Add parallel Print Page Options

Các vùng đất còn phải chiếm

13 Lúc Giô-suê đã cao tuổi, Chúa bảo ông, “Giô-suê ơi, con nay đã già rồi nhưng đất đai phải chiếm vẫn còn nhiều lắm. Đây là các vùng đất còn lại: miền Ghê-su-rơ và đất của dân Phi-li-tin; khu vực từ sông Si-ho [a] giáp ranh giới Ai-Cập đến Éc-rôn về phía bắc, vốn thuộc dân Ca-na-an; năm lãnh tụ Phi-li-tin ở Ga-xa, Ách-đốt, Ách-kê-lôn, Gát, Éc-rôn và người A-vít, sống ở miền nam xứ Ca-na-an; và Mê-ra thuộc dân Xi-đôn đến A-phéc, tận ranh giới dân A-mô-rít người Ghê-ba-lít và vùng Li-băng nằm về phía đông Ba-anh Gát dưới chân núi Hẹt-môn cho đến Lê-bô Ha-mát.

Người Xi-đôn sống ở miền núi từ Li-băng cho đến Mít-rê-phốt Ma-im, nhưng ta sẽ đánh đuổi chúng nó ra trước khi dân Ít-ra-en đến với điều kiện là các con phải nhớ đến đất nầy khi con chia cho dân Ít-ra-en, như ta đã dặn con. Bây giờ hãy chia đất cho chín chi tộc và chi tộc Ma-na-xe phía tây.”

Chia đất

Chi tộc Ma-na-xe phía đông, chi tộc Ru-bên và Gát đã nhận phần đất của họ. Mô-se tôi tớ Chúa đã cấp cho họ vùng đất phía đông sông Giô-đanh. Đất của họ chạy từ A-rô-e nơi hố Ạc-nôn đến thị trấn nằm giữa hố, bao gồm toàn miền bình nguyên từ Mê-đê-ba cho đến Đi-bôn. 10 Tất cả các thị trấn do vua Xi-hôn, người A-mô-rít cai trị từ thành Hết-bôn đều nằm trong lãnh thổ đó. Dải đất kéo dài đến vùng dân A-mô-rít sinh sống. 11 Ghi-lê-át cũng nằm trong vùng đó và đồng thời bao gồm vùng dân Ghê-su-rơ và Ma-a-ca sinh sống, toàn cả núi Hẹt-môn, Ba-san cho đến tận Xa-lê-ca. 12 Toàn thể vương quốc của Óc, vua của Ba-san cũng nằm trong lãnh thổ nầy. Óc là một trong những vua Rê-pha cuối cùng. Trước kia vua nầy đã cai trị vùng Ách-ra-rốt và Ết-rê-i. Mô-se đã đánh bại và chiếm lấy đất đai họ. 13 Người Ít-ra-en không đánh đuổi được dân ở Ghê-su-rơ và Ma-a-ca cho nên hiện nay các dân nầy vẫn ở chung với người Ít-ra-en.

14 Chi tộc Lê-vi là chi tộc duy nhất không nhận được phần đất nào. Thay vào đó, sản nghiệp họ là các của lễ thiêu dâng cho Chúa, Thượng Đế của Ít-ra-en, như Ngài đã hứa với họ.

15 Mô-se đã cấp cho mỗi họ thuộc chi tộc Ru-bên một số đất đai: 16 Đất của họ chạy từ A-rô-e gần hố Ạc-nôn cho đến thị trấn Mê-đê-ba, gồm toàn vùng bình nguyên và thị trấn nằm giữa hố; 17 Hết-bôn và tất cả các thị trấn nằm trong bình nguyên: Đi-bôn, Ba-mốt Ba-anh và Bết-Ba-anh Mê-ôn, 18 Gia-hát, Kê-đê-mốt, Mê-phát, 19 Ki-ri-át-ta-im, Xíp-ma, Xê-rết Sa-ha nằm trên đồi trong thung lũng, 20 Bết-phê-ô, các sườn đồi Phích-ga, và Bết Giê-si-mốt. 21 Đó là đất bao gồm các thị trấn nằm trong bình nguyên và toàn thể các vùng mà vua Xi-hôn, vua dân A-mô-rít đã cai trị từ Hết-bôn. Mô-se đã đánh bại vua đó cùng với các vua dân Mi-đi-an trong số có Ê-vi, Rê-kem, Xu-rơ, Hu-rơ và Rê-ba. Tất cả các vua nầy họp với vua Xi-hôn để chiến đấu. Họ sống trong miền đó. 22 Dân Ít-ra-en giết rất nhiều người trong cuộc chiến, trong số đó có Ba-la-am, con trai Bê-ô, người dùng tà thuật để bói toán. 23 Địa phận của chi tộc Ru-bên có bờ sông Giô-đanh làm ranh giới. Vì thế đất cấp cho các họ hàng Ru-bên gồm các thị trấn và làng mạc vừa kể.

24 Đây là đất Mô-se cấp cho chi tộc Gát, cho toàn thể các họ hàng:

25 Vùng đất Gia-xa và tất cả các thị trấn Ghi-lê-át; phần nửa đất đai của dân Am-môn chạy dài đến A-rô-e gần Ra-ba; 26 vùng từ Hết-bôn đến Ra-mát Mích-ba và Bê-tô-nim; vùng từ Ma-ha-na-im đến đất Đê-bia; 27 trong thung lũng, Bết-Ha-ram, Bết-nim-ra, Xu-cốt và Xa-phôn, miền đất còn lại mà Xi-hôn vua Hết-bôn cai trị nằm về phía đông sông Giô-đanh chạy dài đến cuối hồ Ga-li-lê. 28 Các vùng đất nầy được cấp cho các họ hàng thuộc chi tộc Gát, gồm cả các thị trấn và làng mạc.

29 Sau đây là đất Mô-se cấp cho chi tộc Ma-na-xe miền đông. Phân nửa các họ hàng thuộc chi tộc Ma-na-xe được cấp vùng đất nầy:

30 Đất chạy từ Ma-ha-na-im và gồm toàn vùng Ba-san, vùng đất do Óc, vua của Ba-san cai trị; tất cả các thị trấn ở Giai-rơ thuộc Ba-san gồm tất cả sáu mươi thành; 31 phân nửa vùng Ghi-lê-át, Ách-ta-rốt và Ết-rê-i là các thành mà Óc, vua của Ba-san đã cai trị. Tất cả vùng đất nầy được cấp cho các họ hàng Ma-kia, con của Ma-na-xe; và phần nửa số con trai ông.

