Châm Ngôn 16-18
Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version
16 Mưu sự tại nhân,
thành sự tại thiên.
2 Các đường lối loài người đều trong sạch theo mắt họ,
nhưng Chúa nhìn thấy động lực trong lòng.
3 Hãy nhờ cậy Chúa trong mọi điều con làm,
thì các kế hoạch con sẽ thành công.
4 Mọi việc CHÚA làm ra đều có mục đích.
Ngài cũng đã dành kẻ ác cho ngày tai họa.
5 Chúa ghét kẻ kiêu căng.
Trước sau chúng cũng bị phạt.
6 Tình yêu và lòng trung thành gỡ được tội lỗi [a].
Kính sợ Chúa tức tránh khỏi điều ác.
7 Đời sống ai đẹp lòng Chúa,
thì cho đến kẻ thù cũng sống hoà bình với người ấy.
8 Thà nghèo khó mà thanh liêm,
còn hơn giàu có mà bất lương.
9 Con người hoạch định đường lối mình,
nhưng Chúa chỉ dẫn các bước của người.
10 Những quyết định khôn ngoan do vua mà đến,
cho nên các phán quyết của vua đều công bằng.
11 Chúa muốn cái cân đúng;
trái cân là công việc Ngài.
12 Vua ghét những kẻ làm quấy [b],
quyền cai trị của vua được thiết lập do sự công chính.
13 Vua thích lời nói chân chính;
và chuộng kẻ nói chân thật.
14 Cơn giận của vua có thể khiến người dân mất mạng,
nhưng người khôn có thể làm vua nguôi giận.
15 Nụ cười của vua là nguồn sống;
sự nhân từ của vua rải xuống như mưa xuân.
16 Thà được khôn ngoan hơn vàng vòng,
thà chuộng hiểu biết hơn bạc quí!
17 Đường người công chính giúp họ tránh điều ác.
Nhờ trông chừng các bước mình mạng sống họ được bảo toàn.
18 Sự kiêu căng đi trước sự bại hoại;
thái độ tự phụ dẫn đến thất bại.
19 Thà khiêm nhường mà sống với người nghèo khổ,
còn hơn chia của cắp với kẻ kiêu căng.
20 Ai nghe điều khuyên dạy sẽ thành công,
ai tin cậy Chúa sẽ vui mừng.
21 Người khôn được kẻ khác nhận ra.
Lời lẽ đắn đo của họ giúp thuyết phục kẻ khác.
22 Sự hiểu biết là nguồn sống cho ai uống nó,
nhưng sự ngu xuẩn mang trừng phạt đến cho kẻ dại dột.
23 Đầu óc người khôn dạy họ biết cách ăn nói,
và giúp họ dạy dỗ kẻ khác.
24 Lời nói khôn khéo dịu ngọt cho lưỡi,
và là sức khoẻ cho thân thể.
25 Có người tưởng mình làm điều phải,
nhưng cuối cùng lại dẫn đến nẻo chết.
26 Bụng đói khiến người ta ra sức làm việc,
bao tử trống giục người ta cố gắng.
27 Kẻ ác âm mưu ác,
lời nói của nó như lửa đốt.
28 Kẻ lươn lẹo gây tranh chấp,
cố phá tan tình bằng hữu.
29 Kẻ hung ác lường gạt người láng giềng,
và xúi giục họ làm bậy.
30 Kẻ nháy mắt làm hiệu âm mưu điều lường gạt,
Kẻ bĩu môi manh tâm điều ác.
31 Tóc bạc là vinh dự,
đạt được do nếp sống công chính.
32 Lòng kiên nhẫn tốt hơn sức mạnh.
Biết tự chế tốt hơn chiếm được thành trì.
33 Người ta bắt thăm để quyết định,
nhưng kết quả do Chúa mà đến.
17 Thà ăn bánh mì khô mà hoà thuận,
còn hơn nhà đầy thức ăn mà cãi vã.
