Add parallel Print Page Options

Dòng Họ Kê-hát

Chúa phán với Môi-se và A-rôn rằng, “Hãy thống kê những người Kê-hát trong vòng các con cháu Lê-vi, theo gia đình và gia tộc của họ, những người từ ba mươi tuổi đến năm mươi tuổi, tức tất cả những người đủ tiêu chuẩn để phục vụ trong Lều Hội Kiến. Công việc của người Kê-hát trong Lều Hội Kiến sẽ liên quan đến những đồ thờ cực thánh.

Mỗi khi nhổ trại ra đi, A-rôn và các con trai ông sẽ đi vào và gỡ tấm màn ngăn đôi trong Nơi Thánh xuống, rồi dùng nó bao Rương Giao Ước lại. Kế đến họ sẽ phủ lên trên một tấm đậy làm bằng da thú thượng hạng,[a] rồi phủ bên trên tấm đậy ấy một tấm vải xanh dương; sau đó họ xỏ các đòn khiêng vào.

Về bàn dâng Bánh Hằng Hiến, họ sẽ lấy một tấm vải xanh dương phủ lên; rồi lấy các khay, các bát dâng hương, các chén, các bình dùng để dâng lễ quán, và bánh dâng hằng ngày đem đặt trên tấm vải đó. Kế đến họ sẽ lấy một tấm vải màu đỏ thẳm phủ trên các món đó, rồi lấy một tấm khác làm bằng da thú thượng hạng phủ trên tấm vải ấy; sau đó họ mới xỏ đòn khiêng vào.

Họ cũng sẽ lấy một tấm vải xanh dương bọc thân cây đèn lại, cùng bọc luôn các ngọn đèn, các kéo cắt tim đèn, các đĩa đựng tàn, và tất cả bình dầu để thắp đèn. 10 Họ sẽ lấy một cái bao làm bằng da thú thượng hạng bọc cây đèn và mọi khí dụng của cây đèn lại, rồi đem đặt tất cả lên cáng để khiêng đi.

11 Họ sẽ lấy một tấm vải xanh dương bọc bàn thờ bằng vàng, rồi lấy một tấm làm bằng da thú thượng hạng phủ trên tấm vải đó, sau đó họ sẽ xỏ các đòn khiêng vào. 12 Kế đến họ sẽ lấy tất cả khí dụng dùng vào việc thờ phượng trong Nơi Thánh, dùng một tấm vải xanh dương gói lại, xong lấy một tấm làm bằng da thú thượng hạng phủ lên, rồi đem đặt trên cáng để mang đi. 13 Họ cũng sẽ lấy tro trên bàn thờ, rồi lấy một tấm vải tím phủ lên. 14 Ðoạn họ sẽ đặt trên tấm vải đó tất cả khí dụng của bàn thờ, tức những thứ dùng cho sự thờ phượng, như các lư hương, các chĩa, các xẻng, các chén, và tất cả dụng cụ của bàn thờ; rồi họ sẽ phủ lên trên các dụng cụ ấy một tấm đậy làm bằng da thú thượng hạng; sau đó họ mới xỏ các đòn khiêng vào.

15 Sau khi A-rôn và các con ông hoàn tất công việc che phủ Nơi Thánh và tất cả khí dụng của Nơi Thánh, lúc sắp sửa nhổ trại ra đi, bấy giờ các con cháu Kê-hát mới đến để mang các vật thánh ấy đi. Tuy nhiên họ không được phép chạm vào bất cứ vật thánh nào, nếu không họ sẽ chết. Ðó là những vật dụng của Lều Hội Kiến mà các con cháu Kê-hát có nhiệm vụ mang đi.

16 Ê-lê-a-xa con trai Tư Tế A-rôn có nhiệm vụ trông coi việc cung cấp dầu cho đèn, hương thơm, của lễ chay dâng thường xuyên, dầu cho lễ xức dầu, cùng coi sóc toàn thể Ðền Tạm và mọi vật trong đó, tức Nơi Thánh và các vật dụng trong đó.”

