Add parallel Print Page Options

Nguồn gốc thế giới

Ban đầu Thượng Đế tạo nên trời và đất. Lúc bấy giờ đất trống không và vô hình dạng. Bóng tối bao trùm vực thẳm, còn Thần Linh của Thượng Đế bay là là [a] trên mặt nước.

Ngày thứ nhất—Ánh sáng

Thượng Đế phán, “Ánh sáng hãy xuất hiện,” thì liền có ánh sáng. Thượng Đế nhận thấy ánh sáng thật tốt lành, nên Ngài phân ánh sáng ra với bóng tối. Ngài gọi ánh sáng là “ngày” và bóng tối là “đêm.” Buổi chiều qua đi, buổi sáng đến. Đó là ngày đầu tiên.

Ngày thứ hai—Bầu trời

Sau đó Thượng Đế phán, “Phải có một cái vòm [b] phân chia nước ra làm hai.” Nên Thượng Đế tạo cái vòm để chứa một số nước ở phía trên khoảng không và một số nước bên dưới khoảng không ấy. Thượng Đế gọi khoảng không là “bầu trời.” Buổi chiều qua, buổi sáng đến. Đó là ngày thứ hai.

Ngày thứ ba—Đất khô và thảo mộc

Rồi Thượng Đế phán, “Nước ở dưới trời phải gom lại một chỗ để đất khô hiện ra.” Sự việc liền xảy ra như thế. 10 Ngài gọi chỗ khô ráo là “đất” và chỗ nước tụ lại là “biển.” Thượng Đế thấy điều đó thật tốt lành.

11 Sau đó Thượng Đế phán, “Đất phải sinh ra cây cối, một vài loại sinh ra hột giống và loại khác sinh ra trái cây có hột. Mỗi loại hột sẽ sinh ra nhiều cây khác cùng giống.” Sự việc liền xảy ra như Ngài phán. 12 Đất sinh ra cây có hột giống, có thứ cây sinh ra trái có hột. Mỗi hột giống tạo ra cây cùng loại. Thượng Đế thấy điều đó thật tốt lành. 13 Buổi chiều qua, buổi sáng đến. Đó là ngày thứ ba.

Ngày thứ tư—Mặt trời, mặt trăng và các ngôi sao

14 Rồi Thượng Đế phán, “Phải có các đèn sáng trên trời để phân biệt ngày với đêm. Các đèn đó sẽ dùng làm dấu hiệu chỉ mùa, ngày và năm [c]. 15 Các đèn trên trời sẽ chiếu sáng đất.”

Sự việc liền xảy ra như vậy.

16 Nên Thượng Đế tạo ra hai cái đèn lớn. Ngài làm cái đèn sáng hơn để cai trị ban ngày, còn đèn nhỏ hơn để cai trị ban đêm. Ngài cũng tạo ra các ngôi sao. 17 Ngài đặt tất cả những vật đó trong bầu trời để chiếu sáng đất 18 và dùng cai trị ngày và đêm, cùng để phân biệt ánh sáng với bóng tối. Thượng Đế thấy tất cả những điều đó thật tốt lành. 19 Buổi chiều qua, buổi sáng đến. Đó là ngày thứ tư.

Ngày thứ năm—Chim và Cá

20 Sau đó Thượng Đế phán, “Nước phải chứa đầy các sinh vật, chim phải bay trong vòm trời phía trên mặt đất.”

21 Cho nên Thượng Đế tạo ra các quái vật dưới biển cùng các sinh vật sống trong biển. Biển đầy dẫy các loài đó, mỗi loài sinh ra nhiều con khác cùng giống. Ngài cũng tạo các loài chim bay, mỗi loài chim sinh sản ra các con cùng giống. Thượng Đế thấy những điều đó thật tốt lành. 22 Thượng Đế ban phước cho chúng và phán, “Hãy sinh sản cho nhiều để làm cho đầy biển, chim cũng phải sinh ra thật đông trên đất.” 23 Buổi chiều qua, buổi mai đến. Đó là ngày thứ năm.

Ngày thứ sáu—Các loài thú trên đất và loài người

24 Rồi Thượng Đế phán, “Đất phải sinh ra các loài thú vật, mỗi loài sinh sản ra nhiều con khác cùng giống. Phải có các loài gia súc, các loài bò sát cùng các dã thú, mỗi loài phải sinh sản ra nhiều con khác cùng giống.” Sự việc liền xảy ra như thế.

25 Thượng Đế làm ra các loài dã thú, các loài gia súc, các động vật bò sát để chúng sinh ra các con khác cùng giống. Thượng Đế thấy điều đó thật tốt lành.

26 Sau đó Thượng Đế bảo, “Chúng ta hãy tạo nên con người [d] theo hình ảnh của chúng ta, để họ quản trị loài cá dưới biển, loài chim trên trời, các loài gia súc, để họ cai trị khắp đất cùng các loài bò sát.”

27 Nên Thượng Đế tạo con người theo hình ảnh Ngài. Thượng Đế tạo ra họ theo hình ảnh Ngài. Ngài tạo ra người đàn ông và đàn bà. 28 Thượng Đế ban phước cho con người và bảo, “Hãy sinh con đẻ cái thật nhiều cho chật đất và hãy quản trị đất. Hãy cai quản loài cá trong biển, chim trên trời và các động vật trên đất.”

29 Thượng Đế phán, “Nầy, ta đã cho các con mọi thứ cây sinh hột giống và các thứ cây ra trái có hột. Dùng những thứ đó mà làm thức ăn. 30 Ta cũng đã dùng mọi loài rau cỏ xanh làm thức ăn cho các loài dã thú, chim trên trời cùng các động vật bò sát.” Sự việc liền xảy ra như vậy.

31 Thượng Đế nhìn những vật Ngài đã dựng nên, tất cả đều vô cùng tốt đẹp. Buổi chiều qua đi, buổi mai đến. Đó là ngày thứ sáu.

Ngày thứ bảy—Nghỉ ngơi

Thế là trời, đất và mọi vật trong đó đã được dựng nên xong. Đến ngày thứ bảy Thượng Đế hoàn tất công tác của Ngài, cho nên Ngài nghỉ việc. Thượng Đế ban phước cho ngày thứ bảy và thánh hóa ngày ấy vì là ngày Thượng Đế nghỉ ngơi công tác sáng tạo thế giới.