2 Đầy tớ khôn ngoan sẽ quản trị con trai gây sỉ nhục,
và thừa hưởng một phần gia tài chủ để lại cho con cái.
3 Lò luyện bạc và nồi thử vàng,
còn Chúa thử lòng.
4 Kẻ ác hay nghe ý kiến ác độc.
Kẻ nói dối để tâm đến lời cay cú.
5 Ai ngược đãi người nghèo sỉ nhục Đấng Tạo Hóa mình,
ai hớn hở trên sự đau khổ người khác sẽ bị phạt.
6 Con cháu là niềm kiêu hãnh của người già,
và cha mẹ là niềm kiêu hãnh của con cái.
7 Lời tao nhã không thích hợp cho kẻ dại,
Lời nói dối càng không phù hợp với người cai trị.
8 Kẻ hối lộ tin vào may mắn.
Hắn cho rằng làm gì cũng thành công.
9 Ai tha thứ lỗi lầm kẻ khác tìm thêm bạn hữu,
nhưng nhắc mãi lỗi cũ khiến bạn bè xa lánh.
10 Người khôn học được nhiều qua lời trách móc,
còn kẻ ngu dại có đánh trăm roi cũng như không.
11 Kẻ ác tìm điều dấy loạn,
cho nên sứ giả hung bạo sẽ được sai đi trị chúng.
12 Thà gặp gấu cái mất con,
hơn gặp kẻ ngu dại làm chuyện ngu xuẩn.
13 Ai lấy ác báo thiện,
sẽ luôn luôn gặp khó khăn trong gia đình.
14 Gây cãi vã chẳng khác nào chỗ nứt trong đập nước,
cho nên hãy ngăn chận nó trước khi nó nổ bùng.
15 Chúa rất ghét hai điều sau:
phóng thích kẻ có tội và trừng phạt người vô tội.
16 Kẻ dại dù có mua khôn ngoan cũng vô ích,
vì nó không ước muốn học hỏi.
17 Bạn bè thương nhau mọi lúc,
còn anh em sinh ra để giúp nhau trong cảnh khốn khó.
18 Ai dại dột mới bảo lãnh cho láng giềng.
19 Ai ưa tranh biện thích phạm tội.
Ai hay khoác lác rước lấy lôi thôi vào mình [c].
20 Kẻ có lòng gian ác chẳng thể thành công,
kẻ ăn nói phỉnh gạt sẽ gặp lôi thôi.
21 Sinh con dại dột thật đáng buồn;
làm cha mẹ của đứa ngu dại chẳng vui sướng gì.
22 Lòng vui mừng là phương thuốc hay,
còn tinh thần chán nản làm suy yếu sức khoẻ.
23 Khi kẻ ác nhận của hối lộ,
thì công lý cất cánh bay đi.
24 Người thông hiểu luôn tìm sự khôn ngoan,
nhưng mắt kẻ ngu dại nhìn mông lung.
25 Con ngu dại gây buồn bực cho cha,
là niềm sầu khổ của mẹ.
26 Trừng phạt người vô tội là sai,
đánh đập người lãnh đạo lương thiện là quấy.
27 Người khôn ngoan dè dặt trong lời nói,
kẻ biết điều mình làm tỏ ra bình thản [d].
28 Khi im lặng thì kẻ ngu cũng được xem là khôn,
nếu làm thinh thì kẻ dại cũng được xem như thông sáng.
18 Những kẻ thiếu thân thiện tỏ ra ích kỷ,
và cãi vã với sự khôn ngoan thật.
2 Kẻ dại không muốn hiểu biết gì.
Chúng chỉ muốn nói điều mình nghĩ.
3 Khi điều ác đến, thì sự khinh rẻ cũng xuất hiện.
Khi sỉ nhục đến thì lời chửi bới cũng sẽ đến.
4 Lời nói có thể như nước sâu,
nhưng sự khôn ngoan như dòng suối chảy.
5 Không nên thiên vị kẻ ác,
hay xử bất công với người vô tội.
