Add parallel Print Page Options

Tuyên ngôn cho Li-băng

23 Đây là tuyên ngôn cho Tia:

Hỡi các tàu buôn Tạt-si [a], hãy than khóc lên!
    Vì các nhà cửa và bến tàu của Tia đã bị tiêu hủy rồi.
Tin tức đó truyền đến cho các tàu bè từ đảo Chíp.

Hãy im lặng, hỡi các ngươi là kẻ sống trên đảo Tia;
    hỡi các thương gia của Xi-đôn, hãy im lặng.
Các thủy thủ đã khiến ngươi giàu có.
Chúng ra khơi để mang thóc gạo về từ Ai-cập;
    các thủy thủ của Tia mang thóc gạo về từ thung lũng sông Nin,
    và bán cho các nước khác.

Hỡi Xi-đôn, hãy xấu hổ đi!
    Hỡi Đồn của Biển [b] hãy xấu hổ,
vì biển lên tiếng rằng:
    “Khi ta sinh, ta chẳng thấy đau đẻ;
Ta không nuôi dưỡng các thanh niên thiếu nữ ngươi.”

Ai-cập sẽ nghe tin tức về Tia,
    tin đó sẽ làm cho Ai-cập đau buồn.
Các thuyền bè ngươi nên trở về Tạt-si.
    Dân ngươi sống gần biển hãy buồn rầu.
Hãy nhìn thành ngươi trước kia vui vẻ bao nhiêu!
    Hãy nhìn thành xưa cổ của ngươi!
Dân cư thành đó đã đi định cư nơi xa [c].
Ai đã dự định phá hủy thành Tia?
    Thành Tia đã mang giàu có đến cho các thành khác.
Các thương gia nó được đối xử như bậc vương giả,
    và các con buôn nó được trọng vọng.
Chính CHÚA Toàn Năng đã hoạch định điều nầy.
    Ngài hạ những dân tự phụ nầy xuống;
    và làm sỉ nhục những kẻ trước kia được trọng vọng.
10 Hãy đi qua đất ngươi, hỡi dân Tạt-si,
    như sông Nin chảy qua Ai-cập.
Bây giờ không còn bến đậu nào cho ngươi nữa!
11 CHÚA đã giơ tay ra trên biển
    khiến các nước rung động.
Ngài ra lệnh cho các thành có vách kiên cố
    của Ca-na-an bị tiêu diệt.
12 Ngài phán, “Xi-đôn [d] ơi,
    ngươi sẽ không còn hớn hở nữa,
    vì ngươi đã bị tiêu diệt.
Dù cho ngươi băng qua biển đến Chíp [e],
    cũng chẳng tìm được nơi an nghỉ đâu.”
13 Hãy nhìn đất dân Ba-by-lôn kìa;
    bây giờ đâu còn là nước nữa.
A-xy-ri đã biến nó ra nơi ở của muông thú.
A-xy-ri xây tháp để tấn công nó;
    các lính tráng nó lấy tất cả các của báu từ các thành nó,
    và biến chúng ra điêu tàn.
14 Hỡi các tàu buôn, hãy rầu rĩ đi,
    vì thành vững chãi của các ngươi đã bị tiêu diệt rồi.

15 Lúc đó người ta sẽ quên bẵng Tia trong bảy mươi năm, tức bằng một đời vua. Sau bảy mươi năm, Tia sẽ như cô gái điếm trong bài ca nầy:

16 “Hỡi cô gái điếm bị lãng quên kia ơi!
    Hãy lấy đờn cầm của chị mình và đi dạo qua thành.
Hãy gảy đờn cho hay.
    Hãy hát nghêu ngao ca bài của mình.
Thì sẽ được người đời nhớ đến.”

17 Sau bảy mươi năm, CHÚA sẽ xét lại trường hợp của Tia và định đoạt số phận nó. Việc kinh doanh của nó sẽ lại tái tục. Nó sẽ như gái điếm cho các dân trên đất. 18 Những doanh lợi của nó sẽ để dành cho CHÚA. Tia sẽ không cất giữ tiền mình kiếm được nhưng sẽ ban nó cho những ai phục vụ CHÚA để họ dư ăn dư mặc.

