khu ruộng của ông ta. Tôi sẽ trả nguyên giá. Còn mấy anh sẽ làm chứng rằng tôi mua chỗ đó để chôn cất.”
10 Đang ngồi chung với các người Hê-tít nơi cửa thành, Ép-rôn trả lời với Áp-ra-ham để cho mọi người có mặt ở cửa thành đều nghe. Ông ta bảo: 11 “Không sao. Tôi sẽ biếu ông miếng đất có cái hang trong nó, có mấy người đây làm chứng. Xin cứ chôn cất vợ ông ở đó.”
12 Rồi Áp-ra-ham cúi lạy trước người Hê-tít. 13 Trước mặt mọi người Áp-ra-ham bảo Ép-rôn, “Xin cho tôi được trả nguyên giá cho thửa ruộng. Hãy nhận tiền tôi thì tôi mới chôn cất thân nhân quá cố tôi ở đó.”
14 Ép-rôn đáp với Áp-ra-ham, 15 “Thưa ông, miếng đất đó đáng giá mười cân [af] bạc nhưng tôi sẽ không thắc mắc với ông về giá cả. Ông cứ lấy miếng đất để chôn cất bà đi.”
16 Áp-ra-ham bằng lòng và trả cho Ép-rôn trước mặt những nhân chứng người Hê-tít. Ông cân đúng giá, tức mười cân bạc. Họ đếm trọng lượng theo như các nhà buôn [ag] hay làm.
17-18 Vậy là miếng ruộng của Ép-rôn trong vùng Mặc-bê-la, gần Mam-rê, được bán xong. Áp-ra-ham trở thành chủ nhân miếng ruộng có cái hang và cây cối trên thửa đất. Cuộc mua bán được thực hiện ở cửa thành trước các nhân chứng người Hê-tít. 19 Sau đó Áp-ra-ham chôn cất Sa-ra, vợ mình, trong hang trên thửa ruộng ở Mặc-bê-la gần Mam-rê. (Mam-rê về sau gọi là Hếp-rôn thuộc xứ Ca-na-an.) 20 Vậy là Áp-ra-ham mua miếng ruộng của người Hê-tít, có cái hang trong đó để làm đất chôn cất.
Kiếm vợ cho Y-sác
24 Áp-ra-ham tuổi đã rất cao. CHÚA ban phước cho ông đủ mọi thứ. 2 Áp-ra-ham bảo đầy tớ cao niên nhất, là người quản trị tất cả tài sản của mình rằng, “Hãy đặt tay con lên đùi ta [ah]. 3 Phải hứa với ta, có CHÚA là Thượng Đế của trời đất chứng giám, rằng anh sẽ không kiếm vợ nào cho con trai ta trong vòng các thiếu nữ Ca-na-an, mặc dù ta đang sống giữa họ. 4 Anh phải về quê hương ta, xứ sở của thân nhân ta, kiếm một người vợ cho Y-sác, con trai ta.”
5 Người đầy tớ đáp, “Nhưng nếu cô đó không chịu đi về với tôi trong xứ nầy thì sao? Tôi có phải mang con trai ông trở về quê hương ông không?”
6 Áp-ra-ham đáp, “Không! Anh không được mang con ta về xứ đó. 7 CHÚA là Thượng Đế của trời đất đã mang ta ra khỏi nhà cha ta và xứ sở quê hương ta. Ngài hứa rằng, ‘Ta sẽ ban cho dòng dõi con xứ nầy.’ CHÚA sẽ sai thiên sứ Ngài đi trước anh để giúp anh tìm được một người vợ cho con trai ta ở đó. 8 Nếu cô ta không chịu đi về với anh thì anh khỏi mắc lời hứa hôm nay. Nhưng anh chớ bao giờ mang con ta về xứ ấy.”
9 Vậy người đầy tớ đặt tay lên đùi của chủ và hứa với Áp-ra-ham sẽ làm theo như thế.
Cuộc tìm kiếm vợ bắt đầu
10 Người đầy tớ đem mười con lạc đà của Áp-ra-ham rồi lên đường, mang theo mình nhiều tặng phẩm quí giá. Anh đi đến vùng tây bắc xứ Mê-sô-bô-ta-mi vào thành Na-ho. 11 Chiều đến khi các thiếu nữ đi ra lấy nước, anh cho các con lạc đà quì xuống nơi giếng nước ngoài thành phố.
12 Người đầy tớ khẩn nguyện, “Lạy CHÚA là Thượng Đế của Áp-ra-ham, chủ con, xin cho con tìm được vợ của chủ con hôm nay. Xin tỏ lòng nhân từ không thay đổi của Ngài cùng Áp-ra-ham, chủ con! 13 Bây giờ con đứng đây gần giếng nước. Các cô gái trong thành sẽ đi ra lấy nước. 14 Con sẽ nói với một trong các cô rằng, ‘Xin làm ơn đặt bình nước của cô xuống cho tôi uống một hớp.’ Xin cho cô ta nói, ‘Ông cứ uống đi, tôi sẽ mang nước cho lạc đà ông uống nữa.’ Nếu mọi việc xảy ra y như vậy thì con sẽ biết rằng cô đó đúng là người vợ cho tôi tớ Ngài là Y-sác, và rằng Ngài đã tỏ lòng nhân từ không thay đổi đối với chủ con.”
Tìm được vợ
15 Trước khi người đầy tớ khẩn nguyện xong, thì Rê-be-ca, con gái Bê-thu-ên, từ thành đi ra. (Bê-thu-ên là con của Minh-ca và Na-ho, em của Áp-ra-ham.) Rê-be-ca mang bầu nước trên vai. 16 Cô rất đẹp và còn trinh trắng, chưa hề ăn ở với đàn ông nào. Cô đi đến giếng lấy nước đầy bầu rồi kéo bầu lên. 17 Người đầy tớ vội chạy lại bảo cô, “Cô làm ơn cho tôi xin hớp nước trong bầu của cô.”
18 Rê-be-ca đáp, “Dạ ông cứ uống đi.” Cô vội vàng hạ bầu nước trên vai xuống để ông ta uống. 19 Ông uống xong, Rê-be-ca tiếp, “Tôi sẽ đổ nước cho các lạc đà ông uống nữa.” 20 Cô lật đật đổ nước trong bầu vào rãnh uống nước cho lạc đà. Cô chạy đi chạy lại xuống giếng lấy nước cho đến khi tất cả lạc đà đều đã khát.