6 Lời nói kẻ ngu dại đưa đến cãi vã.
Lối ăn nói của chúng
khiến người ta muốn đánh chúng.
7 Ngôn ngữ của kẻ dại sẽ hại nó;
lời nói của nó là cái bẫy cho nó.
8 Lời nói của kẻ bép xép như món ăn ngon,
đi sâu vào ruột gan người nghe.
9 Kẻ biếng nhác trong công việc,
là anh em với kẻ phá hoại.
10 Danh của Chúa như cái tháp vững chắc;
ai làm điều phải chạy đến đó trú ẩn an toàn.
11 Kẻ giàu trông cậy vào của cải,
tin rằng của cải là thành có vách cao vững chãi.
12 Sự kiêu căng đi trước sự tàn hại,
sự khiêm nhường đi trước sự tôn trọng.
13 Trả lời trước khi nghe,
là ngu dại và sỉ nhục.
14 Tinh thần của con người
có thể khiến họ chịu đựng bệnh tật,
nhưng nếu mất tinh thần thì mọi việc đều bó tay [e].
15 Trí óc người hiểu biết thu nhận tri thức;
người khôn lắng nghe để học thêm kiến thức.
16 Quà cáp mở cửa cho người biếu xén,
và giúp người ấy gặp kẻ có quyền.
17 Người đầu tiên trình bày lý lẽ có vẻ hợp lý,
cho đến khi bị chất vấn.
18 Bắt thăm giải quyết được cuộc tranh luận
giữa hai người mạnh bạo.
19 Anh em bị tổn thương khó được lòng lại
hơn thành có vách kiên cố,
còn tranh luận phân rẽ anh em như then cài cổng lâu đài.
20 Nhờ lời nói mà được hưởng phúc;
cũng nhờ môi miệng mà được khen ngợi.
21 Sống chết đều do lời nói mà ra.
Ăn nói thận trọng sẽ được khen thưởng [f].
22 Ai kiếm được vợ tức tìm được hạnh phúc,
và nhận được phúc lành từ Chúa.
23 Kẻ nghèo van xin
nhưng người giàu đáp xẳng xớm.
24 Người có nhiều bạn đôi khi bị hại [g],
nhưng có một người bạn
còn thân thiết hơn anh em ruột.
Footnotes
- Châm Ngôn 16:6 Tình yêu … tội lỗi Hay “chuộc tội.” Tiếng Hê-bơ-rơ chỗ nầy có nghĩa là “che dấu,” hay “xóa bỏ” tội lỗi.
- Châm Ngôn 16:12 Vua ghét … làm quấy Hay “Khi vua làm quấy là điều đáng ghét.”
- Châm Ngôn 17:19 Ai hay khoác lác … vào mình Nguyên văn, “Kẻ xây cổng cao tìm sự hủy diệt.”
- Châm Ngôn 17:27 bình thản Nguyên văn, “tinh thần tươi mát.”
- Châm Ngôn 18:14 mọi việc đều bó tay Nguyên văn, “không thể nhấc lên,” hay “không cách nào chữa lành được.”
- Châm Ngôn 18:21 Ăn nói … khen thưởng Nguyên văn, “Kẻ thích nói sẽ ăn hoa quả của miệng mình.”
- Châm Ngôn 18:24 Người có nhiều bạn đôi khi bị hại Câu nầy trong nguyên văn không rõ nghĩa.
II Cô-rinh-tô 6
Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version
6 Chúng tôi là bạn đồng công với Thượng Đế cho nên chúng tôi nài xin anh chị em: Đừng làm uổng phí ân tứ anh chị em đã nhận từ Thượng Đế. 2 Thượng Đế đã phán,
“Ta đã nghe lời cầu nguyện
của ngươi đúng lúc.
Ta đã cứu giúp ngươi
trong ngày cứu rỗi.” (A)
Tôi xin thưa với anh chị em, bây giờ là “đúng lúc,” và bây giờ là “ngày cứu rỗi.”