17 Chúa lại phán với Môi-se và A-rôn, 18 “Các ngươi chớ để cho thị tộc của dòng họ Kê-hát bị diệt mất trong vòng các con cháu Lê-vi. 19 Ðây là những gì các ngươi phải làm cho họ để họ được sống và không phải chết khi họ đến gần các vật cực thánh: A-rôn và các con trai ông sẽ vào và giao công tác hoặc những gì cần phải khuân vác cho mỗi người. 20 Nhưng các con cháu Kê-hát không được phép tự động vào xem những vật thánh trong lúc chúng được che kín, dù chỉ trong giây phút cũng không được, bằng không chúng sẽ chết.”

Dòng Họ Ghẹt-sôn và Dòng Họ Mê-ra-ri

21 Chúa phán với Môi-se rằng, 22 “Ngươi cũng hãy thống kê những người Ghẹt-sôn theo gia đình và gia tộc của họ; 23 ngươi hãy thống kê những người từ ba mươi tuổi đến năm mươi tuổi, tức tất cả những người đủ tiêu chuẩn để phục vụ trong Lều Hội Kiến. 24 Ðây là công việc của người Ghẹt-sôn trong công tác phục vụ hay trong công tác chuyên chở nặng nề: 25 Họ sẽ đảm trách việc di chuyển những bức màn của Ðền Tạm, Lều Hội Kiến với mái lều, tấm phủ lều làm bằng da thú thượng hạng, tấm màn ở cửa Lều Hội Kiến, 26 những tấm màn làm tường bao quanh sân, tấm màn che ở cửa ra vào sân, đó là bức tường vải bao quanh khu Ðền Tạm và bàn thờ, những dây căng lều, và tất cả dụng cụ liên quan đến công việc của họ. Họ sẽ làm tất cả những việc họ cần phải làm.

27 Tất cả những công việc của người Ghẹt-sôn sẽ đặt dưới quyền chỉ huy của A-rôn và các con trai ông; cha con ông sẽ điều động họ mọi việc liên quan đến vấn đề di chuyển và mọi việc họ cần phải làm. Các ngươi phải chỉ bảo họ những gì họ phải mang đi. 28 Ðó là công tác của dòng họ Ghẹt-sôn đối với Lều Hội Kiến. Nhiệm vụ của họ được đặt dưới quyền chỉ huy của I-tha-ma con trai Tư Tế A-rôn.

29 Còn đối với con cháu của Mê-ra-ri, ngươi hãy thống kê những người Mê-ra-ri theo gia đình và gia tộc của họ; 30 ngươi hãy thống kê những người từ ba mươi tuổi đến năm mươi tuổi, tức tất cả những người đủ tiêu chuẩn để phục vụ trong Lều Hội Kiến. 31 Ðây là những gì liên quan đến Lều Hội Kiến được giao cho họ để họ mang đi: các tấm ván của Lều Hội Kiến, các thanh ngang, các trụ, các đế trụ, 32 các trụ của bức tường vải bao quanh sân, các đế của những trụ đó, các cây cọc, các dây căng trại, các đồ phụ tùng, và mọi thứ liên hệ đến những vật đó. Các ngươi phải chỉ định đích danh những vật gì họ phải mang đi. 33 Ðó là trách nhiệm của dòng họ Mê-ra-ri về mọi công việc của họ liên quan đến Lều Hội Kiến dưới sự chỉ huy của I-tha-ma con trai Tư Tế A-rôn.”

Thống Kê Chi Tộc Lê-vi

34 Vậy Môi-se, A-rôn, và những vị lãnh đạo của hội chúng đã thống kê các con cháu Kê-hát theo từng gia đình và gia tộc của họ, 35 những người từ ba mươi tuổi đến năm mươi tuổi, tức tất cả những người đủ tiêu chuẩn để phục vụ trong Lều Hội Kiến. 36 Tổng số người đã được thống kê, dựa theo con số khai báo trong các gia đình là hai ngàn bảy trăm năm mươi người. 37 Ðó là con số được thống kê của dòng họ Kê-hát, tức tất cả những người sẽ phục vụ trong Lều Hội Kiến mà Môi-se và A-rôn đã thống kê theo lịnh Chúa đã truyền cho Môi-se.