32 Mô-se đã cấp đất nầy cho các chi tộc vừa nói thuộc vùng bình nguyên Mô-áp, đối ngang sông Giô-đanh về phía đông Giê-ri-cô. 33 Nhưng Mô-se không cấp cho chi tộc Lê-vi phần đất nào vì Chúa, là Thượng Đế của Ít-ra-en, hứa rằng chính Ngài sẽ là sản nghiệp của họ.

14 Ê-lê-a-xa, thầy tế lễ, Giô-suê, con trai của Nun và lãnh đạo các chi tộc Ít-ra-en định đoạt vấn đề phân chia đất đai Ca-na-an cho dân chúng. Trước kia Chúa đã truyền dặn Mô-se thể thức Ngài định cho dân chúng chọn đất. Dân chúng thuộc chín chi tộc rưỡi bắt thăm để nhận phần đất thuộc về mình. Vì Mô-se đã cấp phần đất phía đông sông Giô-đanh cho hai chi tộc rưỡi, nhưng chi tộc Lê-vi không được cấp phần đất nào như các chi tộc khác cả. Con cháu Giô-xép phân chia ra hai chi tộc: Ma-na-xe và Ép-ra-im. Còn chi tộc Lê-vi không được cấp đất. Họ chỉ được cấp một số thành để sinh sống và một số đồng cỏ để nuôi súc vật. Chúa đã chỉ cho Mô-se thể thức chia đất cho các chi tộc Ít-ra-en, nên họ phân chia đất ra.

Phần đất cấp cho Ca-lép

Một hôm có các người thuộc chi tộc Giu-đa đến gặp Giô-suê ở Ghinh-ganh; trong số có Ca-lép, con trai Giê-phu-nê người Kê-nít. Ca-lép nói với Giô-suê, “Chắc anh còn nhớ ở Ca-đe Ba-nê-a, Chúa có nói chuyện với Mô-se, tôi tớ Chúa [b], về anh và tôi. Mô-se, tôi tớ Chúa, sai tôi đi thám thính xứ chúng ta sẽ đi đến. Lúc đó tôi đã bốn mươi tuổi. Khi trở về, tôi thuật cho Mô-se nhận định của tôi về xứ đó. Mấy người khác, cùng đi với tôi, làm cho dân chúng hoảng sợ, nhưng tôi hoàn toàn tin tưởng rằng Chúa sẽ cho chúng ta chiếm xứ đó. Vì thế hôm ấy Mô-se có hứa với tôi, ‘Đất mà ngươi đã đặt chân đến sẽ thuộc về ngươi. Con cháu ngươi sẽ nhận lấy đất ấy đời đời. Ta sẽ cấp nó cho ngươi, vì ngươi hoàn toàn tin cậy nơi Chúa, Thượng Đế của ta.’”

10 “Vậy bây giờ anh thấy rằng Chúa đã giữ lời hứa Ngài. Ngài đã cho tôi còn sống trong bốn mươi lăm năm qua, từ lúc Ngài hứa như thế với Mô-se, suốt thời gian chúng ta đang lưu lạc trong sa mạc. Nay tôi đã tám mươi lăm tuổi. 11 Tôi vẫn còn tráng kiện như ngày Mô-se phái tôi đi và vẫn còn đủ sức chiến đấu như xưa. 12 Cho nên xin cấp cho tôi miền núi mà Chúa đã hứa với tôi trước đây. Thuở đó, anh đã nghe rằng dân A-nác, cư ngụ trong vùng đó, có thành trì rất lớn và rất kiên cố. Nhưng nhờ Chúa phù hộ, tôi sẽ đánh đuổi chúng ra như Ngài đã hứa.”

13 Giô-suê chúc phước cho Ca-lép, con trai Giê-phu-nê và cấp cho ông thành Hếp-rôn làm sản nghiệp. 14 Hếp-rôn hiện vẫn thuộc về gia đình Ca-lép, con trai Giê-phu-nê người Kê-nít, vì ông vững tin và vâng lời Chúa, Thượng Đế của Ít-ra-en. 15 Trước kia chỗ đó gọi là Ki-ri-át Ạc-ba, đặt theo tên Ạc-ba, vĩ nhân số một của dân A-nác.

Sau đó xứ được hoà bình.

Phần đất cấp cho chi tộc Giu-đa

15 Phần đất cấp cho chi tộc Giu-đa được phân chia ra cho các họ hàng. Đất nầy chạy đến sa mạc Xin về phía cực nam, nơi biên giới Ê-đôm. Ranh giới phía nam của đất Giu-đa bắt đầu từ cuối phía nam Biển Chết, chạy dài về phía nam của Đèo Bọ Cạp đến sa mạc Xin. Từ đó giới hạn nầy băng qua phía nam Ca-đe Ba-nê-a và chạy dài quá Hết-rôn đến A-đa. Từ A-đa, biên giới rẽ qua Cạc-ca. Ranh giới tiếp tục chạy tới Át-môn rồi đổ ra biển ở Suối Ai-Cập. Đó là ranh giới phía nam.

Ranh giới phía đông là bờ Biển Chết, chạy dài tới cửa sông Giô-đanh.