3 Chúng tôi không muốn làm cớ vấp ngã cho người nào để không ai chỉ trích việc làm của chúng tôi. 4 Trong mọi việc, chúng tôi luôn luôn chứng tỏ mình là đầy tớ Thượng Đế: Chúng tôi chấp nhận khốn khó, vất vả và thử thách. 5 Chúng tôi bị đòn vọt, tù đày. Gặp những người tức giận với chúng tôi rồi gây bạo động. Chúng tôi làm việc vất vả, có khi thiếu ăn, mất ngủ. 6 Để chứng tỏ mình là đầy tớ của Thượng Đế chúng tôi dùng đời sống tinh sạch, hiểu biết, kiên nhẫn, nhân từ, bằng Thánh Linh, bằng lòng yêu thương chân thật, 7 bằng lời nói thật, và bằng quyền năng Thượng Đế. Chúng tôi dùng nếp sống ngay thật để bênh vực mình khỏi mọi thứ. 8 Có người tôn trọng chúng tôi nhưng cũng có kẻ chê trách chúng tôi. Có kẻ nói xấu chúng tôi nhưng cũng có người nói tốt về chúng tôi. Có người cho chúng tôi là kẻ nói dối nhưng chúng tôi luôn luôn nói điều chân thật. 9 Trông như không ai biết, thế mà có nhiều người biết. Trông như sắp chết, thế mà vẫn còn sống, chúng tôi bị hình phạt nhưng chưa bị giết. 10 Gặp đủ cảnh buồn mà trong lòng vẫn vui. Tuy nghèo mà lại làm cho nhiều người giàu có trong đức tin. Trông như không có gì cả mà lại có đủ mọi thứ.
11 Chúng tôi đã thẳng thắn giảng dạy anh chị em ở Cô-rinh và đã mở rộng lòng ra cho anh chị em. 12 Lòng yêu mến của chúng tôi dành cho anh chị em không hề dứt nhưng chính anh chị em đã dứt lòng yêu mến mà anh chị em dành chúng tôi. 13 Tôi nói với anh chị em như với con cái mình. Hãy đối với chúng tôi như chúng tôi đối với anh chị em—hãy mở rộng lòng ra với chúng tôi.
Cảnh cáo về những người không tin
14 Anh chị em không như những người chưa tin. Cho nên đừng kết bạn với họ. Xấu và tốt không thể đi chung nhau. Sáng và tối cũng không hòa hợp được. 15 Làm sao mà Chúa Cứu Thế và Bê-li-an, tức ma quỉ [a], thỏa hiệp được với nhau? Người tin có phần nào chung với người không tin? 16 Đền thờ Thượng Đế [b] làm sao liên kết được với thần tượng, mà chúng ta là đền thờ của Thượng Đế hằng sống. Như Thượng Đế đã phán,
“Ta sẽ sống và đi lại giữa họ.
Ta sẽ là Thượng Đế của họ,
còn họ sẽ làm dân ta.” (B)
17 “Chúa phán,
Hãy ra khỏi chúng nó,
hãy tách riêng ra.
Đừng đụng đến đồ dơ bẩn,
thì ta sẽ tiếp nhận các ngươi.” (C)
18 “Ta sẽ làm cha các ngươi,
còn các ngươi sẽ làm con trai
và con gái ta,
Chúa Toàn Năng phán như vậy.” (D)
Footnotes
- II Cô-rinh-tô 6:15 ma quỉ Nguyên văn, “bê-li-a,” là một dạng khác của từ ngữ “bê-li-an” trong tiếng Do-thái, có nghĩa là “vô dụng” và thường được dùng để chỉ ma quỉ hay Kẻ Chống lại Chúa Cứu Thế.
- II Cô-rinh-tô 6:16 Đền thờ Thượng Đế Nhà của Thượng Đế—nơi dân sự của Ngài thờ phụng Ngài. Đây có nghĩa là những tín hữu là đền thờ thiêng liêng nơi Thượng Đế ngự.
© 2010 Bible League International