21 Người đầy tớ im lặng nhìn cô. Ông muốn biết chắc xem CHÚA có giúp chuyến đi của mình thành công hay không. 22 Sau khi các lạc đà uống xong, ông trao cho Rê-be-ca một chiếc nhẫn vàng nặng khoảng một phần năm lượng, hai vòng đeo tay vàng mỗi cái nặng bốn lượng. 23 Ông hỏi, “Cha cô là ai? Trong nhà cô có chỗ cho tôi và những bạn đồng hành trú đêm hay không?”
24 Rê-be-ca đáp, “Cha tôi là Bê-thu-ên, con của Minh-ca và Na-ho.” 25 Cô tiếp, “Dạ nhà tôi có rơm cho lạc đà của ông và đủ chỗ cho quí ông nghỉ đêm nay.”
26 Người đầy tớ liền quì xuống bái lạy CHÚA 27 và thưa, “Chúc tụng CHÚA, Thượng Đế của Áp-ra-ham, chủ con. Ngài đã tỏ lòng nhân từ và chân thật cùng người và dẫn con đến ngay nhà thân nhân của người.”
28 Rê-be-ca vội chạy về nhà mẹ mình báo tin cho mọi người. 29 Cô có một người anh, tên La-ban, cũng chạy ra gặp người đầy tớ của Áp-ra-ham, lúc đó vẫn còn đứng bên giếng nước. 30 Khi nghe cô kể lại và thấy chiếc nhẫn cùng các vòng đeo trên tay em gái mình, La-ban vội chạy ra giếng thì gặp người đầy tớ vẫn đang đứng bên các lạc đà cạnh giếng. 31 La-ban nói, “Thưa ông, cầu CHÚA ban phúc cho ông. Xin mời ông vào nhà với tôi. Ông không phải đứng ngoài đường như thế. Tôi đã chuẩn bị nhà sẵn cho ông và chỗ nghỉ cho lạc đà của ông.”
32 Vậy đầy tớ của Áp-ra-ham đi vào nhà. Sau khi đã hạ đồ đạc xuống khỏi lưng lạc đà, và cho chúng rơm cùng thức ăn, La-ban mang nước ra cho người đầy tớ Áp-ra-ham và những người đồng hành rửa chân. 33 Sau đó La-ban mời người đầy tớ dùng bữa. Nhưng ông ta nói, “Tôi sẽ không ăn cho đến khi tôi thuật cho quí vị biết lý do tại sao tôi đến đây.”
La-ban bảo, “Vậy ông cứ nói đi.”
34 Ông bắt đầu kể, “Tôi là đầy tớ của Áp-ra-ham. 35 CHÚA đã ban phúc rất nhiều cho chủ tôi về mọi mặt, nên chủ tôi rất giàu. CHÚA ban cho chủ tôi vô số cừu, gia súc, bạc và vàng, tôi trai tớ gái, lạc đà, và lừa. 36 Sa-ra, vợ của chủ tôi, sinh được một con trai trong tuổi già nua. Chủ tôi đã giao hết tài sản của mình cho người con ấy. 37 Chủ tôi đã buộc tôi hứa như sau, ‘Đừng bao giờ kiếm vợ cho con trai ta trong vòng các thiếu nữ Ca-na-an, mặc dù ta đang sống giữa họ, 38 nhưng hãy về nhà thân nhân cha ta và gia đình ta để kiếm vợ cho con ta.’ 39 Tôi hỏi chủ tôi như sau, ‘Nếu người con gái ấy không chịu theo tôi về đây thì sao?’ 40 Chủ tôi bảo, ‘Ta phục vụ Thượng Đế. Ngài sẽ sai thiên sứ Ngài đi với con và giúp đỡ con. Con sẽ tìm được một người vợ cho con trai ta trong vòng thân tộc của cha ta. 41 Nếu họ không chịu gả con gái để làm vợ cho con ta thì con khỏi thất hứa.’
42 Hôm nay trong khi đang ngồi ở suối nước nầy tôi thầm nguyện: Lạy CHÚA là Thượng Đế của Áp-ra-ham chủ con, xin cho chuyến đi của con thành công. 43 Con đang đứng cạnh suối nước nầy chờ một thiếu nữ đi ra lấy nước. Con sẽ xin cô đó, ‘Cô làm ơn cho tôi uống chút nước trong bầu.’ 44 Nếu cô nói, ‘Xin ông cứ uống đi, rồi tôi sẽ lấy nước cho lạc đà ông uống nữa.’ Nhờ dấu hiệu đó con sẽ biết rằng, CHÚA đã chọn người cho con của chủ con.
45 Trước khi dứt lời thầm nguyện thì Rê-be-ca từ thành ra vác bầu nước trên vai. Cô ta đi thẳng xuống suối lấy nước. Tôi nói với cô, ‘Cô làm ơn cho tôi xin hớp nước để uống.’ 46 Cô vội vàng hạ bầu nước trên vai xuống và bảo, ‘Ông uống đi rồi tôi sẽ lấy nước cho lạc đà ông uống nữa.’ Khi tôi uống xong, cô mang nước cho lạc đà của tôi. 47 Rồi tôi hỏi cô, ‘Cha cô là ai?’ Cô đáp, ‘Cha tôi là Bê-thu-ên, con của Minh-ca và Na-ho.’ Sau đó tôi đặt chiếc nhẫn nơi mũi cô và đeo chiếc vòng nơi tay cô. 48 Tôi cúi đầu cảm tạ CHÚA. Tôi ca ngợi CHÚA, Thượng Đế của chủ tôi, là Áp-ra-ham, vì Ngài đã dẫn tôi đi đúng đường đến cô con gái của em trai chủ tôi để chọn nàng làm vợ cho con chủ tôi. 49 Bây giờ xin quí vị hãy đối xử tốt và thành thật cùng chủ tôi. Nếu không cũng xin cho biết để tôi liệu.”