38 Các con cháu Ghẹt-sôn được thống kê theo từng gia đình và gia tộc của họ, 39 những người từ ba mươi tuổi đến năm mươi tuổi, tức tất cả những người đủ tiêu chuẩn để phục vụ trong Lều Hội Kiến. 40 Tổng số người đã được thống kê dựa theo con số khai báo trong các gia đình và gia tộc của họ là hai ngàn sáu trăm ba mươi người. 41 Ðó là con số được thống kê của dòng họ Ghẹt-sôn, tức tất cả những người sẽ phục vụ trong Lều Hội Kiến mà Môi-se và A-rôn đã thống kê theo lịnh Chúa đã truyền cho Môi-se.

42 Dòng họ Mê-ra-ri được thống kê theo từng gia đình và gia tộc của họ, 43 những người từ ba mươi tuổi đến năm mươi tuổi, tức tất cả những người đủ tiêu chuẩn để phục vụ trong Lều Hội Kiến. 44 Tổng số người đã được thống kê dựa theo con số khai báo trong các gia đình của họ là ba ngàn hai trăm người. 45 Ðó là con số được thống kê của dòng họ Mê-ra-ri mà Môi-se và A-rôn đã thống kê theo lịnh Chúa đã truyền cho Môi-se.

46 Tất cả những người được thống kê trong chi tộc Lê-vi, tức những người mà Môi-se và A-rôn cùng những vị lãnh đạo của dân I-sơ-ra-ên đã thống kê theo từng gia đình và gia tộc của họ, 47 từ ba mươi tuổi đến năm mươi tuổi, tức những người đủ tiêu chuẩn để phục vụ và làm những công việc di chuyển nặng nhọc liên quan đến Lều Hội Kiến 48 là tám ngàn năm trăm tám mươi người. Ðó là tổng số những người được thống kê. 49 Theo lịnh Chúa truyền cho Môi-se, những người ấy được giao cho những công tác để phục vụ hoặc khiêng vật gì khi di chuyển. Như vậy họ đã được thống kê theo như Chúa đã truyền cho Môi-se.

Những Người Bị Ô Uế

Chúa phán với Môi-se rằng, “Hãy truyền cho dân I-sơ-ra-ên buộc những người bị bịnh phung,[b] những người bị nhiễm trùng ra mủ, và những người bị ô uế do đụng chạm vào xác chết phải ra ở bên ngoài doanh trại. Ngươi phải bắt những người ấy, bất kể nam hay nữ, phải ra bên ngoài doanh trại mà ở. Họ không được làm cho doanh trại, tức nơi Ta ngự, trở nên ô uế.” Dân I-sơ-ra-ên làm y như vậy; họ bắt những người ấy ra ở bên ngoài doanh trại. Chúa đã truyền cho Môi-se thể nào, họ làm y như thế ấy.

Nhận Tội và Bồi Thường

Chúa phán với Môi-se rằng, “Hãy nói với dân I-sơ-ra-ên: Khi một người nào, bất luận nam hay nữ, phạm một tội gì người ta có thể phạm khiến mang tội với Chúa, và người ấy đã mắc tội. Người ấy phải xưng nhận tội mình đã phạm, rồi phải bồi thường thiệt hại do mình gây ra, và phải trả thêm một phần năm cho người bị thiệt hại. Nếu người bị thiệt hại không còn sống và cũng không có bà con gần nào để có thể lãnh tiền bồi thường, tiền bồi thường ấy sẽ thuộc về Chúa, và tư tế sẽ được hưởng, không kể con chiên đực làm của lễ chuộc tội mà người mắc tội phải đem dâng để làm lễ chuộc tội cho mình.

