Add parallel Print Page Options

Luật về các bệnh ngoài da

13 Chúa phán cùng Mô-se và A-rôn rằng, “Khi ai bị da sưng phồng lên, bị ghẻ hay có vết trắng, nếu vết lở giống như bệnh ngoài da nguy hại thì phải mang người đó đến A-rôn là thầy tế lễ, hay đến một trong các con trai A-rôn đang giữ chức tế lễ. Thầy tế lễ phải khám vết lở trên da người đó. Nếu lông chỗ vết lở đã hoá trắng và vết lở lõm sâu hơn mặt da thì đó là bệnh ngoài da nguy hại. Sau khi khám xong, thầy tế lễ phải tuyên bố rằng người đó bị ô dơ.

Nếu vết trắng trên da không lõm sâu hơn mặt da và nếu lông trên vết không hóa trắng thì thầy tế lễ phải giữ riêng người ấy trong bảy ngày. Đến ngày thứ bảy thầy tế lễ sẽ khám lần nữa. Nếu thấy vết lở không thay đổi hoặc không lan ra trên da thì thầy tế lễ phải giữ riêng người thêm bảy ngày nữa. Đến ngày thứ bảy, thầy tế lễ sẽ khám trở lại. Nếu vết lở đã phai màu hoặc không lan ra trên da thì thầy tế lễ phải tuyên bố người đó tinh sạch; vết lở chỉ là vết ghẻ ngứa thường. Người phải giặt áo quần mình rồi sẽ được tinh sạch trở lại.

Nhưng nếu vết ghẻ ngứa lại lan ra sau khi thầy tế lễ tuyên bố người tinh sạch, thì người phải trở lại với thầy tế lễ lần nữa. Thầy tế lễ phải khám lại. Nếu vết ghẻ đã lan ra trên da thì thầy tế lễ phải tuyên bố người đó bị ô dơ; đó là bệnh ngoài da nguy hại.

Nếu ai mắc bệnh ngoài da nguy hại thì phải đem người đó đến thầy tế lễ, 10 thầy tế lễ sẽ khám. Nếu thấy có vết sưng trên da và nếu lông đã hóa trắng và da bị lòi thịt nơi chỗ sưng, 11 thì đó là bệnh ngoài da nguy hại. Người đã mắc bệnh nầy lâu rồi. Thầy tế lễ phải tuyên bố người bị ô dơ. Không cần giữ riêng người đó làm gì vì ai cũng biết người không tinh sạch.

12 Nhưng nếu bệnh ngoài da đã lan khắp thân thể người và phủ từ đỉnh đầu tới bàn chân theo chỗ thầy tế lễ thấy được, thì thầy tế lễ phải khám toàn thân thể người đó. 13 Nếu thầy tế lễ nhận thấy bệnh đã phủ kín khiến da người trở nên trắng hết thì thầy tế lễ phải tuyên bố người là tinh sạch. 14 Tuy nhiên nếu người có vết lở loét thì người xem như ô dơ. 15 Khi thầy tế lễ thấy vết lở loét thì phải tuyên bố người đó ô dơ. Vết lở loét không tinh sạch; đó là bệnh ngoài da nguy hại.

16 Nếu vết lở loét trở thành trắng lại thì người phải đến gặp thầy tế lễ. 17 Thầy tế lễ phải khám người đó, nếu thấy vết lở loét đã hoá trắng thì thầy tế lễ phải tuyên bố người có vết lở là tinh sạch. Người được xem như sạch.

18 Nếu ai có mụn nhọt trên da đã được lành 19 mà chỗ nhọt có vết sưng trắng hay vết đỏ hồng thì phải để thầy tế lễ khám nghiệm chỗ vết đó. 20 Thầy tế lễ sẽ khám nghiệm. Nếu vết lõm sâu hơn da và lông chỗ đó đã hoá trắng, thì thầy tế lễ phải tuyên bố người đó ô dơ. Vết đó là bệnh ngoài da nguy hại đã bộc phát ra từ chỗ mụn nhọt. 21 Nhưng nếu khi khám thầy tế lễ không thấy lông trắng nơi vết đó, và vết cũng không lõm sâu hơn mặt da mà đã phai màu, thì thầy tế lễ phải giữ người ấy riêng ra trong bảy ngày. 22 Nếu vết đã lan ra trên da thì thầy tế lễ phải tuyên bố người bị ô dơ; đó là bệnh sẽ ăn lan. 23 Nhưng nếu vết trắng không lan ra hay đổi màu thì đó chỉ là vết sẹo của mụn nhọt cũ. Thầy tế lễ phải tuyên bố người đó tinh sạch.