50 La-ban và Bê-thu-ên đáp, “Việc nầy rõ ràng là do CHÚA sắp đặt, chúng ta không thể thay đổi được. 51 Rê-be-ca thuộc về gia đình anh rồi đó. Mang nó đi về đi, để nó kết hôn với con trai chủ anh theo như CHÚA đã định.”
52 Nghe vậy, người đầy tớ của Áp-ra-ham liền sấp mặt xuống đất trước mặt CHÚA. 53 Rồi ông trao cho Rê-be-ca nữ trang bằng vàng, bạc và áo quần. Ông cũng biếu cho anh cô và mẹ cô nhiều tặng phẩm quí giá. 54 Người đầy tớ cùng các bạn đồng hành dùng bữa và nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau khi thức dậy, người đầy tớ bảo, “Tôi xin phép trở về với chủ tôi.”
55 Mẹ và anh Rê-be-ca nói, “Hãy để Rê-be-ca ở thêm với chúng tôi ít nhất mười ngày nữa rồi hãy đi.”
56 Nhưng người đầy tớ đáp, “Xin đừng bắt tôi chờ vì CHÚA đã giúp chuyến đi của tôi thành công. Thôi xin để tôi trở về với chủ tôi.”
57 Mẹ và anh Rê-be-ca bảo, “Để gọi hỏi nó xem nó muốn sao.” 58 Họ gọi và hỏi cô, “Con có muốn đi với người nầy ngay bây giờ không?” Cô đáp, “Dạ, con muốn đi.”
59 Vậy họ để Rê-be-ca cùng người vú nuôi đi với người đầy tớ của Áp-ra-ham và những người đồng hành. 60 Họ chúc phước cho Rê-be-ca như sau,
“Em ơi, nguyện em làm mẹ của hàng ngàn người,
nguyện dòng dõi em chiếm được thành quân thù.”
61 Rồi Rê-be-ca cùng những người đầy tớ gái của cô leo lên lưng lạc đà đi theo người đầy tớ Áp-ra-ham và các người đồng hành. Người đầy tớ lên đường, mang theo Rê-be-ca.
62 Lúc đó Y-sác đã rời Bê-e La-chai-roi và đang sống ở vùng Nê-ghép. 63 Một buổi chiều nọ khi ông đang đi ra đồng để trầm tư [ai], Y-sác ngước lên thấy một đoàn lạc đà đang đến.
64 Rê-be-ca cũng nhìn và trông thấy Y-sác. Cô vội vàng xuống khỏi lạc đà 65 và hỏi người đầy tớ, “Người đang đi trong đồng ra đón chúng ta là ai vậy?”
Người đầy tớ đáp, “Chủ tôi đó.” Rê-be-ca vội vàng lấy tấm khăn mỏng che mặt mình.
66 Người đầy tớ thuật lại cho Y-sác nghe mọi việc. 67 Y-sác đưa Rê-be-ca vào lều của Sa-ra, rồi lấy nàng làm vợ. Y-sác yêu quí Rê-be-ca, nên rất được an ủi sau khi mẹ ông qua đời.
Gia đình của Áp-ra-ham
25 Áp-ra-ham lại cưới vợ và kết hôn với Kê-tu-ra. 2 Bà sinh ra Xim-ran, Giốc-san, Mê-đan, Mi-đi-an, Ích-bát, và Su-a. 3 Giốc-san sinh ra Sê-ba và Đê-đan. Dòng dõi của Đê-đan là các dân A-xy-ri, Lê-úc, và Lê-um. 4 Các con của Mi-đi-an là Ê-pha, Ê-phe, Ha-nốc, A-bi-đa, và Ên-đa-a. Tất cả những người đó là dòng dõi của Kê-tu-ra. 5 Áp-ra-ham để lại tất cả tài sản của mình cho Y-sác. 6 Tuy nhiên trước khi qua đời, Áp-ra-ham có chia ít tài sản cho các con của các bà vợ khác rồi cho họ đi qua cư ngụ vùng phía đông, xa khỏi Y-sác.
7 Áp-ra-ham hưởng thọ 175 tuổi. 8 Ông trút hơi thở cuối cùng và qua đời khi cao tuổi, sau khi sống một cuộc đời mãn nguyện. 9 Các con trai ông là Y-sác và Ích-ma-ên chôn cất ông trong hang Mặc-bê-la trong ruộng của Ép-rôn nằm về phía đông Mam-rê. (Ép-rôn là con của Xô-ha, người Hê-tít.) 10 Áp-ra-ham được chôn cất chung chỗ với Sa-ra, trong cùng thửa ruộng mà ông đã mua từ người Hê-tít. 11 Sau khi Áp-ra-ham qua đời, Thượng Đế ban phước cho con ông là Y-sác. Lúc ấy Y-sác đang sống ở Bê-e La-chai-roi.
12 Sau đây là gia phổ của Ích-ma-ên, con của Áp-ra-ham và Ha-ga (người Ai-Cập, nữ nô lệ của Sa-ra). 13 Tên của các con Ích-ma-ên theo thứ tự sinh ra như sau: Nê-bai-ốt là con trưởng nam, rồi đến Kê-đa, Át-bê-ên, Míp-sam, 14 Mích-ma, Đu-ma, Ma-xa, 15 Ha-đát, Thê-ma, Giê-tua, Na-phích và Kê-đê-ma. 16 Đó là mười hai con trai của Ích-ma-ên và là trưởng tộc. Gia tộc của mỗi người con đều có nơi định cư và địa điểm đóng trại riêng. 17 Ích-ma-ên hưởng thọ một trăm ba mươi bảy tuổi khi trút hơi thở cuối cùng. Ông qua đời và được mai táng. 18 Dòng dõi của người sống trong vùng từ Ha-vi-la cho đến Su-rơ về phía đông Ai-cập kéo dài đến xứ A-xy-ri. Họ thường định cư gần các anh em mình [aj].
Gia đình Y-sác
19 Sau đây là dòng dõi Y-sác. Áp-ra-ham sinh một con trai tên Y-sác.
Footnotes
- Sáng Thế 11:28 U-rơ thuộc miền Ba-by-lôn Nguyên văn, “U-rơ thuộc vùng đất của người Canh-đê.” Đây là một thành phố thuộc miền nam Ba-by-lôn.