Con người đầu tiên

Đây là câu truyện tạo dựng trời đất. Khi Thượng Đế mới dựng nên trời đất, mặt đất chưa có một bụi cây nào cả. Cũng chẳng có gì mọc ngoài đồng vì CHÚA chưa cho mưa xuống đất. Cũng chưa có ai chăm sóc đất,

nhưng có một luồng sương mù bốc lên từ dưới đất tưới ướt khắp cả mặt đất. Sau đó Thượng Đế lấy bụi đất tạo nên con người. Ngài thổi hơi thở vào lỗ mũi, thì con người trở thành người sống. Thượng Đế lập một cái vườn ở Ê-đen về phía Đông [e], rồi Ngài đặt con người Ngài đã dựng nên vào đó. CHÚA khiến các loài cây từ đất mọc lên. Cây thì đẹp và trái ăn rất ngon. Ở giữa vườn có cây tạo sự sống và cây biết điều thiện lẫn điều ác.

10 Có một con sông chảy ra từ Ê-đen để tưới vườn. Con sông nầy chia ra bốn nhánh sông khác. 11 Nhánh sông thứ nhất tên Phi-sôn, chảy quanh vùng đất Ha-vi-la [f] là nơi có vàng. 12 Vàng xứ đó rất quí giá. Ở đó cũng có nhũ hương và hồng ngọc. 13 Con sông thứ hai tên Ghi-hôn, chảy quanh xứ Cút [g]. 14 Con sông thứ ba tên Ti-gờ-rít, chảy về hướng đông đến A-xy-ri. Con sông thứ tư là Ơ-phơ-rát.

15 Thượng Đế đặt con người trong vườn Ê-đen để chăm sóc và trồng trọt. 16 Ngài ra chỉ thị cho con người như sau, “Con được phép ăn tất cả trái cây trong vườn, 17 nhưng không được ăn trái của cây biết điều thiện và điều ác. Nếu con ăn trái cây ấy con sẽ chết!”

Người đàn bà đầu tiên

18 Thượng Đế bảo, “Con người sống một mình không tốt. Ta sẽ làm một người giúp đỡ thích hợp cho nó.”

19 Thượng Đế lấy đất tạo nên mọi loài muông thú trên đất, mọi loài chim trời, xong Ngài đưa chúng đến trước con người, để xem con người đặt tên cho chúng ra sao. Con người đặt tên cho sinh vật nào thì thành tên ấy cho nó. 20 Con người đặt tên cho tất cả các loài gia súc, các loài chim trên trời và các muông thú sống trên đất. Nhưng về con người thì không tìm được ai giúp đỡ thích hợp cả. 21 Cho nên Thượng Đế khiến con người ngủ mê; trong khi đang ngủ Ngài lấy ra một xương hông [h] của con người, rồi lấp chỗ ấy lại. 22 Thượng Đế dùng cái xương hông từ người nam mà làm thành một người nữ, xong đưa người nữ ấy đến gặp người nam. 23 Người nam nói,

“Đây là con người mà xương là do xương tôi ra,
    thân thể cũng do thân thể tôi mà ra.
Tôi sẽ gọi nàng là ‘đàn bà’
    vì nàng ra từ người đàn ông.”

24 Cho nên người đàn ông phải rời cha mẹ mà gắn bó với vợ mình. Hai người sẽ trở thành một thân.

25 Cả người đàn ông và vợ đều trần truồng nhưng không cảm thấy xấu hổ.

Nguồn gốc của tội lỗi

Trong số các muông thú mà CHÚA là Thượng Đế dựng nên thì có con rắn là loài ranh mãnh hơn cả. Một hôm nó hỏi người đàn bà, “Có phải Thượng Đế dặn ông bà không được ăn trái của bất cứ cây nào trong vườn không?”

Người đàn bà đáp, “Chúng tôi được phép ăn các trái cây trong vườn. Nhưng Thượng Đế căn dặn chúng tôi, ‘Các con không được phép ăn trái của cây giữa vườn. Cũng không được đụng đến cây ấy. Nếu bất tuân các con sẽ chết.’”

Con rắn bảo người đàn bà, “Ông bà sẽ chẳng chết đâu. Thượng Đế biết rõ rằng khi ông bà ăn trái cây ấy thì mắt sẽ mở ra, biết phân biệt thiện ác và sẽ trở nên giống như Ngài [i] vậy đó!”

Người đàn bà thấy trái cây ấy đẹp, ngon và hấp dẫn vì sẽ khiến mình khôn ngoan, nên với tay hái mấy trái và ăn. Rồi cũng đưa cho chồng đang đứng gần đó, ông chồng cũng ăn luôn.

Bấy giờ mắt họ như được mở ra, tự thấy mình trần truồng, liền lấy các lá cây vả kết lại làm khố che thân.

Buổi chiều mát, hai người nghe tiếng Thượng Đế đi trong vườn, liền núp trốn Thượng Đế trong các lùm cây. Nhưng Thượng Đế kêu con người hỏi, “Con ở đâu?”

10 Con người đáp, “Con nghe tiếng CHÚA đi trong vườn nên sợ phải trốn Ngài, vì con trần truồng.”

11 Thượng Đế hỏi, “Ai bảo rằng con trần truồng? Con có ăn trái cây mà ta căn dặn đừng ăn không?”

12 Con người thưa, “CHÚA ban cho con người đàn bà nầy, nàng đưa cho con trái cây ấy, nên con ăn rồi.”

13 Thượng Đế liền hỏi người đàn bà, “Tại sao con làm vậy?”

Người đàn bà đáp, “Con rắn nó gạt con nên con ăn trái cây đó.”

14 Thượng Đế quở con rắn,

“Vì mầy làm chuyện nầy,
    cho nên mầy bị nguyền rủa.
Mầy bị rủa thậm tệ
    hơn tất các loài thú khác,
    dù là loài hiền hay dữ.
Mầy sẽ bò bằng bụng,
    suốt đời mầy sẽ phải ăn bụi đất.
15 Ta sẽ khiến mầy và người đàn bà
    nghịch thù nhau.
Dòng dõi mầy và dòng dõi người đàn bà
    sẽ chống nghịch nhau.
Có một người thuộc dòng dõi người đàn bà sẽ chà đạp đầu mầy,
còn mầy sẽ cắn gót chân người ấy.”

16 Sau đó Thượng Đế bảo người đàn bà,

“Ta sẽ gia tăng khổ cực cho con
    và con sẽ phải sinh đẻ nhiều [j].
Ngoài sự khổ cực khi sinh đẻ,
    con sẽ rất đau đớn.
Con sẽ lệ thuộc vào chồng mình,
    còn chồng sẽ cai trị con.”