Chúa sẽ trừng phạt thế gian

24 Nầy! CHÚA sẽ tiêu diệt xứ nầy [f] khiến nó hoang vu;
    Ngài sẽ tiêu hủy mặt đất và phân tán dân cư nó.
Lúc đó ai nấy đều đồng chung số phận:
    thường dân cũng như thầy tế lễ,
nô lệ đàn ông cũng như chủ nhân,
    nữ nô lệ cũng như nữ chủ nhân,
kẻ bán cũng như người mua,
    người vay cũng như kẻ cho vay,
chủ nợ cũng như con nợ.
Đất sẽ hoàn toàn hoang vu.
    Của cải sẽ bị cướp đi, vì CHÚA ra lệnh đó.
Đất sẽ khô cằn và tiêu điều;
    thế giới sẽ héo mòn và biến mất;
các đại lãnh tụ trong đất nầy sẽ mòn mỏi.
Dân cư trên đất đã tàn hại nó,
    vì chúng không đi theo lời giáo huấn của Thượng Đế,
không vâng theo luật lệ Ngài,
    không tôn trọng giao ước với Thượng Đế
    là giao ước còn mãi mãi.
Cho nên sự nguyền rủa sẽ tiêu diệt đất,
    Dân trên thế gian có tội, nên sẽ bị tiêu diệt;
    chỉ còn lại một số ít.
Rượu mới sẽ hư, và cây nho sẽ chết.
    Những ai trước đây vui vẻ sẽ buồn rầu.
Sẽ không còn tiếng trống cơm tưng bừng,
    Tiếng tiệc liên hoan sẽ ngưng.
    Tiếng đờn cầm náo nức sẽ dứt.
Dân chúng không còn ca hát đang khi uống rượu.
    Bia sẽ hóa đắng cho kẻ nào uống nó.
10 Thành điêu tàn sẽ bị hoang vu,
    Mọi nhà sẽ đóng cửa kín mít không cho ai vào.
11 Người đi ngoài phố sẽ xin rượu,
    nhưng niềm vui sẽ biến nên sầu thảm;
    vì tất cả thú vui trên đời đã vỗ cánh bay đi.
12 Thành sẽ hoá ra điêu tàn,
    các cổng thành đều bể nát vụn.

13 Đó là điều sẻ xảy ra trên khắp đất cho tất cả mọi nước.
    Đất sẽ như cây ô liu sau mùa gặt hái,
    chỉ còn một vài trái nho sót trên cành sau mùa hái nho.
14 Dân chúng reo vui.
    Từ phương tây, họ ca tụng sự cao cả của CHÚA.
15 Hỡi dân phương đông, hãy ca tụng CHÚA.
    Hỡi dân trong các hải đảo,
    hãy ca ngợi danh CHÚA,
    Thượng Đế của Ít-ra-en.
16 Từ khắp nơi trên đất chúng ta nghe các bài ca tán dương Thượng Đế,
Đấng Công bình.
    Nhưng tôi nói, “Tôi đang hấp hối,
    tôi đang hấp hối! Khốn cho tôi!
Những kẻ phản bội đã hại dân chúng;
    dùng lối lường gạt, chúng đã hại dân chúng.”

17 Dân cư trên đất sẽ gặp kinh hoàng,
    vấp phải hố, và bẫy.
18 Ai thoát được tiếng kinh hoàng sẽ rơi vào hố.
    Ai trèo ra khỏi hố sẽ bị sập bẫy.
    Mây sẽ đổ mưa xuống,
    và nền trái đất sẽ rung chuyển mạnh.
19 Mặt đất sẽ bể ra; đất sẽ nứt nẻ;
    đất sẽ rung chuyển mạnh.
20 Đất sẽ xiêu vẹo như người say;
    nó sẽ rung chuyển như lều gặp bão.
Tội lỗi nó như gánh nặng trên lưng nó;
    nó sẽ ngã không ngồi dậy được.

21 Lúc đó CHÚA sẽ trừng phạt các thế lực trên trời
    và các quan quyền dưới đất.
22 Chúng sẽ nhóm lại như những tù nhân bị ném vào ngục tối;
    chúng sẽ bị nhốt vào ngục [g].
Bị trừng phạt một thời gian lâu.
23 Mặt trăng sẽ ngượng ngùng,
    mặt trời sẽ xấu hổ,
vì CHÚA Toàn Năng sẽ làm vua cai trị trên núi Xi-ôn trong Giê-ru-sa-lem.
    Các lãnh tụ Giê-ru-sa-lem sẽ nhìn thấy sự oai nghi của Ngài.