Ranh giới phía bắc bắt đầu từ vịnh của biển nơi cửa sông Giô-đanh. Rồi chạy đến Bết Hốt-la và tiếp tục chạy dài đến phía bắc Bết-a-ra-ba tới hòn đá Bô-han theo tên của con trai Ru-bên. Ranh giới phía bắc băng ngang Thung lũng A-cô tới Đê-bia, rồi rẽ về hướng Bắc chạy tới Ghinh-ganh. Ghinh-ganh nằm đối ngang con đường đi qua đèo A-đu-mim về phía nam của hố. Ranh giới nầy chạy dài tới các suối nước Ên-sê-mết và dừng lại ở Ên-rô-gen. Ranh giới chạy qua Thung lũng Bên-Hi-nôm, sát sườn phía nam của thành Giê-bu-sít còn gọi là Giê-ru-sa-lem. Từ đó ranh giới nầy chạy lên đỉnh núi nằm về phía tây Thung lũng Hi-nôm ở đầu phía bắc của Thung lũng Rê-pha-im. Từ đó ranh giới chạy đến suối Nép-tô-a, rồi đi qua các thành gần núi Ép-rôn. Đến đó, ranh giới rẽ qua phía Ba-a-la, cũng có tên là Ki-ri-át Giê-a-rim. 10 Từ Ba-a-la, ranh giới quay sang phía tây, rồi đổ về phía núi Sê-ia. Ranh giới tiếp tục chạy theo mạn bắc núi Giê-a-rim cũng gọi là Kê-sa-lôn, rồi đến Bết-sê-mết. Từ đó chạy qua Thim-na, 11 đến núi phía bắc Éc-rôn. Xong, rẽ về hướng Sít-kê-rôn và đi quá núi Ba-a-la, tiếp tục tới Giáp-nê-ên, rồi chấm dứt ở biển Địa-trung-hải. 12 Địa-trung-hải là ranh giới phía tây. Các họ hàng Giu-đa định cư trong các ranh giới vừa kể.

13 Chúa đã truyền cho Giô-suê cấp cho Ca-lép, con trai Giê-phu-nê một phần đất Giu-đa, nên ông cấp cho Ca-lép thị trấn Ki-ri-át Ạc-ba, cũng gọi là Hếp-rôn. (Ạc-ba là cha của A-nác.) 14 Ca-lép đánh đuổi ba gia đình A-nác đang sống ở Hếp-rôn: Sê-sai, A-hi-man, và Thanh-mai, tức con cháu A-nác. 15 Sau đó ông sang đánh dân Đê-bia. Trước kia Đê-bia mang tên Ki-ri-át Xê-phe. 16 Ca-lép tuyên bố, “Ta sẽ gả con gái ta là Ạc-xa cho người nào đánh chiếm được Ki-ri-át Xê-phe.”

17 Ốt-ni-ên, con trai Kê-na, anh Ca-lép, đánh chiếm được thành nên Ca-lép gả Ạc-xa, con gái mình cho Ốt-ni-ên làm vợ. 18 Khi Ạc-xa về với Ốt-ni-ên, Ốt-ni-ên xúi nàng xin cha nàng một thửa ruộng. Cho nên Ạc-xa đi gặp cha mình. Khi nàng vừa xuống khỏi lưng lừa, Ca-lép hỏi, “Con cần gì?”

19 Ạc-xa thưa, “Xin cha cho con một đặc ân [c]. Vì cha đã cho con đất miền nam Ca-na-an, con xin cha cho con luôn các suối nước.” Cho nên Ca-lép cho nàng các suối nước phía trên và phía dưới.

20 Chi tộc Giu-đa nhận được phần đất Thượng Đế đã hứa với họ. Mỗi họ hàng nhận được một phần đất. 21 Chi tộc Giu-đa nhận được các thị trấn sau đây thuộc miền cực nam gần ranh giới Ê-đôm: Cáp-xê-ên, Ê-đe, Gia-gua, 22 Ki-na, Đi-mô-na, A-đa-đa, 23 Kê-đe, Hát-xo, Ít-nan, 24 Xíp, Tê-lem, Bê-a-lốt, 25 Hát-xo Ha-đát-ta, Kê-ri-ốt Hết-rôn cũng gọi là Hát-xo. 26 A-mam, Sê-ma, Mô-la-đa, 27 Ha-xa Gát-đa, Hết-môn, Bết-Phê-lết, 28 Ha-xa Su-an, Bê-e-sê-ba, Bi-xi-ô-thi-a, 29 Ba-a-la, Y-im, Ê-xem, 30 Ên-tô-lát, Kê-xin, Họt-ma, 31 Xiếc-lác, Mát-ma-na, Xan-xa-na, 32 Lê-bao-ốt, Si-lim, A-in và Rim-môn. Tất cả là hai mươi chín thị trấn và thôn ấp.

33 Chi tộc Giu-đa nhận các thành sau đây nằm trên các núi phía tây: Ếch-ta-ôn, Xô-ra, Ách-na, 34 Xa-nô-a, Ên-ga-nin, Táp-bu-a, Ê-nam, 35 Giạt-mút, A-đu-lam, Sô-cốt, A-xê-ca, 36 Sa-a-ra-im, A-đi-tha-im và Ghê-đê-ra, còn gọi là Ghê-đê-rô-tha-im. Tổng cộng mười bốn thành và thôn ấp.

37 Chi tộc Giu-đa cũng được cấp cho các thành sau đây nằm trên các núi phía tây: Xê-na, Ha-đa-sát, Mích-đanh-Gát, 38 Đi-liên, Mích-ba, Giốt-thên, 39 La-kích, Bô-cát, Éc-lôn, 40 Cáp-bông, La-mát, Kít-lích, 41 Ghê-đê-rốt, Bết Đa-gôn, Na-a-ma và Ma-kê-đa. Tổng cộng mười sáu thành và thôn ấp.

42 Chi tộc Giu-đa cũng được cấp cho các thành sau đây nằm trên các núi phía tây: Líp-na, Ê-the, A-san, 43 Íp-tha, Át-na, Nê-xíp, 44 Kê-i-la, Ạc-xíp và Ma-rê-sa. Tổng cộng chín thành và thôn ấp.

45 Chi tộc Giu-đa cũng được cấp cho các thành sau đây: Éc-rôn và các thị trấn nhỏ và thôn ấp phụ cận; 46 vùng phía tây Éc-rôn và thôn ấp cùng thị trấn nhỏ gần Ách-đốt. 47 Ách-đốt và các thị trấn nhỏ và thôn ấp nằm quanh đó; các thôn ấp và thị trấn nhỏ quanh Ga-xa chạy dài tới suối Ai-cập và dọc theo bờ biển Địa-trung-Hải.