Trong tất cả lễ vật thánh của dân I-sơ-ra-ên, món gì họ đem biếu cho tư tế sẽ thuộc về tư tế. 10 Tất cả lễ vật thánh đều thuộc về người đem dâng, nhưng món gì người ấy đem biếu cho tư tế sẽ thuộc về tư tế.”

Luật về Ghen Tương

11 Chúa phán với Môi-se rằng, 12 “Hãy nói với dân I-sơ-ra-ên và bảo họ: Nếu vợ người nào ngoại tình và không chung thủy với chồng, 13 nếu có người đàn ông nào ăn nằm với người đàn bà ấy mà chồng bà không biết, tức người đàn bà ấy đã thất tiết do lén lút ngoại tình, và không có chứng cớ vì không ai bắt quả tang, 14 nếu người chồng nổi ghen vì nghi ngờ vợ mình đã lén lút ngoại tình và nàng đã thất tiết, hoặc nếu người chồng nổi ghen vì nghi ngờ vợ mình đã lén lút ngoại tình mặc dù nàng không hề thất tiết, 15 thì người chồng phải đem vợ mình đến tư tế. Vì cớ nàng, người chồng phải đem theo hai lít[c] bột lúa mạch để làm của lễ. Ông ta không được đổ dầu vào hay rắc nhũ hương lên trên, vì đó là của lễ chay dâng vì ghen, một của lễ tượng trưng, dâng để xin xác định tội lỗi.

16 Tư tế sẽ đem người đàn bà đến gần và để nàng đứng trước mặt Chúa. 17 Tư tế sẽ lấy nước thánh từ trong bình sành và lấy một ít bụi trên nền Ðền Tạm bỏ vào trong nước ấy. 18 Tư tế sẽ để người nữ ấy đứng trước mặt Chúa, bảo nàng xõa tóc xuống, đặt trong tay nàng một của lễ chay tượng trưng, tức của lễ chay dâng vì ghen. Trong tay tư tế có nước đắng mang lại sự nguyền rủa. 19 Tư tế sẽ bắt nàng thề và nói với nàng như thế nầy, ‘Nếu không có người đàn ông nào đã ăn nằm với bà, nếu bà không hề lỗi đạo với chồng mà thất thân với ai, thì nước đắng mang lại sự nguyền rủa nầy sẽ không làm hại bà. 20 Nhưng nếu bà đã ngoại tình và đã lỗi đạo với chồng, nếu bà đã thất tiết vì ăn nằm với một người đàn ông khác mà không phải chồng bà’ 21 – Bấy giờ tư tế sẽ bắt nàng thề độc và nói với nàng– ‘Nguyện Chúa làm cho bà trở thành cớ cho người ta nguyền rủa và thề độc giữa vòng dân tộc bà. Nguyện Chúa làm cho tử cung bà teo lại và bụng bà sình ra. 22 Nguyện nước đắng nầy thấm vào ruột gan bà làm cho bụng bà sình ra, còn tử cung bà sẽ teo lại.’ Người đàn bà ấy sẽ đáp, ‘A-men. A-men.’[d]

23 Bấy giờ tư tế sẽ viết những lời nguyền rủa ấy trên một bảng nhỏ,[e] rồi đem rửa những chữ ấy cho chảy vào nước đắng. 24 Tư tế sẽ bắt nàng uống nước đắng mang lại sự nguyền rủa ấy. Nước đắng mang lại sự nguyền rủa sẽ vào trong ruột gan nàng và làm cho nàng đau bụng vì nước đắng ấy. 25 Tư tế sẽ lấy của lễ chay dâng vì ghen khỏi tay nàng, rồi nâng cao lên để dâng, sau đó tư tế mang của lễ ấy đến bàn thờ. 26 Tư tế sẽ hốt một nắm bột tượng trưng của lễ chay, đem bỏ nắm bột ấy vào lửa trên bàn thờ để thiêu cho thành khói, sau đó tư tế bảo nàng uống thứ nước đó. 27 Sau khi tư tế đã bắt nàng uống thứ nước đó, nếu quả thật nàng đã lỗi đạo với chồng và đã thất thân với người khác, thì nước đắng mang lại sự nguyền rủa đó sẽ vào ruột gan nàng, khiến nàng bị đau đớn vì đắng, bụng nàng sẽ sình ra, tử cung nàng sẽ teo lại, và nàng sẽ thành cớ cho người ta nguyền rủa giữa dân tộc nàng. 28 Nhưng nếu nàng không hề ngoại tình và luôn luôn trong trắng, nàng sẽ không bị hại gì, về sau nàng sẽ có thai và sinh con.