17 Rồi Thượng Đế bảo người đàn ông,

“Vì con đã nghe lời vợ xúi
mà ăn trái ta cấm không được ăn
    nên ta nguyền rủa đất.
Con phải làm việc cực nhọc mới có ăn.
Suốt đời con sẽ vất vả mới có thức ăn.
18 Đất sẽ sinh ra gai gốc và cỏ dại,
    con sẽ phải ăn cây cỏ nơi đồng ruộng.
19 Con phải làm đổ mồ hôi
    và cực khổ mới có ăn.
Cuối cùng con sẽ trở về bụi đất
    là nơi con được tạo ra.
Vì con vốn là bụi đất nên khi chết
    con sẽ trở về với bụi đất.”

20 A-đam [k] gọi vợ là Ê-va [l] vì bà là mẹ của nhân loại.

21 Sau đó Thượng Đế lấy da thú làm áo quần cho hai vợ chồng và mặc cho họ.

22 Ngài phán, “Con người đã trở thành như chúng ta, biết thiện và ác. Chúng ta phải giữ không cho chúng ăn trái cây sự sống nếu không chúng sẽ sống đời đời.”

23 Cho nên Thượng Đế đuổi loài người ra khỏi vườn Ê-đen để cày bừa ruộng đất, là nơi mà con người được tạo ra. 24 Sau khi Thượng Đế đuổi con người ra khỏi vườn, Ngài đặt các thiên sứ [m] và một cây gươm lửa chói sáng khắp phía đông vườn. Như thế để ngăn không cho con người bước đến cây sự sống.

Gia đình đầu tiên

A-đam ăn ở với vợ là Ê-va. Nàng thụ thai và sinh ra Ca-in [n]. Ê-va nói, “Nhờ CHÚA giúp đỡ tôi tạo ra được một người.” Sau đó, Ê-va sinh ra em của Ca-in là A-bên. A-bên lo chăn nuôi, còn Ca-in thì làm ruộng.

3-4 Ít lâu sau, Ca-in mang hoa lợi do đất sinh sản dâng cho CHÚA. Còn A-bên thì mang những con tốt nhất [o] trong các con đầu lòng của bầy gia súc dâng cho CHÚA.

Ngài nhận lễ vật của A-bên, nhưng Ngài không nhận lễ vật của Ca-in. Vì thế Ca-in lấy làm tức giận, cảm thấy như bị ruồng bỏ. CHÚA hỏi Ca-in, “Tại sao con tức giận? Tại sao con có vẻ bất bình? Nếu con làm đúng, ta đã hẳn chấp nhận con; nhưng nếu con làm sai thì hãy cẩn thận, tội lỗi đang chờ chụp bắt con đó [p]. Tội lỗi rất thèm muốn con nhưng con phải thắng nó.”

Một hôm Ca-in bảo em là A-bên rằng, “Chúng mình hãy ra đồng đi.” [q] Trong khi hai người đang ở ngoài đồng thì Ca-in cãi nhau với A-bên. Ca-in liền xông tới giết A-bên, em mình.

Sau đó CHÚA hỏi Ca-in, “A-bên, em con đâu rồi?”

Ca-in thưa, “Con đâu có biết. Con có nhiệm vụ lo cho em con sao?”

10-11 CHÚA liền bảo, “Con đã làm gì? Huyết của em con từ đất kêu van lên đến ta. 12 Từ nay khi cày ruộng, con sẽ bị nguyền rủa nơi đất mà huyết em con rơi xuống, khi tay con giết em mình. Con sẽ cày bừa vất vả nhưng đất sẽ không sinh hoa lợi nữa. Con sẽ phải đi lang thang trên đất.”

13 Ca-in thưa cùng CHÚA rằng, “Hình phạt nầy quá sức chịu đựng của con! 14 Hôm nay Ngài đuổi con ra khỏi đất và khỏi mặt Ngài. Trong khi con lang thang trên đất, lỡ ai gặp họ sẽ giết con đi.”

15 CHÚA phán cùng Ca-in rằng, “Không sao! Ai giết con, ta sẽ trừng phạt người ấy gấp bảy lần.” Rồi CHÚA đánh dấu trên mình Ca-in để ai gặp người thì không giết.

Gia đình Ca-in

16 Vì thế Ca-in ra khỏi mặt CHÚA và sinh sống ở xứ Nót [r], về phía đông Ê-đen.

17 Người ăn ở với vợ, nàng thụ thai và sinh ra Ê-nóc. Lúc đó Ca-in xây một thành đặt tên là Ê-nóc theo tên con mình. 18 Ê-nóc sinh ra một con tên Y-rát, Y-rát sinh ra một con tên Mê-hu-gia-ên, Mê-hu-gia-ên sinh ra một con tên Mê-tu-sa-ên, Mê-tu-sa-ên sinh ra một con tên La-méc.

19 La-méc cưới hai vợ, một người tên A-đa, người kia tên Xi-la. 20 A-đa sinh Gia-banh, là người đầu tiên sống trong các lều trại và nuôi gia súc. 21 Em của Gia-banh tên Giu-banh, người đầu tiên chơi đờn cầm và sáo. 22 Xi-la sinh Tu-banh Ca-in, người làm các dụng cụ bằng đồng và sắt. Em gái Tu-banh Ca-in là Na-a-ma.

23 La-méc bảo hai vợ mình rằng:

“A-đa và Xi-la hãy nghe đây!
    Các vợ của La-méc hãy lắng nghe lời ta nói.
Ta đã giết một người vì gây thương tích cho ta.
    Đó là một thanh niên đã đánh ta.
24 Nếu kẻ giết Ca-in bị phạt bảy lần
    thì kẻ giết La-méc sẽ bị phạt.”

A-đam và Ê-va sinh thêm con nữa

25 A-đam lại ăn ở với vợ là Ê-va, nàng sinh một con trai đặt tên là Sết [s]. Ê-va bảo, “Thượng Đế đã ban cho tôi một con trai nữa thế cho A-bên mà Ca-in đã giết.” 26 Sết sinh ra một con trai đặt tên là Ê-nóc. Từ đó người ta bắt đầu thờ lạy CHÚA [t].

Gia phổ của gia đình A-đam

Sau đây là gia phổ của A-đam. Khi Thượng Đế dựng nên loài người, Ngài tạo dựng họ giống như hình ảnh của Ngài. Ngài dựng nên người đàn ông và đàn bà. Ngày đó Ngài ban phúc cho họ và gọi họ là loài người.