48 Chi tộc Giu-đa cũng được cấp cho các thành sau đây nằm trong vùng núi: Sa-mia, Giát-tia và Sô-cô, 49 Đa-na, Ki-ri-át Xa-na, cũng gọi là Đê-bia. 50 A-náp, Ết-tê-mốt, A-nim, 51 Gô-sen, Hô-lôn và Ghi-lô. Tổng cộng mười một thành và thôn ấp.

52 Họ cũng được cấp cho các thành sau đây trong vùng núi: A-ráp, Đu-ma, Ết-san, 53 Gia-nim, Bết-Táp-bu-a, A-phê-ca, 54 Hum-ta, Ki-ri-át Ạc-ba, còn gọi là Hếp-rôn, và Xi-o. Tổng cộng chín thành và thôn ấp.

55 Chi tộc Giu-đa cũng được cấp cho các thành sau đây trong vùng núi: Ma-ôn, Cạt-mên, Xíp, Giút-ta, 56 Giê-rê-ên, Giốc-đim, Xa-nô-a, 57 Ca-in, Ghi-bê-a, và Thim-na. Tổng cộng mười thành và thôn ấp.

58 Họ cũng được cấp cho các thành sau đây trong vùng núi: Han-hun, Bết-sua, Ghê-đo, 59 Ma-a-rát, Bết-a-nốt và Ên-tê-con. Tổng cộng sáu thành và thôn ấp.

60 Dân chúng Giu-đa cũng được cấp cho hai thành là Ráp-ba và Ki-ri-át-Ba-anh, còn gọi là Ki-ri-át Giê-a-rim và các thôn ấp thuộc hai thành ấy.

61 Chi tộc Giu-đa được cấp các thành sau đây trong sa mạc: Bết A-ra-ba, Mít-đinh, Xê-ca-ca, 62 Níp-san, thành phố Muối, và Ên-ghê-đi. Tổng cộng sáu thành và thôn ấp.

63 Người Giu-đa không đánh đuổi nổi dân Giê-bu-sít ra khỏi Giê-ru-sa-lem, nên ngày nay người Giê-bu-sít vẫn còn sống giữa người Giu-đa.

Footnotes

  1. Giô-sua 13:3 sông Si-ho Có lẽ là một chi nhánh phía Đông của sông Nin.
  2. Giô-sua 14:6 tôi tớ Chúa Nguyên văn, “người của Thượng Đế.”
  3. Giô-sua 15:19 Xin cha … đặc ân Hay “Xin cha cho con một suối nước.”

Những Vùng Ðất Cần Chiếm Lấy

13 Lúc ấy Giô-suê đã già và tuổi đã cao; Chúa phán với ông, “Ngươi đã già và tuổi đã cao, nhưng xứ vẫn còn nhiều nơi chưa chiếm lấy. Ðây là những vùng còn phải chiếm lấy: tất cả những vùng của dân Phi-li-tin và những vùng của dân Ghê-sua,[a] từ Sông Si-hơ ở phía đông của Ai-cập cho đến biên giới của Éc-rôn ở phía bắc (vùng đó được xem là lãnh thổ của dân Ca-na-an), những vùng thuộc về năm thủ lãnh của dân Phi-li-tin: Ga-xa, Ách-đốt, Ách-kê-lôn, Gát, và Éc-rôn, những vùng thuộc về dân A-vim ở phương nam, tất cả lãnh thổ của dân Ca-na-an, miền Mê-a-ra của dân Si-đôn, cho đến vùng A-phéc, cho đến biên giới của dân A-mô-ri, lãnh thổ của dân Ghê-banh, và tất cả xứ Li-băng chạy về hướng đông, từ Ba-anh Gát dưới chân Núi Hẹt-môn cho đến Lê-bô Ha-mát. Còn tất cả dân cư ở miền cao nguyên từ Li-băng cho đến Mít-rê-phô Ma-im và toàn thể dân Si-đôn thì chính Ta sẽ đuổi đi trước mắt dân I-sơ-ra-ên. Ngươi chỉ cần cho dân I-sơ-ra-ên bắt thăm chia đất làm sản nghiệp như Ta đã truyền cho ngươi. Vậy bây giờ hãy chia xứ làm sản nghiệp cho chín chi tộc và nửa chi tộc Ma-na-se.”

Lãnh Thổ Phía Ðông Sông Giô-đanh

Cùng với nửa chi tộc Ma-na-se, người Ru-bên và người Gát đã nhận lấy phần sản nghiệp của họ mà Môi-se tôi tớ Chúa đã ban cho họ ở phía đông Sông Giô-đanh: từ A-rô-e, tức bên bờ Suối Ạc-nôn, các thành trong thung lũng, tất cả miền đồng bằng từ Mê-đê-ba chạy dài đến Ði-bôn, 10 tất cả các thành của Vua Si-hôn người A-mô-ri trị vì tại Hếch-bôn cho đến biên giới của dân Am-môn, 11 miền Ghi-lê-át và lãnh thổ của dân Ghê-sua và dân Ma-a-ca, toàn Núi Hẹt-môn, toàn vùng Ba-san cho đến Sa-lê-ca, 12 toàn thể lãnh thổ trong vương quốc của Óc vua Ba-san, là người trị vì tại Ách-ta-rốt và tại Ét-rê; ông là một trong những người còn lại của dân Rê-pha-im. Ðó là những dân mà Môi-se đã đánh bại và đuổi đi. 13 Tuy nhiên dân I-sơ-ra-ên không đuổi dân Ghê-sua hay dân Ma-a-ca đi, vì thế dân Ghê-sua và dân Ma-a-ca vẫn sống giữa dân I-sơ-ra-ên cho đến ngày nay.

14 Riêng đối với chi tộc Lê-vi, Môi-se không ban cho phần sản nghiệp nào. Các của lễ được dùng lửa dâng lên Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, là phần sản nghiệp của họ, như Ngài đã phán với họ.