- Sáng Thế 12:7 CHÚA hiện ra Thượng Đế thường hay dùng những hình dạng đặc biệt để người ta nhận ra Ngài. Có khi Ngài hiện ra như một người, một thiên sứ, một đám lửa, hay ánh sáng chói lọi.
- Sáng Thế 12:8 A-hi Nghĩa là “nơi đổ nát.”
- Sáng Thế 13:3 A-hi Nghĩa là “chỗ đổ nát.”
- Sáng Thế 14:1 Ba-by-lôn Hay “Xi-na.”
- Sáng Thế 14:6 Sê-ia Hay “Ê-đôm.”
- Sáng Thế 14:6 Ên Pha-ran Có lẽ là thị trấn Ê-lát thuộc vùng cực nam của Ít-ra-en, gần Hồng hải.
- Sáng Thế 14:8 thung lũng Xi-đim Vùng thung lũng hay bình nguyên dọc theo bờ biển phía Đông hay Đông Nam của Biển Chết.
- Sáng Thế 14:9 Ba-by-lôn Hay “Xi-na.”
- Sáng Thế 15:17 nồi lửa bốc khói Đây là một nồi bằng đất đựng than lửa để mồi lửa.
- Sáng Thế 15:17 đi qua lại … súc vật Điều nầy cho thấy Thượng Đế đã cam kết hay “đóng ấn” giao ước mà Ngài lập cùng Áp-ram. Thời xưa người ta muốn chứng tỏ lòng thành thật khi cam kết thì người ta đi qua lại giữa các phần của các con thú đã được cắt ra và nói “Nếu tôi không giữ được giao ước thì tôi sẽ bị phân thây như thế nầy.”
- Sáng Thế 15:18 sông Ai-cập Đây là suối mang tên “Hoa-đi En-A-rít.”
- Sáng Thế 16:11 Ích-ma-ên Có nghĩa là “CHÚA nghe.”
- Sáng Thế 16:12 Nó sẽ … anh em mình Hay “Nó sẽ sống chung với những người khác.”
- Sáng Thế 16:14 Bia-la-hai-roi Nghĩa là “Giếng của Đấng nhìn thấy tôi.”
- Sáng Thế 17:1 Thượng Đế Toàn Năng Nguyên văn, “En Sa-đai.”
- Sáng Thế 17:5 Áp-ram Nghĩa là “cha đáng kính.”
- Sáng Thế 17:5 Áp-ra-ham Nghĩa là “cha vĩ đại” hay “cha của nhiều người.”
- Sáng Thế 17:14 bị loại khỏi dân tộc mình Nghĩa là người ấy phải bị trục xuất ra khỏi gia đình và mất phần gia sản của mình.
- Sáng Thế 17:15 Sa-rai Tiếng A-ram có nghĩa là “công chúa.”
- Sáng Thế 17:19 Y-sác Nghĩa là “cười” hay “vui mừng.”
- Sáng Thế 18:3 Thưa quí ông Cụm từ nầy trong tiếng Hê-bơ-rơ nghĩa là “các Ngài” hay “các Chúa.” Danh xưng nầy cho thấy đây không phải là ba người thường.
- Sáng Thế 19:8 Tôi có bổn phận phải bảo vệ họ Khi một người mời ai vào nhà mình làm khách thì đương nhiên chủ nhà cam kết bảo vệ người ấy.
- Sáng Thế 19:37 Mô-áp Trong tiếng Hê-bơ-rơ từ ngữ nầy nghe như “từ cha mà ra.”
- Sáng Thế 19:38 Bên-Am-mi Trong tiếng Hê-bơ-rơ từ nầy có nghĩa “con của cha tôi.”
- Sáng Thế 21:9 cười giỡn Vài bản Hi-lạp và La-tinh ghi thêm “đùa giỡn với Y-sác, con trai mình.”
- Sáng Thế 21:28 bảy Trong tiếng Hê-bơ-rơ chữ “bảy” nghe như “thề nguyền” hay “cam kết.” Đó là phần cuối của tên Bê-e-sê-ba. Bảy con thú vật là bằng chứng về lời hứa nầy.
- Sáng Thế 21:31 Bê-e-sê-ba Nghĩa là “giếng thề nguyện.”
- Sáng Thế 22:14 Nơi CHÚA Cung Ứng Hay “Nơi CHÚA Hiện Ra.”
- Sáng Thế 22:14 “Trên hòn núi … cung ứng.” Hay “Hòn Núi của CHÚA mà người ta sẽ thấy.”
- Sáng Thế 23:6 bậc đáng trọng Nguyên văn, “hoàng tử của Thượng Đế” hay “đại lãnh tụ.”
- Sáng Thế 23:15 mười cân Nguyên văn, “400 sê-ken” (khoảng 4 kí rưỡi). Xem thêm câu 16.
- Sáng Thế 23:16 nhà buôn Người sống bằng nghề buôn bán. Ở đây có thể là người trung gian giúp Áp-ra-ham và Ép-rôn viết khế ước như trong câu 17 và 18.
- Sáng Thế 24:2 đặt tay con lên đùi ta Nguyên văn, “đặt tay con dưới đùi ta.” Đây là một dấu hiệu về một lời hứa quan trọng mà Áp-ra-ham muốn người đầy tớ mình phải giữ.
- Sáng Thế 24:63 đang đi … trầm tư Hay “đang tản bộ.”
- Sáng Thế 25:18 Họ thường định cư gần các anh em mình Câu nầy cũng có nghĩa “Họ thường tấn công anh em mình.”
Sáng Thế 11:27-17:11
Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version
Câu truyện về gia đình Thê-ra
27 Đây là gia phổ của Thê-ra. Thê-ra sinh Áp-ram, Na-ho, và Ha-ran. Ha-ran sinh ra Lót. 28 Ha-ran qua đời trong thành U-rơ thuộc miền Ba-by-lôn [a], nơi sinh trưởng, trong khi cha mình hãy còn sống. 29 Cả Áp-ram và Na-ho đều lập gia đình. Vợ Áp-ram tên Sa-rai, vợ Na-ho tên Minh-ca. Nàng là con gái Ha-ran, là người sinh ra Minh-ca và Ích-ca. 30 Sa-rai hiếm muộn không sinh con được.