Khi A-đam được 130 tuổi thì sinh một con trai nữa giống mình và đặt tên là Sết. Sau khi Sết ra đời thì A-đam sống thêm 800 năm nữa, sinh con trai con gái. Vậy A-đam sống được 930 tuổi, rồi qua đời.

Khi Sết được 105 tuổi thì sinh một con trai tên Ê-nóc. Sau khi Ê-nóc sinh ra, Sết sống thêm 807 năm nữa, người sinh con trai con gái. Vậy Sết sống được 912 năm rồi qua đời.

Lúc Ê-nóc được 90 tuổi thì sinh một con trai tên Kê-nan. 10 Sau khi Kê-nan ra đời, Ê-nóc sống thêm 815 năm nữa, sinh con trai con gái. 11 Vậy Ê-nóc sống được 905 tuổi rồi qua đời.

12 Khi Kê-nan được 70 tuổi thì sinh một con trai tên Ma-ha-la-lên. 13 Sau khi Ma-ha-la-lên ra đời, Kê-nan sống thêm 840 năm nữa sinh con trai con gái. 14 Vậy Kê-nan sống được 910 tuổi rồi qua đời.

15 Khi Ma-ha-la-lên được 65 tuổi thì sinh một con trai đặt tên là Gia-rết. 16 Sau khi sinh Gia-rết, Ma-ha-la-lên sống thêm 830 năm nữa, sinh con trai con gái. 17 Vậy Ma-ha-la-lên sống được 895 tuổi rồi qua đời.

18 Khi Gia-rết được 162 tuổi sinh một con trai tên Ê-nóc. 19 Sau khi sinh Ê-nóc, Gia-rết sống được 800 năm nữa sinh con trai con gái. 20 Vậy Gia-rết sống được 962 tuổi rồi qua đời.

21 Khi được 65 tuổi, Ê-nóc sinh ra một con trai tên Mê-tu-sê-la. 22 Sau khi Mê-tu-sê-la ra đời, Ê-nóc đồng đi với Thượng Đế trong 130 năm, ông sinh con trai con gái. 23 Vậy Ê-nóc sống được 365 năm. 24 Ê-nóc đi với Thượng Đế; không ai thấy ông nữa vì Thượng Đế đã mang ông đi [u].

25 Khi được 187 tuổi, Mê-tu-sê-la sinh một con trai tên La-méc. 26 Sau khi La-méc ra đời, Mê-tu-sê-la sống thêm 782 năm nữa, sinh con trai con gái. 27 Vậy Mê-tu-sê-la sống được tổng cộng 969 tuổi rồi qua đời.

28 Khi được 182 tuổi, La-méc sinh một con trai 29 đặt tên là Nô-ê [v] và nói rằng, “Đứa con nầy sẽ an ủi chúng ta trong công việc nhọc nhằn khi cày bừa, vì đất đã bị CHÚA nguyền rủa.”

30 Sau khi Nô-ê ra đời, La-méc sống thêm 595 năm nữa, sinh con trai con gái. 31 Vậy La-méc hưởng thọ tổng cộng 777 tuổi rồi qua đời.

32 Khi được 500 tuổi, Nô-ê sinh Sem, Cham và Gia-phết.

Con người trở nên độc ác

Dân số trên đất càng ngày càng tăng, con gái sinh ra cũng nhiều. Khi các con trai Thượng Đế thấy các cô gái đó xinh đẹp thì chọn làm vợ.

CHÚA phán, “Thần linh ta sẽ không thể nào ở cùng [w] loài người mãi được vì loài người chỉ là xác thịt. Chúng nó chỉ sống đến 120 tuổi thôi.”

Dân Nê-phi-lim sống trên đất trong thời kỳ đó và những thời kỳ sau. Đó là thời kỳ mà con trai Thượng Đế ăn ở với con gái loài người và sinh ra con cái. Chúng nổi tiếng và trở thành những chiến sĩ anh dũng thời xưa.

CHÚA thấy loài người trên đất rất độc ác, còn tư tưởng của họ lúc nào cũng xấu xa. Ngài hối hận đã dựng ra con người trên đất, nên rất buồn lòng. CHÚA bảo, “Ta sẽ tiêu diệt loài người mà ta đã tạo dựng trên đất. Ta sẽ tiêu diệt mọi loài thú vật và mọi loài bò sát, mọi loài chim trời, vì ta rất hối hận đã tạo dựng ra chúng.” Nhưng Nô-ê sống đẹp lòng CHÚA.

Nô-ê và trận lụt lớn

Sau đây là gia phổ của Nô-ê. Nô-ê là người nhân đức, chân thật nhất trong thời đại ông. Nô-ê đồng đi với Thượng Đế. 10 Ông có ba con trai: Sem, Cham và Gia-phết.

11 Dân cư trên đất làm những điều Thượng Đế cho là độc ác. Đâu đâu cũng thấy điều bạo ngược. 12 Khi Thượng Đế thấy loài người đã làm hư hoại đất vì họ chỉ chuyên làm ác,

13 thì Ngài phán cùng Nô-ê rằng, “Vì đất đã đầy dẫy điều bạo ngược do con người tạo ra, nên ta sẽ tiêu diệt mọi sinh vật khỏi đất. 14 Con hãy đóng một chiếc tàu bằng gỗ bách [x] cho con. Hãy làm nhiều phòng trong tàu rồi lấy nhựa chai trét bên trong và bên ngoài. 15 Tàu sẽ có kích thước như sau: dài 150 thước, rộng 25 thước, cao 15 thước. 16 Hãy làm một cửa sổ quanh nóc tàu cao 5 tấc tính từ mép của nóc xuống. Trổ một cửa lớn bên hông tàu. Bên trong tàu chia làm ba từng: từng trên, từng giữa và từng dưới.

17 Ta sẽ mang nước lụt đến trên đất để tiêu diệt tất cả các sinh vật sống dưới bầu trời, toàn thể các sinh vật có hơi sống. Mọi loài trên đất đều sẽ chết hết. 18 Nhưng ta sẽ lập giao ước với con. Các con trai con, vợ con, các nàng dâu con sẽ đi vào tàu. 19 Ngoài ra con phải mang vào tàu mỗi sinh vật một cặp, trống và mái. Hãy nuôi sống các loài ấy. 20 Loài chim, thú vật, động vật bò sát, mỗi loài một cặp sẽ đến với con để sống còn.