Lãnh Thổ của Chi Tộc Ru-bên

15 Môi-se ban một phần sản nghiệp cho chi tộc Ru-bên theo các gia tộc của họ. 16 Lãnh thổ của họ bắt đầu từ A-rô-e, tức từ bên bờ Suối Ạc-nôn, các thành trong thung lũng, và tất cả miền đồng bằng Mê-đê-ba; 17 cùng với Hếch-bôn và tất cả các thành trực thuộc trong miền đồng bằng; Ði-bôn, Ba-mốt Ba-anh, Bết Ba-anh Mê-ôn, 18 Gia-ha, Kê-đê-mốt, Mê-pha-a, 19 Ki-ri-át-ha-im, Síp-ma, Xê-rết Sa-ha nằm ở trên đồi của thung lũng, 20 Bết Pê-ô, triền núi Pít-ga, Bết Giê-si-mốt, 21 tức là tất cả các thành ở miền đồng bằng, và tất cả vương quốc của Vua Si-hôn người A-mô-ri, người đã trị vì tại Hếch-bôn, người đã bị Môi-se đánh bại chung với các thủ lãnh của dân Mi-đi-an, đó là Ê-vi, Rê-kem, Xu-rơ, Hu-rơ, và Rê-ba, các lãnh chúa dưới quyền của Si-hôn, đã sống trong xứ đó. 22 Dân I-sơ-ra-ên đã giết tất cả những người ấy và cũng giết Ba-la-am con trai Bê-ô, kẻ làm nghề chiêm tinh. 23 Ranh giới của con cháu Ru-bên là Sông Giô-đanh và các vùng dọc theo bờ sông. Ðó là sản nghiệp của con cháu Ru-bên, dựa theo gia tộc của họ mà họ được ban cho các thành và các làng ấy.

Lãnh Thổ của Chi Tộc Gát

24 Môi-se cũng ban một sản nghiệp cho chi tộc Gát, tức các con cháu của Gát, dựa theo gia tộc của họ. 25 Lãnh thổ của họ gồm: Gia-xe, tất cả các thành trong miền Ghi-lê-át, một nửa xứ sở của dân Am-môn, chạy dài đến A-rô-e, tức phía đông của Ráp-ba, 26 từ Hếch-bôn cho đến Ra-mát Mít-pê và Bê-tô-nim, từ Ma-ha-na-im cho đến lãnh thổ của Ðê-bi,[b] 27 các thành trong Thung Lũng Bết Ha-ram, Bết Nim-ra, Su-cốt, và Xa-phôn, phần còn lại của vương quốc của Vua Si-hôn vốn trị vì tại Hếch-bôn, Sông Giô-đanh và các miền dọc theo bờ sông, chạy dài đến bờ phía nam của Biển Kin-nê-rét, và đất đai nằm về phía đông của Sông Giô-đanh. 28 Ðó là sản nghiệp của con cháu Gát, dựa theo gia tộc của họ mà họ được ban cho các thành và các làng ấy.

Lãnh Thổ Phía Ðông của Nửa Chi Tộc Ma-na-se

29 Môi-se cũng ban một sản nghiệp cho nửa chi tộc Ma-na-se. Ðây là phần dành cho nửa chi tộc Ma-na-se theo gia tộc của họ. 30 Lãnh thổ của họ chạy dài từ Ma-ha-na-im xuyên qua cả xứ Ba-san, tức toàn thể vương quốc của Óc vua Ba-san, tất cả các thị trấn của Giai-rơ, trong miền Ba-san, gồm sáu mươi thị trấn, 31 nửa miền Ghi-lê-át, cùng Ách-ta-rốt và Ét-rê, tức các thành trước kia của Óc vua Ba-san. Ðó là phần sản nghiệp được ban cho con cháu của Ma-khia, con trai Ma-na-se, theo gia tộc của họ; đúng ra là chỉ phân nửa con cháu của Ma-khia.

32 Ðó là những sản nghiệp Môi-se đã phân chia trong miền đồng bằng Mô-áp, bên kia Sông Giô-đanh, tức miền phía đông, đối ngang Giê-ri-cô. 33 Nhưng Môi-se không chia cho chi tộc Lê-vi một phần đất nào để làm sản nghiệp; Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên là sản nghiệp của họ, như Ngài đã phán với họ.

Phân Chia Lãnh Thổ Phía Tây Sông Giô-đanh

14 Ðây là những sản nghiệp dân I-sơ-ra-ên đã nhận lấy trong xứ Ca-na-an mà Tư Tế Ê-lê-a-xa, Giô-suê con trai của Nun, và các trưởng tộc trong các chi tộc của I-sơ-ra-ên đã phân chia cho họ. Sự phân chia sản nghiệp nầy căn cứ vào kết quả của sự bốc thăm để chia xứ cho chín chi tộc rưỡi còn lại, như Chúa đã truyền cho Môi-se. Số là Môi-se đã chia sản nghiệp cho hai chi tộc rưỡi miền đất ở bên kia Sông Giô-đanh; còn chi tộc Lê-vi ông không cho sản nghiệp nào giữa họ cả. Ngoài ra con cháu của Giô-sép lại được kể là hai chi tộc: Ma-na-se và Ép-ra-im; còn người Lê-vi thì không được ban cho sản nghiệp nào trong xứ, nhưng chỉ được ban cho các thành để ở, cùng đất đai chung quanh các thành ấy để nuôi các đàn chiên dê và bò lừa của họ. Dân I-sơ-ra-ên thi hành y như Chúa đã truyền cho Môi-se; họ bốc thăm với nhau để chia xứ.

Hếp-rôn Ðược Ban Cho Ca-lép

Khi ấy con cháu của Giu-đa đến với Giô-suê tại Ghinh-ganh, và Ca-lép con trai Giê-phu-nê người Kê-ni-xi, nói với ông, “Ông biết Chúa đã nói với Môi-se, người của Ðức Chúa Trời, những gì về ông và tôi tại Ca-đe Ba-nê-a. Lúc ấy tôi được bốn mươi tuổi khi Môi-se, người của Chúa, sai tôi từ Ca-đe Ba-nê-a đi do thám xứ, và tôi đã tường trình một cách thật lòng. Nhưng các bạn đi do thám với tôi đã làm cho lòng dân tan chảy; dù vậy tôi vẫn hết lòng theo Chúa, Ðức Chúa Trời của tôi. Hôm đó Môi-se đã thề rằng, ‘Quả thật miền đất nào bàn chân anh giẫm đến sẽ là sản nghiệp của anh và của con cháu anh mãi mãi, vì anh đã hết lòng theo Chúa, Ðức Chúa Trời của tôi.’ 10 Này, đến nay Chúa vẫn giữ tôi còn sống, như lời Ngài đã phán, tức bốn mươi lăm năm kể từ khi Chúa phán những lời ấy với Môi-se khi dân I-sơ-ra-ên còn đi trong đồng hoang. Ngày nay tôi đứng đây, đã được tám mươi lăm tuổi. 11 Nhưng bây giờ tôi vẫn còn mạnh khỏe như ngày Môi-se sai tôi đi. Sức lực của tôi bây giờ vẫn mạnh mẽ không kém lúc ấy; tôi vẫn có thể xông pha nơi chiến trường hoặc đi ra đi vào. 12 Vậy bây giờ xin ban cho tôi miền cao nguyên nầy mà Chúa đã phán ngày trước, vì hồi đó chắc ông cũng đã nghe nói về dân A-na-kim ở đó như thế nào, những thành trì của họ vững chắc ra làm sao; biết đâu Chúa sẽ ở với tôi và tôi sẽ đuổi chúng đi, như Chúa đã phán.”