31 Thê-ra mang Áp-ram, con mình, và Lót, cháu mình, con dâu Sa-rai tức vợ của Áp-ram, di cư ra khỏi thành U-rơ, xứ Ba-by-lôn. Họ dự định đi qua xứ Ca-na-an, nhưng đi đến thành Ha-ran thì định cư tại đó. 32 Thê-ra hưởng thọ 205 tuổi rồi qua đời tại Ha-ran.
Thượng Đế gọi Áp-ram
12 CHÚA bảo Áp-ram, “Hãy rời bỏ xứ sở,
thân nhân và gia đình cha con,
đi đến xứ ta sẽ chỉ cho.
2 Ta sẽ làm cho con trở thành một dân lớn
và sẽ ban phước cho con.
Ta sẽ khiến con nổi danh
và là nguồn phước cho nhiều người.
3 Ta sẽ ban phước cho kẻ chúc phước con
và nguyền rủa kẻ hại con.
Mọi dân tộc trên đất sẽ nhờ con
mà được phước.”
Áp-ram đi đến vùng Ca-na-an
4 Vậy Áp-ram rời Ha-ran theo như CHÚA đã dặn bảo, có Lót cùng đi. Lúc đó Áp-ram đã 75 tuổi. 5 Ông mang Sa-rai vợ mình, Lót cháu mình và mọi vật thuộc về mình cùng các đầy tớ ông đã có tại Ha-ran và lên đường ra đi, dự định đến đất Ca-na-an, sau cùng thì tới nơi. 6 Áp-ram đi qua suốt cả xứ đến tận cây sồi lớn Mô-rê thuộc Sê-chem. Lúc đó dân Ca-na-an đang cư ngụ trong xứ nầy.
7 CHÚA hiện ra [b] cùng Áp-ram và bảo, “Ta sẽ cấp đất nầy cho dòng dõi con.” Vì thế tại đó, Áp-ram xây một bàn thờ cho CHÚA, Đấng đã hiện ra cùng ông. 8 Rồi từ Sê-chem ông đi đến núi phía đông của Bê-tên và dựng trại tại đó. Bê-tên nằm về phía tây, còn A-hi [c] nằm về phía đông. Nơi ấy Áp-ram xây một bàn thờ nữa cho CHÚA và thờ phụng Ngài. 9 Rồi ông tiếp tục đi đến vùng Nê-ghép.
Áp-ram đi xuống Ai-cập
10 Lúc ấy trong xứ có cơn đói kém, nên Áp-ram đi xuống Ai-cập để sống, vì trong xứ không đủ lương thực. 11 Trước khi đến Ai-cập ông bảo Sa-rai vợ mình, “Anh biết em là người đàn bà đẹp. 12 Khi người Ai-cập thấy em họ sẽ bảo, ‘Cô nầy là vợ hắn.’ Họ sẽ giết anh và để em sống. 13 Nên em hãy bảo họ rằng em là em của anh, để họ biệt đãi anh, nhờ đó mạng sống anh được bảo toàn.”
14 Khi Áp-ram đến Ai-cập, người Ai-cập thấy Sa-rai rất đẹp. 15 Các quan chức Ai-cập thấy bà và trầm trồ với vua Ai-cập về nhan sắc Sa-rai. Họ đưa bà vào cung vua, 16 nhà vua đối xử rất tốt với Áp-ram, vì tưởng Áp-ram là anh Sa-rai. Vua cấp cho Áp-ram chiên, gia súc, lừa đực, lừa cái, tôi trai tớ gái và lạc đà rất nhiều.
17 Nhưng CHÚA giáng bệnh tật khủng khiếp trên vua và những gia nhân vì chuyện Sa-rai, vợ của Áp-ram. 18 Nên vua liền mời Áp-ram lại hỏi, “Anh làm gì cho ta vậy? Tại sao không nói thẳng với ta rằng Sa-rai là vợ anh? 19 Tại sao anh bảo, ‘Cô ta là em gái tôi’ để đến nỗi ta đã lấy nàng làm vợ? Bây giờ vợ anh đây. Nhận lại rồi đi đi!” 20 Rồi vua truyền cho thuộc cấp đưa Áp-ram ra khỏi Ai-cập. Vậy Áp-ram và vợ mình mang theo các tài sản đi ra khỏi xứ.
Áp-ram và Lót chia tay nhau
13 Áp-ram, vợ ông, và Lót rời Ai-cập mang theo các tài sản và đi về vùng Nê-ghép, miền nam Ca-na-an. 2 Áp-ram rất giàu, có vô số gia súc, bạc và vàng.
3 Sau đó ông rời vùng Nê-ghép trở về lại Bê-tên, nơi ông dựng trại trước kia, tức nơi nằm giữa Bê-tên và A-hi [d], 4 là chỗ ông đã xây một bàn thờ. Vậy ông thờ phụng CHÚA tại đó.
Áp-ram và Lót chia rẽ nhau
5 Trong thời gian cùng đi với Áp-ram, Lót cũng có rất nhiều bầy gia súc và lều trại. 6 Áp-ram và Lót có quá nhiều gia súc đến nỗi đất không đủ cho cả hai người cư ngụ, 7 vì thế mà những bọn chăn gia súc của Áp-ram và Lót bắt đầu gây sự với nhau. Trong khi đó dân Ca-na-an và dân Phê-ri-xít đang sống trong xứ.
8 Áp-ram bảo Lót, “Bác với cháu không nên gây sự với nhau làm gì, và bọn chăn gia súc chúng ta cũng không nên cãi nhau vì chúng ta là thân nhân ruột thịt. 9 Thôi chúng ta nên chia tay nhau. Cả xứ ở trước mặt cháu đó. Nếu cháu chọn phía Bắc, bác sẽ đi phía Nam. Nếu cháu chọn phía Nam, bác sẽ đi phía Bắc.”