24 Khi ai bị vết bỏng trên da mà vết bỏng lở ra hoá trắng hay đỏ, 25 thì thầy tế lễ phải khám nghiệm. Nếu vết lõm sâu hơn da và nếu lông trên vết đó đã hoá trắng thì đó là bệnh ngoài da nguy hại. Bệnh đó đã bộc phát từ vết bỏng. Thầy tế lễ phải tuyên bố người đó ô dơ. Đó là bệnh ngoài da nguy hại. 26 Nhưng nếu khi khám nghiệm thầy tế lễ không thấy lông trắng nơi vết bỏng, và vết cũng không lõm sâu hơn da hay đã phai màu thì thầy tế lễ phải giữ riêng người đó trong bảy ngày. 27 Đến ngày thứ bảy, thầy tế lễ sẽ khám nghiệm trở lại. Nếu vết đã lan ra trên da thì thầy tế lễ phải tuyên bố người đó ô dơ. Đó là bệnh ngoài da nguy hại. 28 Nếu vết sáng không lan ra, nhưng đã phai màu thì đó chỉ là chỗ sưng của vết bỏng. Thầy tế lễ phải tuyên bố người tinh sạch, vì chỉ là sẹo của vết bỏng.

29 Khi người nào, nam hay nữ, có vết lở trên da đầu hay trên cằm, 30 thì thầy tế lễ phải khám nghiệm vết lở đó. Nếu vết lở lõm sâu hơn da và nếu tóc hay lông quanh vết đó thưa và ngả màu vàng, thì thầy tế lễ phải tuyên bố người đó ô dơ. Đó là ghẻ ngứa, một bệnh ngoài da nguy hại [a] của da đầu hay cằm. 31 Nhưng nếu khi khám nghiệm, thấy vết lở không lõm sâu hơn da và không có lông hay tóc đen trên đó, thì thầy tế lễ phải giữ riêng người trong bảy ngày. 32 Đến ngày thứ bảy, thầy tế lễ phải khám nghiệm vết lở trở lại. Nếu vết không lan ra và không có lông hay tóc vàng mọc trên đó, và vết lở cũng không lõm sâu hơn da, 33 thì người phải cạo tóc hay lông, nhưng chừa lại chỗ vết lở. Thầy tế lễ phải giữ riêng người đó trong bảy ngày nữa. 34 Đến ngày thứ bảy, thầy tế lễ phải khám lại vết lở. Nếu nó không lan ra trên da hay lõm sâu hơn da, thì thầy tế lễ phải tuyên bố người tinh sạch. Người sẽ giặt quần áo mình rồi trở nên sạch. 35 Nhưng nếu vết lở lan ra trên da sau khi người đã được tinh sạch, 36 thì thầy tế lễ phải khám nghiệm lại. Nếu vết lở đã lan ra trên da thì thầy tế lễ khỏi cần tìm lông hay râu vàng, người xem như ô dơ rồi. 37 Nhưng nếu thầy tế lễ nghĩ rằng vết lở chỉ tập trung ở một chỗ, không lan ra và tóc hay lông đen đã mọc lại trên vết đó, thì nghĩa là vết lở đã lành. Người ấy xem như tinh sạch. Thầy tế lễ phải tuyên bố người đó tinh sạch.

38 Khi người nam hay nữ có vết trắng trên da 39 thì thầy tế lễ phải khám nghiệm. Nếu là vết trắng đục, thì chỉ là ghẻ ngứa vô hại thông thường. Người xem như tinh sạch.

40 Ai bị rụng tóc trở thành sói thì vẫn xem như tinh sạch. 41 Nếu tóc rụng phía trước và trán bị sói thì vẫn xem như tinh sạch. 42 Nhưng nếu có vết trắng đỏ trên chỗ trán sói hay trên trán, thì có nghĩa bệnh ngoài da đã bộc phát chỗ đó. 43 Thầy tế lễ phải khám nghiệm người. Nếu chỗ sưng của vết lở nơi trán sói hay nơi trán có màu trắng hồng như thể bệnh ngoài da ăn lan, 44 thì người xem như mắc bệnh ngoài da. Người bị ô dơ. Thầy tế lễ phải tuyên bố người đó ô dơ vì vết lở trên đầu.