21 Con cũng phải thu góp các loại thực phẩm để dự trữ trên tàu dùng làm thức ăn cho con và các loài sinh vật.”

22 Nô-ê làm đúng theo lời Thượng Đế truyền dặn.

Trận lụt lớn bắt đầu

Sau đó CHÚA bảo Nô-ê, “Ta nhận thấy con là người tốt nhất trong thời đại nầy, nên con và cả gia đình hãy đi vào tàu. Mỗi loài thú sạch, hãy mang theo bảy cặp, mỗi loại một đực một cái; còn thú không sạch thì mang theo một cặp, một đực một cái. Loài chim trời thì đem theo bảy cặp, một trống một mái, để cho các loài nầy tồn tại trên đất sau khi trận lụt chấm dứt. Bảy hôm nữa ta sẽ cho mưa xuống đất. Mưa sẽ đổ xuống trong bốn mươi ngày bốn mươi đêm. Ta sẽ tiêu diệt khỏi mặt đất tất cả mọi sinh vật mà ta đã dựng nên.” Nô-ê làm đúng theo như lời CHÚA truyền dặn.

Khi trận lụt xảy ra thì Nô-ê được sáu trăm tuổi. Nô-ê và vợ cùng các con trai và con dâu đi vào tàu để tránh nước lụt. Các loài thú sạch, không sạch, các loài chim và các loài bò sát đều đi đến cùng Nô-ê để vào tàu từng cặp, trống mái, đực cái theo như Thượng Đế truyền dặn ông. 10 Bảy ngày sau đó nước lụt tràn tới.

11 Nước lụt xảy ra khi Nô-ê được sáu trăm tuổi. Ngày mười bảy tháng hai năm đó, các suối ngầm sâu dưới biển vỡ ra, các cổng chận nước trên trời mở ra, đổ mưa ào xuống. 12 Mưa lũ đổ xuống ròng rã bốn mươi ngày bốn mươi đêm. 13 Ngày hôm ấy Nô-ê, vợ, các con trai: Sem, Cham và Gia-phết, cùng các người vợ của họ, đi vào tàu. 14 Các loại thú hoang và gia súc, các động vật bò sát cùng các loại chim đều đi vào tàu. 15 Các sinh vật có hơi sống đều đi đến cùng Nô-ê, vào tàu từng cặp một. 16 Mỗi cặp thú vật gồm một trống một mái, một đực một cái đều đến theo như Thượng Đế truyền dặn Nô-ê. Rồi CHÚA đóng cửa tàu lại.

17 Nước ngập mặt đất trong bốn mươi ngày. Khi nước dâng thì nâng bổng tàu lên khỏi mặt đất. 18 Mực nước tiếp tục dâng lên, con tàu nổi trên nước khỏi mặt đất. 19 Nước dâng cao đến nỗi các ngọn núi cao nhất dưới bầu trời cũng bị phủ lấp. 20 Nước dâng cao hơn các đỉnh núi đến bảy thước.

21 Mọi loài bò sát đều chết hết kể cả các loài chim, các loài gia súc, loài dã thú, các sinh vật tràn đầy mặt đất và luôn cả loài người nữa. 22 Thế là mọi loài có hơi sống trên mặt đất đều chết hết. 23 Thượng Đế tiêu diệt các sinh vật khỏi mặt đất: Loài người, thú vật, bò sát, chim trời. Chỉ có Nô-ê và những loài nào cùng ở với ông trong tàu là còn sống thôi. 24 Nước ngập phủ đất trong 150 ngày.

Trận lụt chấm dứt

Nhưng Thượng Đế nhớ lại Nô-ê cùng các loại dã thú và các loại thú hiền hoà sống trong tàu. Ngài liền khiến một trận gió thổi qua đất, nước liền hạ.

Các suối ngầm dưới đất ngưng phun nước, các cổng chận nước trên trời đóng lại. 3-4 Nước, trước kia phủ mặt đất, bắt đầu hạ xuống. Sau một trăm năm mươi ngày, mực nước hạ xuống thấp đến nỗi chiếc tàu chạm đất trở lại. Tàu tấp trên một đỉnh thuộc rặng núi A-ra-rát vào ngày mười bảy tháng bảy. Nước tiếp tục hạ, đến ngày mười một tháng thứ mười thì các đỉnh núi bắt đầu xuất hiện.

Bốn mươi ngày sau Nô-ê mở cửa sổ ông đã làm trên tàu và thả một con quạ ra. Nó bay đây đó cho đến khi nước đã cạn khô trên đất. Sau đó Nô-ê thả một con chim bồ câu ra, xem thử nước đã khô khỏi mặt đất chưa.

Chim bồ câu không tìm được chỗ nào đáp xuống vì nước hãy còn phủ kín mặt đất, nên nó bay trở về tàu. Nô-ê giơ tay ra bắt bồ câu mang vào trong tàu.

10 Bảy ngày sau, Nô-ê lại thả chim bồ câu ra khỏi tàu. 11 Chiều hôm đó nó trở về cùng ông, mỏ ngậm một lá ô liu tươi. Nô-ê hiểu rằng mặt đất đã gần khô. 12 Bảy ngày sau, ông lại thả con chim bồ câu ra, nhưng lần nầy nó không trở về nữa.

13 Khi Nô-ê được 601 tuổi, vào ngày một tháng giêng năm đó, nước rút khô khỏi mặt đất. Nô-ê mở cửa tàu ra thì thấy đất đã khô. 14 Đến ngày hai mươi bảy tháng hai thì đất hoàn toàn khô ráo hẳn.

15 Rồi CHÚA bảo Nô-ê, 16 “Con, vợ con, các con trai và các con dâu con hãy ra khỏi tàu. 17 Hãy mang theo tất cả các loài vật trong tàu với con: Chim chóc, thú vật và mọi sinh vật bò sát, để chúng sinh sôi nẩy nở thật nhiều ra.”

18 Vậy Nô-ê, các con trai, vợ ông cùng các con dâu ra khỏi tàu. 19 Mọi loài thú, loài bò sát trên đất, mọi loài chim đều ra khỏi tàu theo chủng loại.

20 Sau đó Nô-ê xây một bàn thờ cho CHÚA. Ông bắt một vài con chim và thú tinh sạch dâng làm của lễ thiêu trên bàn thờ cho Thượng Đế.