29 Ðó là luật về ghen tương, áp dụng cho người phụ nữ có chồng mà lén lút ngoại tình và thất tiết với chồng, 30 hoặc khi người chồng nổi ghen vì nghi ngờ lòng chung thủy của vợ, người chồng phải dẫn vợ đến trước mặt Chúa, rồi tư tế sẽ áp dụng đầy đủ những chi tiết của luật nầy cho nàng. 31 Người chồng sẽ vô tội, nhưng người vợ sẽ mang lấy tội lỗi của nàng.”

Luật về Người Na-xi-rê

Chúa phán với Môi-se rằng, “Hãy nói với dân I-sơ-ra-ên và bảo họ: Khi một người nam hay nữ lập lời khấn nguyện na-xi-rê để biệt riêng mình ra thánh cho Chúa, người ấy phải kiêng cữ rượu và các thức uống say. Người ấy không được uống rượu giấm hoặc thức chi say do men rượu chế ra; người ấy không được uống bất cứ thứ nước nho nào, và cũng không được ăn trái nho, bất kể là nho tươi hay nho khô. Trong suốt thời gian giữ lời khấn nguyện na-xi-rê người ấy không được ăn những sản phẩm của cây nho, và không được ăn ngay cả những sản phẩm làm từ hột nho hay vỏ nho.

Suốt thời gian người ấy giữ lời khấn nguyện na-xi-rê, dao cạo sẽ không được đụng đến đầu người ấy. Cho đến ngày người ấy làm xong sự khấn nguyện của mình và được giải thệ, người ấy là một người được biệt riêng ra thánh cho Chúa, nên người ấy phải để tóc trên đầu mình mọc ra tự nhiên.

Suốt thời gian biệt riêng mình ra thánh cho Chúa, người ấy không được lại gần xác chết. Ngay cả cha, mẹ, anh, chị, hay em mình qua đời, người ấy cũng không được để cho mình bị ô uế, bởi vì trên đầu người ấy vẫn còn mang dấu hiệu khấn nguyện làm người na-xi-rê cho Ðức Chúa Trời. Suốt thời gian làm người na-xi-rê người ấy là người thánh cho Chúa.

Nếu có ai đột nhiên ngã chết bên cạnh, khiến cho đầu đã biệt riêng ra thánh của người ấy trở nên ô uế, người ấy phải cạo đầu mình trong ngày tẩy uế, tức cạo đầu mình trong ngày thứ bảy. 10 Ðến ngày thứ tám, người ấy sẽ mang hai con chim đất hoặc một cặp bồ câu con đến tư tế ở cửa Lều Hội Kiến. 11 Tư tế sẽ dâng một con làm của lễ chuộc tội, còn con kia làm của lễ thiêu, để chuộc tội cho người ấy, vì người ấy đã vướng phải tội do ở gần xác chết. Trong ngày đó người ấy phải làm cho đầu mình ra thánh. 12 Sau đó người ấy có thể tái khấn nguyện biệt riêng mình ra thánh một thời gian để làm người na-xi-rê cho Chúa, và dâng một con chiên đực một tuổi làm của lễ tạ lỗi. Thời gian lúc trước không còn được kể nữa, vì sự giữ lời khấn nguyện na-xi-rê đã bị phạm uế.