45 Nếu ai mắc bệnh ngoài da ăn lan thì người đó phải kêu lên cho người khác biết, ‘Ô dơ, ô dơ!’ Phải xé áo quần của mình nơi đường may, để đầu tóc bù xù [b] và phải che miệng mình. 46 Trong suốt thời gian mắc bệnh người sẽ bị ô dơ. Vì ô dơ nên người phải sống một mình bên ngoài doanh trại.

47 Áo quần có thể bị mốc meo chẳng hạn các loại áo quần làm bằng vải hay len 48 dệt hay đan, loại làm bằng da thuộc, hay từ da thuộc chế biến ra. 49 Nếu có vết mốc trên áo quần, da thuộc, loại dệt hay đan mà ngả màu xanh lá cây hay đỏ, thì đó là vết mốc ăn lan. Phải mang đến cho thầy tế lễ khám nghiệm. 50 Thầy tế lễ phải khám vết mốc đó và sẽ giữ riêng món đồ đó trong vòng bảy ngày. 51 Đến ngày thứ bảy, thầy tế lễ sẽ khám trở lại. Nếu vết mốc đã lan ra trên miếng vải dệt hay đan, miếng da, dù là da dùng cho bất cứ công dụng gì, thì đó là loại mốc phá hoại, phải kể là ô dơ. 52 Thầy tế lễ phải thiêu hủy món đó. Không cần biết là đồ dệt hay đan, len hay vải, làm bằng da hay không, vết mốc đã lan ra, nên phải thiêu hủy món đồ đó.

53 Nếu nhận thấy vết mốc không ăn lan trên vải dệt hay đan hay trên da, 54 thì thầy tế lễ phải cho giặt rửa đồ vải hay da đó rồi giữ riêng món đồ trong bảy ngày nữa. 55 Sau khi vật bị mốc đã được giặt rửa xong, thầy tế lễ phải khám trở lại. Nếu vết mốc vẫn y như cũ, dù chưa lan ra, thì phải xem món đồ như ô dơ. Phải thiêu hủy trong lửa; dù cho vết mốc nằm bề mặt hay bề trái món đồ.

56 Nếu sau khi thầy tế lễ khám xét miếng vải hay da mà thấy vết mốc đã phai màu sau khi món đồ được giặt rửa, thì thầy tế lễ phải xé chỗ mốc ra khỏi miếng da hay vải. 57 Nếu vết mốc đã tái hiện trên miếng da hay vải đó, thì có nghĩa vết mốc đã ăn lan. Bất cứ chỗ nào có vết mốc cũng phải thiêu hủy. 58 Khi miếng vải hay miếng da được giặt rửa xong, không còn vết mốc, thì miếng vải đó vẫn phải được giặt lại một lần nữa, mới được xem như tinh sạch.

59 Trên đây là những huấn thị về vết mốc trên vải, trên da để qui định món nào sạch, món nào ô dơ.”

Footnotes

  1. Lê-vi 13:30 bệnh ngoài da nguy hại Đây có thể là bệnh cùi, hoặc một bệnh ngoài da hay lây.
  2. Lê-vi 13:45 để đầu tóc bù xù Chứng tỏ người ấy rất đau buồn về một việc gì đó.

Luật về Bệnh Phung và Các Bệnh Ngoài Da

Nhiễm Trùng và Ung Nhọt

13 Chúa phán với Môi-se và A-rôn rằng, “Khi da người nào bị sưng lên, hoặc nổi ung nhọt, hoặc nổi đốm, và biến thành bệnh phung[a] trên da thịt người ấy, người ấy phải được đưa đến Tư Tế A-rôn hoặc đưa đến một tư tế là con trai của A-rôn. Tư tế sẽ khám nghiệm chỗ da thịt bị thương của người ấy. Nếu lông chỗ bị thương đã đổi thành trắng và chỗ bị thương lõm sâu trong da thịt người ấy, đó là một vết phung. Sau khi khám nghiệm, tư tế phải tuyên bố rằng người ấy đã bị ô uế. Nếu chỗ đốm trên da thịt người ấy có màu trắng, vết đốm không lõm sâu xuống mặt da, lông ở chỗ đó cũng chưa đổi thành màu trắng, thì tư tế phải cô lập người bệnh trong bảy ngày. Vào ngày thứ bảy, tư tế sẽ tái khám vết thương của người ấy, nếu tư tế thấy vết thương đó vẫn như cũ, không lan ra trên da, thì tư tế phải cô lập người ấy thêm bảy ngày nữa. Vào ngày thứ bảy, tư tế sẽ tái khám người ấy một lần nữa, nếu vết thương bấy giờ đã nhạt dần, và bệnh không lan ra trên da, tư tế phải tuyên bố rằng người ấy được sạch. Ðó chỉ là một ung nhọt thường. Người ấy phải giặt sạch y phục mình, và được xem là sạch. Nhưng nếu sau khi người ấy đã được tư tế khám nghiệm và tuyên bố là sạch, mà ung nhọt tái phát và lan ra trên da, người ấy phải trở lại trình diện với tư tế. Tư tế phải khám nghiệm, và nếu ung nhọt đã lan ra trên da, tư tế phải tuyên bố rằng người ấy đã bị ô uế; đó là bịnh phung.