13 Giô-suê chúc phước cho ông và ban Hếp-rôn cho Ca-lép con trai của Giê-phu-nê để làm sản nghiệp. 14 Vậy Hếp-rôn trở thành sản nghiệp của Ca-lép con trai Giê-phu-nê người Kê-ni-xi cho đến ngày nay, vì ông đã hết lòng theo Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên. 15 Vả, tên của Hếp-rôn trước kia là Ki-ri-át Ạc-ba, có nghĩa là thành của Ạc-ba. Ạc-ba là người cao lớn dũng mãnh nhất của dân A-na-kim.

Sau đó xứ được yên ổn và hết nạn chiến tranh.

Lãnh Thổ của Chi Tộc Giu-đa

15 Phần lãnh thổ trúng thăm thuộc về con cái của Giu-đa, theo các gia tộc của họ, đi về hướng nam cho đến biên giới của Ê-đôm, đến miền cực nam của đồng hoang Xin. Ranh giới phía nam của họ chạy từ Biển Muối, tức từ bờ phía nam của biển ấy trở xuống, rồi đi lên Ðèo Bò Cạp, chạy dọc theo đồng hoang Xin, đi ngược lên phía nam của Ca-đe Ba-nê-a, chạy dọc theo Hê-xơ-rôn, trở lên Át-đa, vòng qua Cạc-ca, đi xuyên qua A-xơ-môn, rồi đi ra biển dọc theo Suối Ai-cập, và chấm dứt ở bờ biển. “Ðó sẽ là ranh giới phía nam của ngươi.” Ranh giới phía đông là Biển Muối cho đến cửa Sông Giô-đanh. Ranh giới phía bắc bắt đầu từ bờ biển ở cửa Sông Giô-đanh; đường ranh giới đi lên Bết Hốc-la, rồi chạy dọc theo phía bắc của Bết A-ra-ba; đường ranh giới đi vòng lên Vầng Ðá của Bô-han con trai của Ru-bên; đường ranh giới lại tiếp tục đi lên Ðê-bi, từ Thung Lũng A-cơ chạy về hướng bắc, quay về hướng Ghinh-ganh, tức đối ngang với Dốc A-đum-mim, thuộc về phía nam của thung lũng; đường ranh giới chạy dọc theo hồ nước ở Ên Sê-mếch, rồi ra đến Ên Rô-Ghên. Ðường Ranh giới lại đi lên Thung Lũng Bên Hin-nôm ở triền núi phía nam của dân Giê-bu-si, tức Giê-ru-sa-lem; rồi đường ranh giới đi lên đỉnh núi nằm đối ngang Thung Lũng Hin-nôm về hướng tây, ở cực bắc của Thung Lũng Rê-pha-im; đường ranh giới lại kéo dài từ đỉnh núi đi xuống nguồn nước của Nép-tô-a, từ đó đi xuống các thành của Núi Ép-rôn; rồi đường ranh giới chạy vòng quanh Ba-a-la, tức Ki-ri-át Giê-a-rim; 10 đường ranh giới lại vòng qua hướng tây của Ba-a-la đến Núi Sê-i-rơ, chạy dọc theo triền núi phía bắc của Núi Giê-a-rim, tức Kê-sa-lôn, rồi đi xuống đến Bết Sê-mết, và chạy dọc theo Tim-na; 11 đường ranh giới ra đến triền đồi phía bắc của Éc-rôn; đường ranh giới chạy vòng lại Si-kê-rôn, chạy dọc theo Núi Ba-a-la, và ra đến Giáp-nê-ên; rồi đường ranh giới ra đến biển và chấm dứt. 12 Ranh giới phía tây là Biển Lớn và miền duyên hải. Ðó là đường ranh giới chạy quanh phần đất của con cháu Giu-đa, chia theo các gia tộc của họ.

Ca-lép Chiếm Lấy Sản Nghiệp

(Thủ 1:11-15)

13 Theo như lệnh Chúa đã truyền cho Giô-suê, ông ban cho Ca-lép con trai Giê-phu-nê một phần trong lãnh thổ của Giu-đa, đó là Ki-ri-át Ạc-ba, tức là Hếp-rôn. Ạc-ba là cha của A-nác. 14 Ca-lép đuổi khỏi nơi đó ba con trai của A-nác: Sê-sai, A-hi-man, và Tanh-mai, dòng dõi của A-nác. 15 Từ đó ông đi lên tiến đánh dân Thành Ðê-bi; vả, tên của Ðê-bi trước đó là Ki-ri-át Sê-phe. 16 Ca-lép nói, “Ai tấn công Ki-ri-át Sê-phe và chiếm được nó, tôi sẽ gả Ách-sa con gái của tôi làm vợ người ấy.” 17 Ốt-ni-ên con trai của Kê-na (Kê-na là em trai Ca-lép) chiếm được thành ấy; vì thế ông gả Ách-sa con gái của ông làm vợ Ốt-ni-ên. 18 Khi nàng về nhà chồng, chồng nàng giục nàng[c] xin cha nàng một cánh đồng. Lúc nàng xuống lưng lừa, Ca-lép hỏi nàng, “Con muốn gì đây?”