13 Ðây là luật cho người na-xi-rê khi thời gian biệt riêng ra thánh của người ấy đã mãn: Người ấy sẽ được đưa đến cửa Lều Hội Kiến 14 để dâng của lễ lên Chúa. Lễ vật sẽ gồm một con chiên đực một tuổi không tì vết để làm của lễ thiêu, một con chiên cái một tuổi không tì vết để làm của lễ chuộc tội, một con chiên đực không tì vết để làm của lễ cầu an, 15 một rổ bánh không men, một ít bánh ngọt làm bằng bột thượng hạng trộn dầu, một ít bánh tráng không men phết dầu, cùng với của lễ chay và của lễ quán. 16 Tư tế sẽ đem các của lễ ấy đến trước mặt Chúa, và cử hành nghi thức dâng của lễ chuộc tội và của lễ thiêu, 17 rồi dâng con chiên đực lên Chúa để làm con vật hiến tế cho của lễ cầu an, chung với rổ bánh không men. Tư tế cũng sẽ dâng kèm theo đó của lễ chay và của lễ quán. 18 Bấy giờ người na-xi-rê sẽ cạo đầu đã biệt riêng ra thánh của mình trước cửa Lều Hội Kiến, rồi lấy tóc đã cạo từ đầu đã biệt riêng ra thánh của mình thiêu trong lửa đang cháy dưới xác con vật hiến tế làm của lễ cầu an. 19 Sau khi thịt con vật hiến tế đã luộc chín, tư tế sẽ lấy cái đùi trước[f] của con chiên đực, một cái bánh không men trong rổ, một cái bánh tráng không men, và đặt vào hai tay của người na-xi-rê, tức sau khi người ấy đã cạo đầu mình. 20 Kế đến tư tế sẽ lấy và nâng cao chúng lên[g] để dâng lên trước mặt Chúa. Ðó là phần đã ra thánh thuộc về tư tế, gồm cái ức đã được nâng cao lên dâng và cái đùi đã được dâng. Sau đó người na-xi-rê được phép uống rượu.

21 Ðó là luật cho người khấn nguyện làm người na-xi-rê. Của lễ người ấy dâng lên Chúa phải phù hợp với lời khấn nguyện làm người na-xi-rê của mình, ngoài những gì người ấy có thể dâng thêm. Người ấy khấn nguyện khi biệt riêng mình ra thánh thế nào thì phải làm theo thể ấy, y như luật dành cho người na-xi-rê.”

Cách Tư Tế Chúc Phước

22 Chúa phán với Môi-se rằng, 23 “Hãy nói với A-rôn và các con trai ông ấy, ‘Ðây là cách các ngươi sẽ chúc phước dân I-sơ-ra-ên. Các ngươi sẽ nói với họ,

24 “Nguyện xin Chúa ban phước cho anh chị em[h] và gìn giữ anh chị em.
25 Nguyện xin Chúa tỏa rạng hào quang của thánh nhan Ngài trên anh chị em và bày tỏ lòng nhân từ đối với anh chị em.
26 Nguyện xin Chúa đoái xem[i] anh chị em và ban bình an thịnh vượng[j] cho anh chị em.”’

27 Khi họ nhân danh Ta chúc phước cho dân I-sơ-ra-ên,[k] Ta sẽ ban phước cho dân ấy.”

Footnotes

  1. Dân Số 4:6 Nguyên liệu làm tấm đậy nầy trong Hebrew trong rõ nghĩa; có thể là da dê, cũng có thể là da cá heo.
  2. Dân Số 5:2 Từ nầy trong tiếng Hebrew dùng để chỉ chung các bịnh ngoài da, chứ không nhất thiết là bịnh cùi như chúng ta biết ngày nay.
  3. Dân Số 5:15 nt: 1/10 ê-pha
  4. Dân Số 5:22 ctd: ‘Tôi đồng ý. Tôi đồng ý.’
  5. Dân Số 5:23 nt: cepher, một dụng cụ để làm sách thời xưa
  6. Dân Số 6:19 ctd: cái vai
  7. Dân Số 6:20 ctd: đưa qua đưa lại
  8. Dân Số 6:24 nt: bạn
  9. Dân Số 6:26 nt: Nguyện Chúa ngước mặt Ngài trên bạn
  10. Dân Số 6:26 nt: shalom: bình an, hạnh phúc, mạnh khỏe, thinh vượng, an toàn
  11. Dân Số 6:27 nt: Họ đặt danh Ta trên con cái I-sơ-ra-ên