Bệnh Phung Kinh Niên

Khi một người mắc bịnh phung,[b] người ấy phải được đem đến tư tế. 10 Tư tế sẽ khám nghiệm, nếu da chỗ sưng màu trắng, lông nơi đó cũng đã biến thành trắng, và có thịt đỏ tươi lộ ra ở vết sưng, 11 đó là bệnh phung kinh niên trong da thịt người ấy. Tư tế sẽ tuyên bố người ấy đã bị ô uế. Tư tế sẽ không cô lập người ấy để tái khám nữa, vì người ấy đã bị xem là ô uế.

12 Nhưng nếu bệnh ấy cứ lan ra trên da, tràn khắp cơ thể người bệnh, từ đầu đến chân, nhìn đâu tư tế cũng thấy, 13 bấy giờ tư tế sẽ khám nghiệm, và nếu bệnh đã lan khắp cả cơ thể người ấy, tư tế sẽ tuyên bố người ấy sạch, vì toàn thân đều đã biến thành trắng, nên người ấy được xem là sạch.

14 Nhưng nếu thấy thịt đỏ tươi lộ ra trên cơ thể người ấy, người ấy sẽ bị xem là ô uế. 15 Tư tế sẽ khám nghiệm chỗ thịt đỏ tươi và tuyên bố người ấy ô uế. Thịt đỏ tươi lộ ra là ô uế, vì đó là bệnh phung.

16 Nhưng nếu chỗ thịt đỏ tươi đó đã đổi thành màu trắng, người ấy phải đến trình diện với tư tế. 17 Tư tế sẽ khám nghiệm người bệnh, và nếu chỗ bị bệnh đã biến thành trắng, tư tế phải tuyên bố người bệnh đã được sạch; người ấy sẽ được xem là sạch.

Ung Nhọt

18 Khi da trên cơ thể người nào có một ung nhọt đã được lành, 19 nhưng ngay chỗ có ung nhọt lại nổi lên một mụt màu trắng hoặc một đốm trắng hồng, người ấy phải đến trình cho tư tế biết. 20 Tư tế sẽ khám nghiệm. Nếu mụt hay đốm ấy lõm sâu vào da thịt và lông nơi đó đã biến thành trắng, tư tế phải tuyên bố người ấy đã bị ô uế, vì đó là bệnh phung đã lộ ra qua chỗ ung nhọt. 21 Nhưng nếu tư tế khám nghiệm chỗ ấy và thấy lông nơi đó chưa biến thành trắng, trên mặt cũng không lõm sâu vào da thịt, nhưng đã nhạt màu, tư tế phải cô lập người ấy trong bảy ngày. 22 Nếu nó lan ra trên da, tư tế sẽ tuyên bố người ấy ô uế; người ấy đã mắc bệnh. 23 Nhưng nếu đốm ấy cứ giữ nguyên một chỗ và không lan ra, thì đó chỉ là vết thẹo của ung nhọt; tư tế phải tuyên bố người ấy sạch.