21 CHÚA rất hài lòng về mùi thơm của các của lễ ấy nên tự nhủ, “Ta sẽ không bao giờ nguyền rủa đất vì loài người nữa. Từ lúc còn trẻ, chúng đã suy nghĩ về việc ác, nhưng ta sẽ không bao giờ tiêu diệt mọi sinh vật trên đất như ta đã làm lần nầy. 22 Đất còn bao lâu thì mùa gieo giống, mùa gặt, mùa nóng và mùa lạnh, mùa hạ và mùa xuân, ngày và đêm sẽ vẫn còn.”

Khởi điểm mới

Thượng Đế ban phúc cho Nô-ê và các con trai ông như sau, “Hãy sinh thật đông con, làm tràn ngập đất. Mọi loài thú trên đất, các loài chim trời, mọi loài bò sát trên đất, các loài cá dưới biển sẽ sợ các con. Ta đã trao chúng nó vào tay các con. Mọi loài vật di động, mọi sinh vật là đồ ăn cho các con. Trước đây ta ban cho các con thực vật, nay các con có thể ăn đủ mọi thứ. Nhưng các con không được ăn thịt còn máu trong đó, vì máu là sự sống. Ta sẽ đòi sự sống nơi máu. Ta sẽ đòi mạng của súc vật nào giết người, ta sẽ đòi mạng của người nào cướp mạng sống kẻ khác.

Ai giết người sẽ bị người khác giết,
    vì Thượng Đế tạo dựng nên con người theo hình ảnh Ngài.

Còn về phần con, Nô-ê, ta muốn con và gia đình con sinh thật nhiều con cái trên đất.”

Rồi Thượng Đế bảo Nô-ê và các con trai ông, “Bây giờ ta lập ước với con và con cháu của con, 10 cùng những sinh vật ở với con; chim trời, các loài thú hiền hoà, các loài dã thú và những loài cùng ra khỏi tàu với con, tức mọi sinh vật sống trên đất. 11 Ta lập giao ước sau đây với con: Ta sẽ không bao giờ dùng nước lụt để tiêu diệt trái đất nữa. Sẽ không bao giờ có nước lụt tiêu diệt địa cầu nữa.”

12 Thượng Đế bảo, “Đây là dấu hiệu của giao ước giữa ta với con và các sinh vật cùng ở với con, cho đến mọi thế hệ mai sau. 13 Ta đặt cái mống [y] trên các đám mây để làm dấu hiệu giữa ta và địa cầu. 14 Khi ta đưa mây phủ trái đất và cái mống xuất hiện giữa các đám mây, 15 thì ta sẽ nhớ lại giao ước ta lập với con cùng các sinh vật. Nước lụt sẽ không bao giờ tiêu diệt các sinh vật trên đất nữa. 16 Khi cái mống xuất hiện trong mây, ta nhìn thấy và sẽ nhớ lại giao ước muôn đời giữa ta và các sinh vật trên địa cầu.”

17 Thượng Đế bảo Nô-ê, “Cái mống là dấu hiệu ta lập với các sinh vật trên đất.”

Nô-ê và các con trai ông

18 Các con trai cùng ra khỏi tàu với Nô-ê là Sem, Cham và Gia-phết. (Cham là cha của Ca-na-an.) 19 Đó là các con trai của Nô-ê. Tất cả dân tộc trên đất đều do ba người con trai ấy mà ra.

20 Nô-ê làm nghề nông và trồng một vườn nho. 21 Ông uống rượu nho đến nỗi say, rồi nằm trần truồng trong lều. 22 Cham, cha của Ca-na-an, thấy cha mình trần truồng thì đi ra kể lại cho hai anh em mình đang ở ngoài lều. 23 Sem và Gia-phết liền lấy một cái áo mang trên vai và đi giật lùi vào trong lều, lấy áo trùm lên cha mình. Họ quay mặt đi nên không thấy cha mình trần truồng.

24 Vì say rượu nên Nô-ê ngủ mê. Khi tỉnh dậy hay biết điều Cham, con út, làm cho mình, 25 liền bảo,

“Ca-na-an [z] sẽ bị nguyền rủa!
    Nó sẽ làm nô lệ hạng bét
    cho các anh nó.”

26 Nô-ê bảo,

“Chúc tụng CHÚA là Thượng Đế của Sem,
    Cầu cho Ca-na-an làm nô lệ cho Sem.
27 Nguyền Thượng Đế ban thêm đất đai
    cho Gia-phết.
Nguyền Gia-phết ở trong lều của Sem
    và Ca-na-an làm nô lệ cho họ.”

28 Sau trận lụt lớn, Nô-ê sống thêm 350 năm nữa.

29 Ông hưởng thọ được 950 tuổi rồi qua đời.

Dân cư trên đất sinh sôi và phân tán

10 Đây là gia phổ của Sem, Cham và Gia-phết, các con trai của Nô-ê. Sau trận đại hồng thủy, họ sinh ra các con trai khác.

Các con trai của Gia-phết

Các con trai của Gia-phết là Gô-me, Ma-gót, Ma-đai, Gia-van, Tu-banh, Mê-sết và Ti-ra.

Các con trai của Gô-me là Ách-kê-na, Ri-phát và Tô-ga-ma.

Các con trai của Gia-van là Ê-li-sa, Tạc-kít, Kít-tim và Rô-đa-nim [aa].

Dân cư sống trong vùng đất quanh Địa-trung-hải đều do các con trai trên đây của Gia-phết mà ra. Các gia đình sinh sôi nẩy nở, trở thành nhiều dân tộc khác nhau, mỗi dân tộc có lãnh thổ và ngôn ngữ riêng.

Con cháu của Cham

Các con trai của Cham là Cút [ab], Mít-ra-im [ac], Phút và Ca-na-an.

Các con trai của Cút là Xê-ba, Ha-vi-la, Sáp-ta, Ra-a-ma và Sáp-tê-ca.

Các con trai của Ra-a-ma là Sê-ba và Đê-đan.

Cút cũng có một con tên Nim-rốt là một vị anh hùng trên đất. Nim-rốt là một thợ săn rất giỏi trước mặt CHÚA nên người ta hay ví “giống như Nim-rốt, chàng thợ săn giỏi trước mặt CHÚA.”

10 Lúc đầu vương quốc của Nim-rốt gồm Ba-by-lôn, Ê-réc, Ác-cát và Canh-ne trong vùng đất Ba-by-lôn. 11 Từ đó ông đi đến A-xy-ri, xây thành Ni-ni-ve, Rê-hô-bốt Y-rơ, và Ca-la. 12 Ông cũng xây Rê-sen là thành lớn nằm giữa Ni-ni-ve và Ca-la.