Ngụ Ngôn về Người Gieo Giống

(Mat 13:1-9; Lu 8:4-8)

Ngài lại bắt đầu giảng dạy bên bờ biển. Một đám đông rất lớn tụ họp quanh Ngài đến nỗi Ngài phải lên ngồi trên một chiếc thuyền đậu ven bờ, còn đoàn dân đông đứng trên bờ. Ngài dùng những ngụ ngôn dạy họ nhiều điều. Trong khi giảng dạy Ngài phán, “Hãy nghe, này, một người kia đi ra gieo giống. Trong khi gieo, một số hạt giống rơi bên vệ đường, chim đến ăn hết. Một số khác rơi nhằm nơi sỏi đá, nơi chẳng có nhiều đất thịt. Chúng liền mọc lên, nhưng vì đất không nhiều, nên khi mặt trời mọc lên, chúng bị nắng gắt thiêu đốt, và vì không có rễ ăn sâu, chúng bị héo khô. Một số hạt khác rơi vào những bụi gai; gai góc mọc lên, làm chúng bị nghẹt, nên không kết quả. Còn những hạt khác rơi vào đất tốt và kết quả. Chúng mọc lên, tăng trưởng, và nảy nở thêm nhiều; hạt thành ba mươi, hạt ra sáu chục, và hạt được một trăm.” Ðoạn Ngài phán, “Ai có tai để nghe, hãy lắng nghe.”

Lý Do Chúa Dùng Ngụ Ngôn

(Mat 13:10-15; Lu 8:9-10)

10 Khi Ngài ở một mình, những người quanh Ngài và mười hai sứ đồ đến hỏi Ngài về ý nghĩa của các ngụ ngôn. 11 Ngài nói với họ, “Ðối với các ngươi, huyền nhiệm về vương quốc Ðức Chúa Trời được giãi bày cho, nhưng đối với người ngoài thì mọi sự vẫn phải dùng ngụ ngôn, 12 để

‘Họ nhìn mà không thấy,
Họ nghe mà không hiểu,
Kẻo họ trở lại mà được tha thứ.’”Ê-sai 6:9

Chúa Giải Nghĩa Ngụ Ngôn Người Gieo Giống

(Mat 13:18-23; Lu 8:11-15)

13 Sau đó Ngài nói với họ, “Các ngươi không hiểu ý nghĩa của ngụ ngôn ấy sao? Vậy làm sao các ngươi có thể hiểu tất cả những ngụ ngôn khác? 14 Người gieo giống gieo đạo.[a] 15 Những hạt ở bên vệ đường chỉ về những người chịu nghe đạo đã gieo, nhưng khi họ vừa nghe xong, Sa-tan liền đến giựt lấy đạo đã gieo vào lòng họ. 16 Tương tự, những hạt gieo nhằm đất sỏi đá chỉ về những người khi nghe đạo thì vui mừng tin nhận, 17 nhưng chẳng để cho đạo đâm rễ trong lòng, mà chỉ tin hời hợt nhất thời; đến khi khó khăn hoạn nạn hoặc cơn bách hại vì đạo xảy ra, họ liền bỏ đạo. 18 Những hạt khác là những hạt rơi vào các bụi gai; đây chỉ về những người đã nghe đạo, 19 nhưng lại để cho những lo lắng về đời này, sự lừa dối của giàu sang, và những ham muốn các thứ khác làm cho nghẹt ngòi đạo và trở nên không kết quả. 20 Còn những hạt giống gieo vào đất tốt chỉ về những người nghe đạo, tiếp nhận, và kết quả; người được ba chục, người được sáu chục, và người được một trăm.”

Read full chapter

Footnotes

  1. Mác 4:14 nt: lời, sứ điệp (Lógos)