Ghẻ Phỏng

24 Hoặc khi da trên cơ thể người nào có một ghẻ phỏng và thịt đỏ tươi ở chỗ phỏng đó đã trở thành một đốm có màu trắng hồng hay màu trắng, 25 tư tế phải khám nghiệm đốm ấy. Nếu lông ở chỗ đó đã biến thành trắng, và vết đốm đã lõm sâu vào trong da thịt, thì đó là bệnh phung. Nó đã lộ ra qua chỗ ghẻ phỏng, và tư tế phải tuyên bố người ấy ô uế. Ðó là bệnh phung. 26 Nhưng nếu tư tế khám nghiệm đốm ấy và thấy lông ở đó không có màu trắng, và nó không lõm sâu vào da thịt, nhưng đã nhạt màu, tư tế phải cô lập người ấy bảy ngày. 27 Vào ngày thứ bảy, tư tế phải tái khám người ấy, nếu đốm ấy đã lan ra trên da, tư tế phải tuyên bố người ấy ô uế; đó là bệnh phung. 28 Nhưng nếu đốm ấy vẫn ở nguyên một chỗ, không lan ra trên da, nhưng lại nhạt màu đi, thì đó chỉ là vết sưng nổi ra ở chỗ ghẻ phỏng; tư tế sẽ tuyên bố người ấy sạch, vì đó chỉ là vết thẹo ở chỗ phỏng.

Ghẻ Chốc

29 Khi một người nam hay nữ có ghẻ chốc trong tóc trên đầu hay trong râu trên mặt, 30 tư tế sẽ khám nghiệm chỗ ghẻ chốc ấy. Nếu nó lõm sâu vào trong da thịt và tóc hay râu ở đó đã đổi thành màu vàng và nhỏ, tư tế phải tuyên bố người ấy ô uế. Ðó là bệnh ghẻ chốc, một thứ bệnh phung trên đầu hay trong râu. 31 Nếu tư tế khám nghiệm chỗ ghẻ chốc ấy và thấy nó không lõm sâu vào trong da thịt, cũng không thấy lông đen nào trong đó, tư tế phải cô lập người mắc bệnh ghẻ chốc ấy trong bảy ngày. 32 Vào ngày thứ bảy tư tế sẽ tái khám chỗ ghẻ chốc. Nếu chỗ ghẻ chốc không lan ra, cũng không có lông màu vàng ở đó, và chỗ ghẻ chốc cũng không thấy lõm sâu vào trong da thịt, 33 thì người ấy phải cạo tóc hay cạo râu đi, nhưng phải chừa chỗ bị ghẻ chốc lại. Tư tế sẽ cô lập người mắc bệnh ghẻ chốc thêm bảy ngày nữa. 34 Vào ngày thứ bảy tư tế sẽ tái khám chỗ ghẻ chốc ấy. Nếu chỗ ghẻ chốc không lan ra trên da, và nếu nó không lõm sâu vào trong da thịt, tư tế phải tuyên bố người ấy sạch. Người ấy phải giặt kỹ y phục mình và được xem là sạch. 35 Nhưng nếu chỗ ghẻ chốc lan ra trên da sau khi đã được tuyên bố là sạch, 36 tư tế phải tái khám người ấy. Nếu chỗ ghẻ chốc đã lan ra trên da, tư tế không cần phải tìm xem lông đã biến thành màu vàng hay chưa; người ấy đã bị ô uế. 37 Nhưng nếu theo sự thẩm định của tư tế, chỗ ghẻ chốc ấy đã bắt đầu lành, lông đen đã mọc lên trong đó, như vậy chỗ ghẻ chốc ấy đang được lành, người ấy được xem là sạch, và tư tế phải tuyên bố người ấy sạch.

Tàn Nhang

38 Khi một người nam hay nữ thấy trên da thịt mình có những đốm, những đốm màu trắng, 39 tư tế phải khám nghiệm. Nếu những đốm trên da người ấy có màu trắng nhạt, đó là tàn nhang đã lộ ra trên da; người ấy sạch.

Sói Tóc

40 Nếu người nào bị rụng tóc trên đầu, người ấy bị sói đầu nhưng vẫn sạch. 41 Nếu một người bị rụng tóc trên trán, người ấy bị sói trán nhưng vẫn sạch. 42 Nhưng nếu da ở chỗ đầu sói hay trán sói ấy nổi lên một vết trắng hồng, không chừng đó là vết phung[c] đã lộ ra ở chỗ đầu sói hay trán sói. 43 Tư tế sẽ khám nghiệm người ấy. Nếu vết sưng ở chỗ đầu sói hay trán sói đó màu trắng hồng và trông giống như một vết phung trên da thịt một người, 44 người ấy đã mắc bệnh phung; người ấy đã bị ô uế. Tư tế phải tuyên bố người ấy ô uế, vì bệnh phung đã lộ ra trên đầu.