13 Mít-ra-im là tổ tiên của người Lu-đít, A-na-mít, Lê-ha-bít, Náp-tu-hít, 14 Ba-ru-sít, Cát-lu-hít và dân cư Cơ-rết. (Dân Phi-li-tin xuất thân từ Cát-lu-hít.)

15 Ca-na-an sinh ra Xi-đôn, con đầu lòng, rồi sinh ra Hết. 16 Ông cũng là tổ tiên của người Giê-bu-sít, A-mô-rít, Ghi-ra-sít, 17 Hi-vít, Ạc-kít, Si-nít, 18 Ạc-va-đít, Giê-ma-rít và Ha-ma-thít. Các gia tộc của Ca-na-an tản mác ra khắp nơi. 19 Lãnh thổ của họ chạy từ Xi-đôn đến Ghê-ra cho tới Ga-xa, sang qua Xô-đôm, Gô-mô-rơ, Ách-ma, Giê-bô-im cho tới La-sa.

20 Tất cả các dân tộc ấy là con cháu của Cham. Mỗi dân tộc đều có ngôn ngữ, lãnh thổ và quốc gia riêng biệt.

Con cháu của Sem

21 Sem, anh của Gia-phết cũng có con trai. Một trong con cháu của ông là ông tổ của tất cả các con trai của Ê-be [ad].

22 Các con trai của Sem là Ê-lam, Át-sua, Ạc-pha-xát, Lút, và A-ram.

23 Các con trai của A-ram là Út, Hun, Ghê-the, và Mê-séc.

24 Ạc-pha-xát sinh ra Sê-la, Sê-la sinh Ê-be. 25 Ê-be có hai con trai, một người tên Phê-léc [ae], vì đất bị chia ra trong đời người, còn người kia tên Giốc-tan.

26 Giốc-tan sinh ra An-mô-đát, Sê-lép, Ha-xa-ma-vết, Giê-ra, 27 Ha-đô-ram, U-san, Điếc-la, 28 Ô-banh, A-bi-ma-ên, Sê-ba, 29 Ô-phia, Ha-vi-la, và Giô-báp. Tất cả các người đó là con của Giốc-tan. 30 Họ sống trong vùng nằm giữa Mê-sa và Sê-pha ở vùng đồi núi phía Đông.

31 Đó là những người thuộc gia tộc Sem, xếp theo họ hàng, ngôn ngữ, quốc gia và lãnh thổ.

32 Trên đây là những gia tộc thuộc các con trai Nô-ê, xếp theo quốc gia. Từ các gia tộc đó sinh ra các dân tộc rải rác khắp trái đất sau trận lụt toàn thế giới ấy.

Sự rối loạn ngôn ngữ

11 Lúc đó cả thế giới chỉ có một ngôn ngữ, mọi người đều dùng một thứ tiếng mà thôi. Khi dân chúng di cư khỏi phía đông thì họ tìm được một bình nguyên ở vùng đất Xi-na, nên định cư tại đó. Họ bảo nhau, “Chúng ta hãy lấy gạch nướng thật cứng.” Nên họ dùng gạch thay cho đá, và dùng nhựa chai thay cho vôi.

Rồi họ bảo nhau, “Chúng ta hãy xây một cái thành và một cái tháp cao đến tận trời. Chúng ta sẽ làm một đài kỷ niệm cho mình. Như thế chúng ta sẽ không bị tản lạc khắp nơi trên đất nữa.”

CHÚA ngự xuống thấy thành phố và tháp mà con người đã xây. Ngài bảo, “Bây giờ các dân nầy đã đoàn kết với nhau và nói cùng một ngôn ngữ. Đây chỉ là giai đoạn đầu chúng nó định làm thôi. Không có gì ngăn chặn điều chúng định làm. Bây giờ chúng ta hãy xuống làm lộn xộn ngôn ngữ của chúng để chúng không còn hiểu nhau được nữa.”

Vậy CHÚA phân tán họ khắp đất, nên họ bỏ dở việc xây thành. Nơi đó được gọi là Ba-bên [af] vì là chỗ CHÚA làm lộn xộn ngôn ngữ của cả thế gian. Thế là CHÚA làm họ tản lạc khắp nơi trên thế giới.

Câu truyện về gia tộc Sem

10 Đây là gia phổ của Sem. Hai năm sau trận lụt lớn, lúc Sem được 100 tuổi thì sinh A-phác-xác. 11 Sau đó Sem sống thêm 500 năm nữa, sinh con trai con gái.

12 Khi A-phác-xác được 35 tuổi thì sinh ra Sê-la. 13 Sau đó A-phác-xác sống thêm 403 năm nữa sinh con trai con gái.

14 Khi Sê-la được 30 tuổi thì sinh Ê-be. 15 Sau đó Sê-la sống thêm 403 năm nữa, sinh con trai con gái.

16 Khi Ê-be được 34 tuổi thì sinh Phê-léc. 17 Sau đó Ê-be sống thêm 430 năm nữa, sinh con trai con gái.

18 Khi Phê-léc được 30 tuổi thì sinh ra Rêu. 19 Sau đó Phê-léc sống thêm 209 năm nữa, sinh con trai con gái.

20 Khi Rêu được 32 tuổi thì sinh Sê-rúc. 21 Sau đó Rêu sống thêm 207 năm nữa, sinh con trai con gái.

22 Khi Sê-rúc được 30 tuổi thì sinh Na-ho. 23 Sau đó Sê-rúc sống thêm 200 năm nữa, sinh con trai con gái.

24 Khi Na-ho được 29 tuổi, sinh Thê-ra. 25 Sau đó Na-ho sống thêm 119 năm nữa, sinh con trai con gái.

26 Sau khi Thê-ra được 70 tuổi thì sinh Áp-ram, Na-ho và Ha-ran.

Câu truyện về gia đình Thê-ra

27 Đây là gia phổ của Thê-ra. Thê-ra sinh Áp-ram, Na-ho, và Ha-ran. Ha-ran sinh ra Lót. 28 Ha-ran qua đời trong thành U-rơ thuộc miền Ba-by-lôn [ag], nơi sinh trưởng, trong khi cha mình hãy còn sống. 29 Cả Áp-ram và Na-ho đều lập gia đình. Vợ Áp-ram tên Sa-rai, vợ Na-ho tên Minh-ca. Nàng là con gái Ha-ran, là người sinh ra Minh-ca và Ích-ca. 30 Sa-rai hiếm muộn không sinh con được.