Bài ca tụng Thượng Đế

25 Lạy CHÚA, Ngài là Thượng Đế tôi.
Tôi tôn trọng và ca tụng Ngài,
    vì Ngài đã làm những việc diệu kỳ.
Ngài luôn luôn làm điều Ngài phán;
    và thực hiện điều Ngài hoạch định từ xưa.
Ngài đã biến thành phố ra đống đá vụn và tiêu hủy nó.
    Đền đài của kẻ thù nay không còn nữa;
    nó sẽ không được ai xây lại.
Dân cư từ các nước hùng cường sẽ tôn kính Ngài;
    thành phố của các dân hung bạo sẽ sợ hãi Ngài.
Ngài che chở kẻ nghèo;
    Ngài bênh vực kẻ cô thế khi họ gặp nguy khốn.
Ngài như nơi trú ẩn lúc giông bão,
    như mái che họ khỏi nắng nóng.
Kẻ ác tấn công như mưa bão đập vào tường,
như sức nóng trong sa mạc.
    Nhưng Thượng Đế ơi,
Ngài ngăn chận cuộc tấn công hung bạo của chúng nó.
    Như mây làm mát ngày nóng nực thế nào,
Ngài cũng làm tắt tiếng ca
    của những kẻ không có lòng từ bi như thế.

Bàn tiệc cho các đầy tớ Ngài

CHÚA Toàn Năng sẽ dọn một bữa tiệc trên núi nầy cho các dân. Một bữa tiệc đầy cao lương mỹ vị, cùng với thịt ngon và rượu hảo hạng.

Trên núi nầy Thượng Đế sẽ ném bỏ tấm màn che mọi dân, tấm màn phủ trên mọi dân tộc; Ngài sẽ tiêu diệt sự chết cho đến đời đời [h]. CHÚA là Thượng Đế sẽ lau khô nước mắt trên mọi gương mặt. Ngài sẽ cất sự sỉ nhục khỏi dân Ngài trên đất. CHÚA đã phán.

Lúc đó mọi người sẽ bảo,
“Thượng Đế chúng tôi làm điều nầy!
    Chúng ta đã trông đợi Ngài,
    và Ngài đã đến giải cứu chúng ta.
Đây là CHÚA.
    Chúng ta đã trông đợi Ngài,
    chúng ta sẽ vui mừng hớn hở khi Ngài cứu chúng ta.”
10 CHÚA sẽ bảo vệ núi nầy,
    nhưng Ngài sẽ giày đạp Mô-áp [i], kẻ thù chúng ta
    như rơm rạ bị giày xéo trong đống phân.
11 Chúng sẽ dang tay ra trong đó như người đang bơi.
    Nhưng Thượng Đế sẽ hạ lòng kiêu căng của chúng xuống,
    và những gì khôn khéo chúng làm sẽ không còn ra gì.
12 Thượng Đế sẽ phá sập các vách vững chắc của Mô-áp.
    Ngài sẽ ném chúng xuống đến bụi đất.

Footnotes

  1. I-sai-a 23:1 tàu buôn Tạt-si Đây có thể là một loại thương thuyền đặc biệt. Xem câu 14.
  2. I-sai-a 23:4 Đồn của Biển Một tên khác của thành Tia.
  3. I-sai-a 23:7 đi định cư nơi xa Hay “từ xa đến để định cư ở đây.”
  4. I-sai-a 23:12 Xi-đôn Nguyên văn, “Con gái Xi-đôn.”
  5. I-sai-a 23:12 Chíp Nguyên văn, “Kít-tim.” Đây cũng có thể nghĩa là đảo “Cơ-rết.”
  6. I-sai-a 24:1 xứ nầy Hay “đất.”
  7. I-sai-a 24:22 ngục tối; … vào ngục Đây có thể nghĩa là “Sê-ôn,” mồ mả, hay nơi người chết ở.
  8. I-sai-a 25:8 Ngài sẽ … đời đời Một vài bản Hi-lạp ghi “Nhưng sự chết sẽ bị sự đắc thắng nuốt mất.”
  9. I-sai-a 25:10 Mô-áp Hay “kẻ thù.” Từ ngữ nầy trong tiếng Hê-bơ-rơ nghe như “kẻ thù.”