Quy Chế về Người Mắc Bệnh Phung

45 Khi người nào mắc bệnh phung, người ấy phải xé rách y phục mình, để tóc xõa xuống, lấy tay che miệng mình, và kêu lớn, ‘Ô uế! Ô uế!’ 46 Ngày nào người ấy còn bệnh, người ấy vẫn còn bị ô uế. Người ấy phải ở bên ngoài doanh trại.

Bệnh Phung trên Y Phục

47 Về y phục, khi bệnh phung thấy xuất hiện trên y phục, bất kể y phục đó được làm bằng lông thú hay bằng vải gai, 48 tức y phục được dệt hoặc đan bằng vải gai hay lông thú, hoặc y phục ấy được làm bằng da, hay bất cứ vật gì được làm bằng da, 49 nếu người ta thấy có vết xanh chàm hay đỏ nhạt xuất hiện trên y phục, hoặc trên da, bất kể món đồ ấy được đan hay dệt, hoặc thấy xuất hiện trên bất cứ vật gì làm bằng da, thì đó là bệnh phung, và vật đó phải được đem đến trình cho tư tế. 50 Tư tế sẽ khám nghiệm vật đó; sau đó tư tế phải để riêng vật bị bệnh đó ra bảy ngày. 51 Ngày thứ bảy tư tế sẽ tái khám vật đó. Nếu vết bệnh đã lan ra trên y phục, bất kể là y phục ấy được đan hay dệt, hoặc vết bệnh đã lan ra trên da, bất kể là da được dùng làm món đồ gì, thì đó là bệnh phung đã lan ra; món đồ ấy đã trở thành vật ô uế. 52 Tư tế phải thiêu bộ y phục ấy, bất kể bộ y phục có bệnh ấy được đan hay dệt bằng lông thú hay bằng vải gai; còn nếu món đồ làm bằng da có bệnh, tư tế phải thiêu nó đi, vì bệnh phung đã lan ra. Nó phải bị thiêu rụi trong lửa.

53 Nếu tư tế khám nghiệm món đồ và thấy bệnh không lan ra trên y phục được đan hay dệt, hay trên món đồ được làm bằng da, 54 thì tư tế sẽ truyền cho chủ món đồ đem giặt rửa món đồ có bệnh, rồi để nó cách ly bảy ngày nữa. 55 Sau đó tư tế sẽ tái khám món đồ bị bệnh đã được giặt rửa, nếu tư tế thấy vết bệnh vẫn không đổi màu, mặc dù vết bệnh ấy không lan ra, món đồ ấy đã trở thành vật ô uế. Các ngươi phải đem thiêu nó trong lửa, bất kể vết phung ấy ở mặt trong hay mặt ngoài của món đồ.

56 Nếu tư tế khám nghiệm món đồ và thấy vết bệnh đã nhạt màu sau khi được giặt rửa, người ta sẽ cắt bỏ chỗ vết bệnh ra khỏi bộ y phục, bất kể bộ y phục ấy được đan hay dệt, hoặc cắt bỏ chỗ da bệnh ra khỏi món đồ làm bằng da.

57 Nếu sau đó trên món đồ lại thấy xuất hiện vết bệnh mới, bất kể đó là y phục được đan hay dệt, hoặc bất kể đó là món đồ gì được làm bằng da, các ngươi phải đem thiêu món đồ có bệnh đó trong lửa, vì món đồ ấy đã bị bệnh phung và phung đã lan ra. 58 Nhưng nếu bộ y phục được đan hay dệt, hoặc món đồ được làm bằng da, mà sau khi đem giặt rửa, chỗ có vết bệnh đã biến mất, thì phải đem giặt rửa nó thêm một lần nữa, sau đó món đồ ấy sẽ được sạch.

59 Ðó là quy luật về bệnh phung cho y phục được đan hay dệt bằng lông thú hay bằng vải gai, hoặc bất cứ món đồ gì được làm bằng da, để quyết định vật ấy là sạch hay ô uế.”

Footnotes

  1. Lê-vi 13:2 Một từ dùng chung cho các thứ bệnh ngoài da
  2. Lê-vi 13:9 Một từ dùng chung cho các thứ bệnh ngoài da
  3. Lê-vi 13:42 Bệnh phung trong đoạn nầy chỉ chung về những bệnh ngoài da, chứ không hẳn là bệnh cùi như chúng ta thường nghĩ