10 Lót nhìn quanh thấy toàn vùng thung lũng sông Giô-đanh có nhiều nước, giống như vườn của CHÚA, như xứ Ai-cập về hướng Xoa. (Đó là trước khi CHÚA hủy diệt Xô-đôm và Gô-mô-rơ.) 11 Vì thế Lót chọn vùng phía Đông và định cư trong thung lũng sông Giô-đanh. Vậy là Áp-ram và Lót chia tay nhau. 12 Áp-ram sống trong xứ Ca-na-an, còn Lót sống trong các thành phố nằm trong thung lũng sông Giô-đanh, rồi dời lều đến Xô-đôm. 13 Dân Xô-đôm rất độc ác và phạm tội nặng cùng CHÚA.
14 Sau khi Lót ra đi rồi, CHÚA bảo Áp-ram, “Hãy nhìn quanh con từ bắc đến nam, từ đông sang tây. 15 Tất cả vùng đất mà con nhìn thấy, ta sẽ ban cho con và dòng dõi con đời đời. 16 Ta sẽ khiến cho dòng dõi con đông như cát bụi trên đất. Ai có thể đếm được cát bụi trên đất mới có thể đếm được con cháu con. 17 Hãy đứng dậy! Đi khắp vùng đất mà ta sẽ cấp cho con.”
18 Vậy Áp-ram dời trại và đi đến định cư gần các cây sồi lớn tại Mam-rê nơi thành Hếp-rôn. Ông xây một đền thờ cho CHÚA tại đó.
Lót bị giặc bắt
14 Lúc ấy Am-ra-phên làm vua vùng đất Ba-by-lôn [e], A-ri-ốc là vua Ê-la-sa, Kết-rô-lao-me là vua Ê-lam, còn Ti-đan là vua Gô-im. 2 Tất cả các vua nầy họp nhau lại đánh các vua: Bê-ra của Xô-đôm, Biếc-sa, vua Gô-mô-rơ, Si-náp vua Ách-ma, Sê-mê-be vua Giê-bô-im và vua của Bê-la. (Bê-la cũng có tên là Xoa.)
3 Các vua bị tấn công tập họp các đạo quân trong thung lũng Xi-đim (bây giờ là Biển Chết). 4 Trước đây họ thần phục Kết-rô-lao-me trong mười hai năm, nhưng đến năm thứ mười ba thì họ dấy loạn. 5 Đến năm thứ mười bốn, Kết-rô-lao-me, cùng các vua đồng minh, tiến đánh và thắng dân Rê-pha-ít trong vùng Ách-tê-rốt Ka-na-im, dân Giu-xít trong vùng Cham, và dân Ê-mít trong vùng Sa-vê Ki-ri-át-tha-im. 6 Họ cũng đánh thắng dân Hô-rít trong vùng đồi núi Sê-ia [f] đến tận Ên Pha-ran [g] gần sa mạc. 7 Xong họ trở về tiến đánh Ên-mích-phát tức Ca-đe. Họ đánh thắng dân A-ma-léc, dân A-mô-rít sống trong vùng Ha-xa-xôn Tha-ma.
8 Lúc đó các vua Xô-đôm, Gô-mô-rơ, Ách-ma, Giê-bô-im và Bê-la giàn trận trong thung lũng Xi-đim [h]. (Bê-la còn có tên là Xoa.) 9 Họ đánh nhau với Kết-rô-lao-me, vua Ê-lam; Ti-đan, vua Gô-im; Am-ra-phên, vua Ba-by-lôn [i]; và A-ri-ốc, vua Ê-la-xa; bốn vua chống năm vua.
10 Trong thung lũng Xi-đim có nhiều hố nhựa chai. Khi các vua Xô-đôm và Gô-mô-rơ cùng đạo quân họ bỏ chạy thì một số quân sĩ rơi vào trong các hố nhựa chai, nhưng số còn lại chạy trốn lên núi.
11 Bấy giờ vua Kết-rô-lao-me và đạo quân ông đoạt hết tài sản của dân Xô-đôm và Gô-mô-rơ, kể luôn thực phẩm của họ. 12 Họ cũng bắt Lót, cháu Áp-ram đang cư ngụ tại Xô-đôm, và đoạt hết tài sản ông ta rồi bỏ đi. 13 Một trong những người trốn thoát được đến báo với Áp-ram, người Do-Thái, thuật lại cho ông nghe mọi việc. Trong lúc đó Áp-ram đang dựng lều gần các cây sồi lớn của Mam-rê người A-mô-rít. Mam-rê là anh của Ết-côn và A-ne. Họ đồng ý họp nhau giúp Áp-ram.
Áp-ram giải cứu Lót
14 Khi Áp-ram nghe tin Lót đã bị giặc bắt, ông liền tập họp 318 gia nhân đã được huấn luyện thuần thục, sinh trưởng trong trại mình. Ông hướng dẫn họ rượt đuổi quân thù cho đến thành Đan. 15 Đêm đó ông chia gia nhân ra thành nhiều toán, mở cuộc tấn công bất ngờ quân thù. Họ rượt đuổi chúng chạy tới Hô-ba, phía bắc thành Đa-mách. 16 Áp-ram mang về đầy đủ mọi thứ giặc đã cướp, cùng các đàn bà và nhiều người khác, luôn cả Lót và tài sản ông ta nữa.
17 Sau khi đánh thắng Kết-rô-lao-me và các vua đồng minh, Áp-ram trở về. Trên đường về, vua Xô-đôm ra đón ông tại thung lũng Sa-ve, bây giờ gọi là Thung lũng Vua.
Mên-chi-xê-đéc
18 Mên-chi-xê-đéc mang bánh và rượu ra. Ông là thầy tế lễ của Thượng Đế Tối Cao 19 và chúc phước cho Áp-ram như sau,
“Áp-ram ơi, nguyện ông được Thượng Đế Tối Cao,
Đấng sáng tạo trời đất, ban phúc lành.
20 Chúc tụng Thượng Đế Tối Cao,
Đấng đã giúp ông thắng quân thù.”
Rồi Áp-ram lấy một phần mười chiến lợi phẩm dâng cho Mên-chi-xê-đéc. 21 Vua Xô-đôm bảo Áp-ram, “Ông hãy giữ những thứ nầy cho mình đi. Chỉ giao lại cho tôi những người bị bắt thôi.”