Sứ Ðiệp Nghịch Lại Ty-rơ

23 Sứ điệp về Ty-rơ:

Hỡi các thương thuyền của Tạt-si, hãy than khóc,
Vì nơi giao thương buôn bán chính của các ngươi đã bị tàn phá rồi, chẳng còn nhà cửa, chẳng còn bến tàu gì nữa.
Khi các thương thuyền ấy rời Ðảo Chíp-rơ đến nơi, chúng mới khám phá ra điều ấy.

Hãy yên lặng, hỡi dân cư sống ở miền duyên hải,
Hỡi các thương gia của Si-đôn,
Các ngươi đã phái nhiều người vượt trùng dương,
Vượt biển cả mênh mông.
Nguồn lợi của các ngươi là hạt giống gieo ở Si-kho và mùa gặt ở hai bên bờ Sông Nin;
Ngươi là một trung tâm thương mại quốc tế.
Hỡi Si-đôn, ngươi hãy hổ thẹn đi, vì biển đã lên tiếng;
Thành trì trên bờ biển đã tuyên bố rằng,
“Ta đã không đau đớn vì chuyển bụng sinh ngươi;
Ta đã không sinh ngươi ra;
Ta đã không nuôi nấng các thanh niên ngươi;
Và Ta cũng không dưỡng dục các thiếu nữ ngươi.”
Khi tin tức đến xứ Ai-cập,
Ai nấy nghe tin về Ty-rơ đều đau đớn quặn thắt.

Hãy vượt qua đại dương tiến đến Tạt-si,
Hỡi dân cư sống ở miền duyên hải,
Hãy cất tiếng khóc than.

Phải chăng thành các ngươi vốn đầy tiếng vui cười náo nhiệt,
Thành được lập nên từ thuở xa xưa,
Thành có những bàn chân từng chiếm ngụ khắp miền viễn xứ?
Ai đã trù hoạch việc này nghịch lại Ty-rơ,
Thành có thẩm quyền ban phát các vương miện,
Thành có các thương gia đầy quyền thế như những ông hoàng,
Các con buôn của nó được tôn trọng khắp nơi trên thế giới?
Chính Chúa các đạo quân đã hoạch định điều ấy,
Ðể làm ô nhục niềm kiêu hãnh của mọi vinh hiển trần gian,
Ðể làm sỉ nhục mọi kẻ được thế gian tôn trọng.

10 Hỡi ái nữ[a] của Tạt-si,
Hãy tràn qua xứ ngươi như một dòng sông,[b]
Vì ở đây không còn bến tàu nữa.
11 Ngài đã đưa tay Ngài ra trên biển;
Ngài đã làm các vương quốc rúng động;
Chúa đã ban lịnh nghịch lại Ca-na-an,
Ðể tiêu diệt các thành trì của nó.
12 Ngài phán, “Ngươi sẽ chẳng vui cười nữa, hỡi ái nữ của Si-đôn, người trinh nữ bị hãm hiếp;
Hãy trỗi dậy và đi qua Ðảo Chíp-rơ[c] trú ngụ,
Dù ở đó ngươi cũng không được yên ổn bao nhiêu.”

13 Hãy nhìn vào xứ của người Canh-đê;
Chính dân ấy, chứ không phải người A-sy-ri, đã biến Ty-rơ[d] thành nơi ở của thú rừng;
Chúng đã dựng tháp để vây thành;
Chúng đã phá tan các cung điện;
Chúng đã biến nó thành chốn đổ nát hoang tàn.[e]
14 Hỡi các thương thuyền của Tạt-si, hãy than khóc,
Vì thành trì che chở của ngươi đã bị phá tan rồi.

15 Từ ngày ấy Ty-rơ sẽ bị lãng quên trong bảy mươi năm, như số năm của một đời vua.
Sau bảy mươi năm ấy, số phận của Ty-rơ sẽ giống như lời ca của người kỹ nữ:

16 Hỡi người kỹ nữ đã bị lãng quên,
Hãy ôm đàn dạo quanh thành phố,
Hãy khảy cho thật hay, hãy hát nhiều bài hát,
May đâu người ta sẽ nhớ đến ngươi.

17 Mãn bảy mươi năm Chúa sẽ thăm viếng Ty-rơ. Nó sẽ trở lại nghề cũ, tức làm điếm với mọi vương quốc trên mặt đất. 18 Nhưng tiền lời và tiền làm công của nó sẽ được đem dâng lên Chúa, thay vì để dành hoặc cất giữ. Những lợi nhuận của nó sẽ được dùng để cung cấp thực phẩm dồi dào và áo quần tốt đẹp cho những người phục vụ trước mặt Chúa.