31 Thê-ra mang Áp-ram, con mình, và Lót, cháu mình, con dâu Sa-rai tức vợ của Áp-ram, di cư ra khỏi thành U-rơ, xứ Ba-by-lôn. Họ dự định đi qua xứ Ca-na-an, nhưng đi đến thành Ha-ran thì định cư tại đó. 32 Thê-ra hưởng thọ 205 tuổi rồi qua đời tại Ha-ran.

Footnotes

  1. Sáng Thế 1:2 bay là là Trong tiếng Hê-bơ-rơ từ ngữ nầy nghĩa là “bay lượn” hay “bay xuống” như con chim mẹ bay quanh tổ để bảo vệ con nó.
  2. Sáng Thế 1:6 cái vòm Hay “khoảng không” hoặc “bầu trời.” Trong tiếng Hê-bơ-rơ từ ngữ nầy cũng có nghĩa là một miếng kim loại đã được đập thành hình cái thau hay cái bát.
  3. Sáng Thế 1:14 mùa, ngày và năm Nguyên văn, “các buổi nhóm họp đặc biệt.” Người Do-thái dùng mặt trời và mặt trăng để định ngày, tháng, năm. Nhiều buổi lễ của Do-thái (các buổi nhóm họp đặc biệt) thường bắt đầu vào ngày trăng mới hay trăng rằm.
  4. Sáng Thế 1:26 con người Nguyên văn Hê-bơ-rơ là “loài người” hay tên “A-đam.” Từ ngữ nầy tương tự như “đất” hay “đất sét đỏ.”
  5. Sáng Thế 2:8 phía Đông Từ ngữ nầy thường chỉ vùng giữa hai con sông Ti-gờ-rít và sông Ơ-phơ-rát, chảy đến vịnh Ba-tư.
  6. Sáng Thế 2:11 Ha-vi-la Vùng đất dọc theo bờ biển phía Tây của bán đảo Ả-rập, rất có thể gồm cả vùng nam Ê-thi-ô-bi thuộc Phi-châu.
  7. Sáng Thế 2:13 Cút Thường ám chỉ nước Ê-thi-ô-bi nhưng ở đây có thể là phía Bắc và Đông của sông Ti-gờ-rít.
  8. Sáng Thế 2:21 xương hông Hay “xương sườn” theo một ý khác.
  9. Sáng Thế 3:5 Ngài Hay “các thần.”
  10. Sáng Thế 3:16 sinh đẻ nhiều Hay “khi sinh nở.”
  11. Sáng Thế 3:20 A-đam Từ ngữ nầy có nghĩa là “người”, cũng có nghĩa là “đất” hay “đất sét đỏ.”
  12. Sáng Thế 3:20 Ê-va Trong tiếng Hê-bơ-rơ từ nầy nghe như “sống.”
  13. Sáng Thế 3:24 thiên sứ Hay “thiên thần.” Thần linh có cánh tương tự như thiên sứ để phục vụ quanh ngôi Thượng Đế hay các nơi thánh khác. Hai thiên thần nầy được đặt trên nắp của Rương Giao Ước để làm hình bóng về sự hiện diện của Thượng Đế. Xem Xuất 25:10-22.
  14. Sáng Thế 4:1 Ca-in Từ nầy trong tiếng Hê-bơ-rơ nghe như “Tôi đã sinh đẻ.”
  15. Sáng Thế 4:3 mang những con tốt nhất Nghĩa đen, “Người chọn vài con chiên đầu lòng, nhất là phần mỡ của chúng.”
  16. Sáng Thế 4:7 tội lỗi … con đó Hay “nếu con không làm điều phải thì tội lỗi đang ngồi chờ nơi cửa của con. Nó muốn bắt con nhưng con phải thắng nó.”
  17. Sáng Thế 4:8 Chúng mình … đồng đi Câu “Chúng ta hãy ra ngoài đồng đi” không có trong các bản cổ Hê-bơ-rơ nhưng có trong các bản cổ Hi-lạp hay A-ram và trong các sách của người Xa-ma-ri.
  18. Sáng Thế 4:16 Nót Từ nầy trong tiếng Hê-bơ-rơ nghe như “đi lang thang.”
  19. Sáng Thế 4:25 Sết Từ nầy trong tiếng Hê-bơ-rơ nghe như “cho.”
  20. Sáng Thế 4:26 Từ đó … thờ lạy CHÚA Nguyên văn, “người ta bắt đầu kêu cầu danh Gia-vê.”
  21. Sáng Thế 5:24 Ê-nóc … ông đi Hay “Ê-nóc sống vừa lòng Chúa. Ê-nóc biến mất vì Thượng Đế mang ông đi.”
  22. Sáng Thế 5:29 Nô-ê Chữ nầy trong tiếng Hê-bơ-rơ nghe như “nghỉ ngơi.”
  23. Sáng Thế 6:3 ở cùng Hay “cạnh tranh với” hoặc “thi đua với.”
  24. Sáng Thế 6:14 gỗ bách Nguyên văn, “gỗ cây Gô-phe.” Không rõ đây là loại cây gì.
  25. Sáng Thế 9:13 cái mống Hay “cầu vồng.”
  26. Sáng Thế 9:25 Ca-na-an Đây là con của Cham. Dân Ca-na-an sống dọc theo bờ biển xứ Pha-lét-tin, Li-băng, và Xy-ri. Về sau Thượng Đế cấp vùng đất nầy cho dân Ít-ra-en.
  27. Sáng Thế 10:4 Rô-đa-nim Hay “Đô-đa-nim” là dân cư của vùng đất Rốt.
  28. Sáng Thế 10:6 Cút Một tên khác của nước Ê-thi-ô-bi.
  29. Sáng Thế 10:6 Mít-ra-im Một tên khác của nước Ai-cập.
  30. Sáng Thế 10:21 ông tổ … Ê-be Nguyên văn, “ông tổ của tất cả người Hê-bơ-rơ.”
  31. Sáng Thế 10:25 Phê-léc Nghĩa là “chia ra.”
  32. Sáng Thế 11:9 Ba-bên Hay “Ba-by-lôn.” Chữ nầy nghe như là “lộn xộn.”
  33. Sáng Thế 11:28 U-rơ thuộc miền Ba-by-lôn Nguyên văn, “U-rơ thuộc vùng đất của người Canh-đê.” Đây là một thành phố thuộc miền nam Ba-by-lôn.