19 Nàng trả lời ông, “Con muốn xin cha một món quà; bây giờ cha đã gả con về miền nam, xin cha cho con các suối nước.”

Ca-lép cho nàng các suối nước ở miền trên và các suối nước ở miền dưới.

Các Thành của Chi Tộc Giu-đa

20 Ðây là sản nghiệp thuộc chi tộc của con cháu Giu-đa theo các gia tộc của họ.

21 Các thành thuộc về chi tộc của con cháu Giu-đa trong miền cực nam, về hướng biên giới của Ê-đôm là Cáp-xê-ên, Ê-đe, Gia-gua, 22 Ki-na, Ði-mô-na, A-đa-đa, 23 Kê-đét, Ha-xơ, Ít-nan, 24 Xíp, Tê-lem, Bê-a-lốt, 25 Ha-xơ Ha-đát-ta, Kê-ri-ốt Hê-xơ-rôn (tức Ha-xơ), 26 A-mam, Sê-ma, Mô-la-đa, 27 Ha-xa Gát-đa, Hếch-môn, Bết Pê-lét, 28 Ha-xa Su-an, Bê-e Sê-ba, Bi-xi-ô-thi-a, 29 Ba-a-la, I-im, Ê-xem, 30 Ên-tô-lát, Kê-sin, Họt-ma, 31 Xích-lắc, Mát-man-na, San-san-na, 32 Lê-ba-ốt, Sin-him, A-in, và Rim-môn – tất cả là hai mươi chín thành với các làng của các thành ấy.

33 Trong vùng đồng bằng có Ếch-ta-ôn, Xô-ra, Ách-na, 34 Xa-nô-a, Ên Gan-nim, Táp-pu-a, Ê-nam, 35 Giạc-mút, A-đu-lam, Sô-cô, A-xê-ca, 36 Sa-a-ra-im, A-đi-tha-im, và Ghê-đê-ra (tức Ghê-đê-rô-tha-im) – mười bốn thành với các làng của các thành ấy.

37 Xê-nan, Ha-đa-sa, Mích-đan Gát, 38 Ði-lan, Mích-pê, Giốc-thê-ên, 39 La-kích, Bô-cát, Éc-lon, 40 Ca-bon, La-mam, Ki-tích, 41 Ghê-đê-rốt, Bết Ða-gôn, Na-a-ma, và Ma-kê-đa – mười sáu thành với các làng của các thành ấy.

42 Líp-na, Ê-the, A-san, 43 Íp-ta, Ách-na, Nê-xíp, 44 Kê-i-la, Ách-xíp, Ma-rết-sa – chín thành với các làng của các thành ấy.

45 Éc-rôn với các thị trấn trực thuộc và các làng của các thị trấn ấy, 46 từ Éc-rôn đến biển, tất cả các thị trấn trực thuộc và ở gần Ách-đốt với các làng của các thị trấn ấy. 47 Ách-đốt, các thị trấn trực thuộc, và các làng của các thị trấn ấy; Ga-xa, các thị trấn trực thuộc, và các làng của các thị trấn ấy, trải dài cho đến Suối Ai-cập và dọc theo bờ Biển Lớn.

48 Trên miền cao nguyên: Sa-mia, Giát-tia, Sô-cô, 49 Ðan-na, Ki-ri-át San-na (tức Ðê-bi), 50 A-náp, Ếch-tê-mô, A-nim, 51 Gô-sen, Hô-lôn, và Ghi-lô – mười một thành với các làng của các thành ấy.

52 A-rập, Ðu-ma, Ê-san, 53 Gia-nim, Bết Táp-pu-a, A-phê-ca, 54 Hum-ta, Ki-ri-át Ạc-ba (tức Hếp-rôn), Xi-ơ – chín thành với các làng của các thành ấy.

55 Ma-ôn, Cạt-mên, Xíp, Giút-ta, 56 Giê-rê-ên, Giốc-đê-am, Xa-nô-a, 57 Ca-in, Ghi-bê-a, và Tim-na – mười thành với các làng của các thành ấy.

58 Hanh-hun, Bết Xu-rơ, Ghê-đô, 59 Ma-a-rát, Bết A-nốt, và Ên-tê-côn – sáu thành với các làng của các thành ấy.

60 Ki-ri-át Ba-anh (tức Ki-ri-át Giê-a-rim) và Ráp-ba – hai thành với các làng của các thành ấy.

61 Trong đồng hoang: Bết A-ra-ba, Mít-đin, Sê-ca-ca, 62 Síp-san, Thành Muối, và Ên Ghê-đi – sáu thành với các làng của các thành ấy.

63 Nhưng con cháu của Giu-đa không thể đuổi dân Giê-bu-si, tức dân cư ở Giê-ru-sa-lem, đi khỏi; vì thế dân Giê-bu-si vẫn sống giữa dân Giu-đa ở Giê-ru-sa-lem cho đến ngày nay.

Footnotes

  1. Giô-suê 13:2 Khác với dân Ghê-sua ở miền bắc (12:5; 13:11)
  2. Giô-suê 13:26 nt: Li-đê-bi
  3. Giô-suê 15:18 Hebrew và một số bản LXX ghi “nàng giục ông” nhưng một số bản LXX khác ghi “ông giục nàng”

Giăng Báp-tít ra đời

57 Đến kỳ sinh nở, Ê-li-xa-bét sinh ra một bé trai. 58 Láng giềng và bà con đến chung vui vì nghe Chúa đã tỏ lòng nhân từ đối với bà.

59 Khi em bé được tám ngày, thì người ta đến làm phép cắt dương bì cho em. Họ định đặt tên em là Xa-cha-ri theo tên cha, 60 nhưng bà mẹ bảo, “Không! Phải đặt tên nó là Giăng.”

61 Họ bảo Ê-li-xa-bét, “Nhưng trong họ hàng bà không ai có tên ấy.” 62 Họ liền ra dấu cho cha đứa bé hỏi xem ông muốn đặt tên gì.

63 Xa-cha-ri xin tấm bảng nhỏ rồi viết lên, “Tên nó là Giăng.” Mọi người đều kinh ngạc. 64 Ngay lúc ấy Xa-cha-ri nói được trở lại và ca tụng Thượng Đế. 65 Hàng xóm, láng giềng đâm ra lo sợ, còn dân chúng khắp vùng đồi núi Giu-đia không ngớt bàn tán về chuyện đó. 66 Những người nghe chuyện hỏi nhau rằng, “Em bé ấy lớn lên sẽ ra sao?” vì quyền năng của Chúa ở cùng cậu ấy.