22 Nhưng Áp-ram bảo vua Xô-đôm rằng, “Tôi đã hứa với CHÚA, Thượng Đế Tối Cao, Đấng dựng nên trời đất, 23 rằng những gì thuộc về vua tôi sẽ không giữ, dù một sợi chỉ hay một sợi dây giày đi nữa, để vua khỏi nói rằng, ‘Nhờ ta mà Áp-ram được giàu có.’ 24 Tôi chỉ giữ lại bằng số thực phẩm mà các thanh niên trai tráng đã ăn thôi. Nhưng hãy cấp cho A-ne, Ết-côn và Mam-rê phần của họ trong số chiến lợi phẩm thu được, vì họ cùng tham chiến với tôi.”
Giao ước của Thượng Đế với Áp-ram
15 Sau các việc ấy CHÚA phán với Áp-ram trong một sự hiện thấy, “Áp-ram ơi, đừng sợ. Ta sẽ bảo vệ con, ta sẽ cho con phần thưởng lớn.”
2 Nhưng Áp-ram thưa, “Lạy CHÚA là Thượng Đế, CHÚA sẽ ban gì cho con? Con không có con trai, nên sau khi con qua đời thì Ê-li-ê-xe, người nô lệ từ Đa-mách sẽ hưởng hết tài sản của con.” 3 Áp-ram tiếp, “CHÚA xem, Ngài không cho con đứa con trai nào, nên kẻ nô lệ được sinh trong nhà con sẽ hưởng tài sản của con.”
4 Nhưng CHÚA phán cùng Áp-ram rằng, “Kẻ nô lệ đó không phải là người thừa hưởng tài sản con đâu. Con sẽ có một con trai ruột, là người sẽ hưởng tài sản con.”
5 Rồi Thượng Đế dẫn Áp-ram ra ngoài và bảo, “Hãy ngước nhìn bầu trời! Các ngôi sao nhiều vô số không thể đếm nổi. Con cháu con cũng đông như vậy.”
6 Áp-ram tin CHÚA. Ngài chấp nhận ông. Đức tin ấy khiến ông trở nên công chính trước mặt CHÚA. 7 CHÚA bảo Áp-ram, “Ta là CHÚA, đã đem con ra khỏi thành U-rơ, xứ Canh-đê, để cấp cho con đất nầy.”
8 Nhưng Áp-ram thưa, “Lạy CHÚA là Thượng Đế, làm sao con biết chắc con sẽ hưởng đất nầy?”
9 CHÚA bảo Áp-ram, “Hãy mang cho ta một con bò cái tơ ba tuổi, một con dê ba tuổi, một con chiên đực ba tuổi, một con cu đất và một con bồ câu con.”
10 Áp-ram mang các súc vật ấy đến cùng Thượng Đế. Ông giết các súc vật, chặt ra làm đôi, đặt mỗi nửa miếng đối diện nhau. Nhưng ông không chặt các con chim ra làm đôi. 11 Sau đó có các con chim lớn đáp xuống định ăn thịt các súc vật ấy, nhưng Áp-ram đuổi chúng đi.
12 Khi mặt trời lặn, thì Áp-ram ngủ mê. Trong khi ông đang ngủ, một bóng tối kinh khiếp ập đến. 13 CHÚA phán cùng Áp-ram rằng, “Con có thể biết chắc rằng, con cháu con sẽ phải đi qua xứ khác, làm người nước ngoài. Tại đó dân bản xứ sẽ bắt chúng nó làm nô lệ trong bốn trăm năm. 14 Nhưng ta sẽ phạt dân tộc đã bắt chúng làm nô lệ. Con cháu con sẽ ra khỏi xứ ấy, mang theo nhiều tài sản.
15 Phần con, Áp-ram, con sẽ qua đời bình yên và được chôn cất lúc cao tuổi. 16 Sau khi cháu chít con ra đời, chúng nó sẽ về lại xứ nầy. Phải cần thời gian lâu như thế vì ta chưa sẵn sàng trừng phạt tội ác dân A-mô-rít.”
17 Sau khi mặt trời lặn thì trời tối sầm lại. Bỗng nhiên có một nồi lửa bốc khói [j] và một cây đuốc cháy sáng đi qua lại giữa các phần thịt đã chặt của các súc vật [k] dâng lễ.
18 Ngày đó CHÚA lập giao ước với Áp-ram. Ngài nói, “Ta sẽ ban cho dòng dõi con vùng đất nằm giữa sông Ai-cập [l] và sông lớn Ơ-phơ-rát. 19 Đó là đất của dân Kê-nít, dân Kê-ni-xít, dân Cát-mô-nít, 20 dân Hi-tít, dân Phê-ri-sít, dân Rê-pha-ít, 21 dân A-mô-rít, dân Ca-na-an, dân Ghi-rê-sít và dân Giê-bu-sít.”
Ích-ma-ên ra đời
16 Sa-rai, vợ Áp-ram không có con nhưng bà có một cô nô lệ người Ai-cập tên Ha-ga. 2 Sa-rai bảo Áp-ram, “CHÚA không cho tôi sinh con, nên ông hãy đến với đứa nô lệ tôi. Nếu nó sinh con thì có thể tôi có gia đình đầy đủ qua nó.” Áp-ram làm theo lời Sa-rai.
3 Mười năm sau khi sinh sống ở Ca-na-an thì Sa-rai đưa Ha-ga cho chồng mình là Áp-ram để làm vợ. Ha-ga là nữ nô lệ của Sa-rai từ Ai-cập. 4 Áp-ram ăn nằm với Ha-ga. Nàng mang thai. Khi biết mình mang thai, Ha-ga không còn kính trọng bà chủ mình là Sa-rai như trước nữa. 5 Nên Sa-rai bảo Áp-ram, “Lỗi nầy là do ông. Tôi giao con nô lệ tôi cho ông, mà từ khi mang thai nó xem thường tôi. Hãy để CHÚA phân xử xem ai phải, ông hay tôi.”
6 Nhưng Áp-ram bảo Sa-rai, “Em là chủ của con nô lệ. Muốn xử sao đối với nó cũng được tùy ý.” Sa-rai liền hành hạ Ha-ga nên Ha-ga bỏ trốn.
Ích-ma-ên, con trai của Ha-ga
7 Thiên sứ của CHÚA thấy Ha-ga ngồi bên giếng nước trong sa mạc, nơi con đường dẫn đến Su-rơ. 8 Thiên sứ hỏi, “Ha-ga, nô lệ của Sa-rai, cô từ đâu đến đây? Cô định đi đâu?”