Xa-cha-ri ca ngợi Thượng Đế

67 Bấy giờ Xa-cha-ri, cha của Giăng đầy Thánh Linh và nói tiên tri:

68 “Chúng ta hãy ca ngợi Chúa là Thượng Đế của Ít-ra-en,
    vì Ngài đến cứu giúp dân Ngài và giải thoát họ.
69 Ngài đã cho chúng ta một Đấng Cứu Thế quyền năng,
    xuất thân từ gia đình Đa-vít, tôi tớ Ngài.
70 Qua các nhà tiên tri thánh của Chúa đã sống từ ngàn xưa,
    Ngài hứa sẽ hoàn thành điều ấy:
71 Ngài hứa sẽ giải cứu chúng ta khỏi tay kẻ thù
    và khỏi thế lực của những kẻ ghét chúng ta.
72 Ngài hứa sẽ tỏ lòng nhân từ cho cha ông chúng ta
    và cam kết sẽ giữ lời hứa thánh của Ngài.
73 Ngài hứa với Áp-ra-ham, tổ phụ chúng ta
74 rằng Ngài sẽ giải cứu chúng ta khỏi quyền lực của kẻ thù
    để chúng ta có thể phục vụ Ngài mà không sợ hãi,
75 để chúng ta trở nên thánh thiện và nhân đức
    trước mặt Ngài suốt đời chúng ta.

76 Bây giờ, con ơi, con sẽ được gọi là nhà tiên tri của Đấng Tối Cao.
    Con sẽ đi trước để dọn đường cho Chúa.
77 Con sẽ khiến cho dân Ngài biết là họ sẽ được cứu,
    khi tội họ được xóa hết.
78 Do lòng nhân từ thương xót của Thượng Đế,
    một bình minh mới [a] từ thiên đàng sẽ chiếu trên chúng ta.
79 Ánh sáng sẽ chiếu trên những kẻ sống trong tăm tối,
    ở dưới bóng chết, và dẫn chúng ta vào lối đi hòa bình.”

80 Đứa trẻ lớn lên, tinh thần thêm mạnh mẽ. Giăng sống trong đồng hoang cho đến ngày ra mắt dân Ít-ra-en.

Read full chapter

Footnotes

  1. Lu-ca 1:78 bình minh mới Hay “ngày mới.” Đây dùng nghĩa bóng, có thể có nghĩa là Đấng Cứu Thế của Chúa.

Giăng Báp-tít Sinh Ra

57 Ðến kỳ sinh nở, Ê-li-sa-bét sinh một con trai. 58 Những láng giềng và bà con dòng họ của bà nghe Chúa bày tỏ lòng thương xót lớn lao của Ngài đối với bà, họ vui mừng với bà.

59 Ngày thứ tám, họ đến để cắt bì cho đứa bé. Họ định đặt tên nó là Xa-cha-ri, theo tên của cha nó. 60 Nhưng mẹ nó trả lời và nói, “Không, nó sẽ được gọi là Giăng.”

61 Họ nói với bà, “Không người bà con nào của bà có tên ấy cả.”

62 Kế đó họ ra dấu cho cha đứa bé để xem ông muốn đặt tên nó là gì. 63 Ông ra dấu bảo đem cho ông một bảng nhỏ, rồi ông viết trên đó, “Tên nó là Giăng.” Mọi người đều lấy làm lạ. 64 Thình lình miệng ông mở ra, lưỡi ông được tự do, và ông cất tiếng ca ngợi Ðức Chúa Trời.

65 Cả xóm giềng đều phát sợ, và người ta nói về chuyện ấy khắp miền đồi núi xứ Giu-đê. 66 Tất cả những ai nghe chuyện ấy đều nói, “Rồi đây không biết đứa trẻ ấy sẽ ra sao?” Vì tay Chúa ở cùng nó.

Lời Tiên Tri của Xa-cha-ri

67 Bấy giờ Xa-cha-ri cha đứa bé được đầy dẫy Ðức Thánh Linh và nói tiên tri rằng:

68 “Chúc tụng Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên,
Vì Ngài đã đoái thăm và cứu chuộc dân Ngài.
69 Ngài đã dấy lên một sừng cứu rỗi cho chúng ta,
Trong nhà Ða-vít tôi tớ Ngài,
70 Như Ngài đã phán trước qua miệng các tiên tri thánh của Ngài từ xưa rằng,
71 Chúng ta sẽ được giải cứu khỏi những kẻ thù của mình,
Và khỏi tay những kẻ ghét chúng ta.
72 Ngài bày tỏ lòng thương xót đối với tổ tiên chúng ta,
Ngài nhớ lại giao ước thánh của Ngài,
73 Tức lời thề Ngài đã lập với Áp-ra-ham tổ phụ chúng ta,
Ðể ban cho chúng ta
74 Ðược giải thoát khỏi tay những kẻ thù nghịch,
Ðể có thể phụng sự Ngài không chút sợ hãi,
75 Trong sự thánh khiết và công chính,
Trước mặt Ngài trọn đời chúng ta.
76 Còn con, hỡi con thơ, con sẽ được gọi là tiên tri của Ðấng Tối Cao,
Vì con sẽ đi trước Chúa để dọn đường cho Ngài,
77 Ðể ban tri thức về ơn cứu rỗi cho dân Ngài,
Qua sự tha thứ tội lỗi họ.
78 Nhờ đức nhân từ thương xót của Ðức Chúa Trời chúng ta,
Mà vầng thái dương mọc lên từ trời sẽ thăm viếng chúng ta,
79 Ðể mang ánh sáng đến những kẻ đang ngồi trong tối tăm và bóng tử thần;
Ðể dẫn dắt bàn chân chúng ta vào con đường bình an.”

80 Ðứa trẻ càng lớn lên tinh thần càng mạnh mẽ. Nó cứ sống trong đồng hoang cho đến ngày tỏ mình ra với dân I-sơ-ra-ên.

Read full chapter