Ha-ga đáp, “Tôi chạy trốn khỏi chủ tôi là Sa-rai.”
9 Thiên sứ của CHÚA bảo, “Cô hãy trở về với chủ và phục tùng bà ấy.” 10 Thiên sứ tiếp, “Tôi sẽ làm cho dòng dõi cô đông đến nỗi không thể đếm được.”
11 Thiên sứ tiếp,
“Cô hiện đang mang thai.
Cô sẽ sinh con trai.
Hãy đặt tên nó là Ích-ma-ên [m]
vì CHÚA đã nghe biết cô bị ngược đãi.
12 Ích-ma-ên sẽ giống như con lừa hoang.
Nó sẽ chống lại mọi người,
còn mọi người cũng sẽ chống nó.
Nó sẽ tấn công tất cả các anh em mình [n].”
13 Cô nô lệ đặt tên cho CHÚA, Đấng đã nói chuyện cùng mình. Cô bảo, “Ngài là ‘Thượng Đế, Đấng nhìn thấy tôi,’” vì cô tự nhủ, “Phải chăng tôi đã nhìn thấy Thượng Đế, mà vẫn còn sống?” 14 Ở đó có cái giếng, nằm giữa Ka-đe và Bê-rết, giếng đó mang tên Bia-la-hai-roi [o].
15 Ha-ga sinh một trai cho Áp-ram. Áp-ram đặt tên nó là Ích-ma-ên. 16 Khi Ha-ga sinh Ích-ma-ên thì Áp-ram được tám mươi sáu tuổi.
Phép cắt dương bì—Bằng chứng về giao ước
17 Khi Áp-ram được 99 tuổi, thì CHÚA hiện ra cùng ông và bảo, “Ta là Thượng Đế Toàn Năng [p]. Hãy vâng lời ta và làm điều phải. 2 Ta sẽ lập giao ước giữa chúng ta. Ta sẽ làm cho con trở thành ông tổ của nhiều người.”
3 Áp-ram liền cúi mọp mình xuống đất. Thượng Đế bảo ông, 4 “Ta đang lập giao ước với con: Ta sẽ khiến con trở thành cha của nhiều dân tộc. 5 Nay ta đổi tên con từ Áp-ram [q] ra Áp-ra-ham [r] vì ta sẽ khiến con trở nên cha của nhiều dân tộc. 6 Ta sẽ làm cho dòng dõi con đông đảo. Nhiều dân tộc sẽ từ con mà ra, nhiều vua cũng sẽ là dòng dõi của con. 7 Từ nay ta sẽ lập giao ước giữa ta với con và dòng dõi con: Ta sẽ làm Thượng Đế con và là Thượng Đế của tất cả dòng dõi con. 8 Hiện con đang sống trong xứ Ca-na-an như dân tạm trú, nhưng ta sẽ cấp xứ nầy cho con và dòng dõi con đời đời. Ta sẽ làm Thượng Đế của dòng dõi con.”
9 Rồi CHÚA phán cùng Áp-ra-ham, “Từ nay về sau con và dòng dõi con phải giữ giao ước nầy. 10 Giao ước giữa ta với con và dòng dõi con mà các con phải giữ như sau: Mọi người nam trong các con phải chịu cắt dương bì. 11 Hãy cắt da qui đầu để làm dấu hiệu về giao ước giữa ta với con.
Footnotes
- Sáng Thế 11:28 U-rơ thuộc miền Ba-by-lôn Nguyên văn, “U-rơ thuộc vùng đất của người Canh-đê.” Đây là một thành phố thuộc miền nam Ba-by-lôn.
- Sáng Thế 12:7 CHÚA hiện ra Thượng Đế thường hay dùng những hình dạng đặc biệt để người ta nhận ra Ngài. Có khi Ngài hiện ra như một người, một thiên sứ, một đám lửa, hay ánh sáng chói lọi.
- Sáng Thế 12:8 A-hi Nghĩa là “nơi đổ nát.”
- Sáng Thế 13:3 A-hi Nghĩa là “chỗ đổ nát.”
- Sáng Thế 14:1 Ba-by-lôn Hay “Xi-na.”
- Sáng Thế 14:6 Sê-ia Hay “Ê-đôm.”
- Sáng Thế 14:6 Ên Pha-ran Có lẽ là thị trấn Ê-lát thuộc vùng cực nam của Ít-ra-en, gần Hồng hải.
- Sáng Thế 14:8 thung lũng Xi-đim Vùng thung lũng hay bình nguyên dọc theo bờ biển phía Đông hay Đông Nam của Biển Chết.
- Sáng Thế 14:9 Ba-by-lôn Hay “Xi-na.”
- Sáng Thế 15:17 nồi lửa bốc khói Đây là một nồi bằng đất đựng than lửa để mồi lửa.
- Sáng Thế 15:17 đi qua lại … súc vật Điều nầy cho thấy Thượng Đế đã cam kết hay “đóng ấn” giao ước mà Ngài lập cùng Áp-ram. Thời xưa người ta muốn chứng tỏ lòng thành thật khi cam kết thì người ta đi qua lại giữa các phần của các con thú đã được cắt ra và nói “Nếu tôi không giữ được giao ước thì tôi sẽ bị phân thây như thế nầy.”
- Sáng Thế 15:18 sông Ai-cập Đây là suối mang tên “Hoa-đi En-A-rít.”
- Sáng Thế 16:11 Ích-ma-ên Có nghĩa là “CHÚA nghe.”
- Sáng Thế 16:12 Nó sẽ … anh em mình Hay “Nó sẽ sống chung với những người khác.”
- Sáng Thế 16:14 Bia-la-hai-roi Nghĩa là “Giếng của Đấng nhìn thấy tôi.”
- Sáng Thế 17:1 Thượng Đế Toàn Năng Nguyên văn, “En Sa-đai.”
- Sáng Thế 17:5 Áp-ram Nghĩa là “cha đáng kính.”
- Sáng Thế 17:5 Áp-ra-ham Nghĩa là “cha vĩ đại” hay “cha của nhiều người.”
© 2010 Bible League International