Chúa Phán Xét Thế Gian

24 Này, Chúa sắp hủy phá mặt đất và khiến nó trở nên hoang tàn;
Ngài sẽ lật úp mặt nó xuống và làm tan tác dân cư.
Bấy giờ mọi người sẽ cùng chung số phận: Tư tế cũng như dân thường,
Ông chủ cũng như tôi trai,
Bà chủ cũng như tớ gái,
Kẻ bán cũng như người mua,
Kẻ cho mượn cũng như người vay mượn,
Chủ nợ cũng như con nợ.
Mặt đất sẽ trở nên trống không hoang vắng;
Nó sẽ bị tước đoạt và lột sạch,
Vì lời Chúa đã phán vậy.

Khắp đất đều hoang vắng thê lương;
Thế giới đều héo sầu buồn thảm;
Trời đất thảy ảo não u sầu.
Dân cư trên đất đã làm cho nó bị ô nhiễm,
Vì họ đã vi phạm luật pháp,
Thay đổi mạng lịnh,
Hủy bỏ giao ước đời đời.
Vì vậy lời nguyền rủa sẽ ăn tươi nuốt sống trái đất;
Dân cư nó phải gánh lấy hậu quả của tội lỗi họ.
Do đó dân cư trên đất sẽ bị thiêu hủy;
Chỉ còn một ít người sống sót.

Rượu mới thảm sầu, cây nho tàn héo;
Tất cả những kẻ hay vui chơi nay đều thở dài ảo não.
Tiếng trống vui nhộn giờ hoàn toàn ngưng bặt;
Tiếng cười reo nay đã dứt rồi;
Tiếng đàn vui giờ cũng im lìm vắng lặng.
Chẳng còn ai uống rượu rồi cất giọng hát ca;
Ly rượu mạnh đã trở thành đắng cay cho người uống nó.
10 Thành cuồng loạn nay đã sụp đổ tan tành;
Nhà nhà đều cửa khóa then cài, chẳng ai vào được.
11 Ngoài đường phố vang tiếng kêu la kiếm rượu;
Mọi cuộc vui đều không còn nữa;
Những vui sướng của thế gian thảy đều biến mất.
12 Thành phố bây giờ chỉ còn hoang vắng tiêu điều;
Các cổng thành đều gãy nát.
13 Ðó sẽ là tình trạng của các quốc gia trên thế giới,
Giống như cây ô-liu bị rung khi hái trái,
Như cây nho bị mót trái lúc cuối mùa.
14 Những kẻ sống sót sẽ lên tiếng, họ sẽ hớn hở ca mừng;
Những kẻ ở phương tây[f] sẽ reo hò vì uy nghi của Chúa.
15 Vậy hỡi những kẻ ở phương đông, hãy tôn vinh Chúa;
Hỡi các dân trong các xứ ở hải ngoại, hãy tôn vinh danh Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên.
16 Chúng tôi đã nghe những lời ca ngợi phát xuất từ các nơi tận cùng trái đất rằng,
“Ðấng Công Chính thật hiển vinh thay!”
Nhưng tôi nói, tôi đuối sức rồi, tôi đuối sức rồi. Khốn cho tôi thay!
Phường phản bội đã phản bội rồi;
Phải, phường phản bội đã phản bội thật rồi.

17 Hỡi dân cư trên đất,
Kìa kinh hoàng, hầm hố, và bẫy lưới đang chờ bắt các ngươi.
18 Kẻ chạy trốn vì tiếng kinh hoàng sẽ sa vào hố;
Kẻ nào trèo ra khỏi hố sẽ bị mắc vào bẫy lưới,
Vì cổng các nguồn nước trên trời đã mở toang;
Các nền trái đất thảy đều rung chuyển.
19 Trái đất bị vỡ nát tan tành;
Ðịa cầu bị nổ tung ra từng mảnh;
Trái đất bị rúng động dữ dội.
20 Ðịa cầu lảo đảo như người say,
Lắc lư tựa chiếc lều lỏng lẻo.
Tội lỗi nó đè nặng trên nó;
Nó ngã quỵ và không đứng dậy được nữa.

21 Trong ngày ấy trên trời Chúa sẽ trừng phạt đạo thiên binh sa ngã,
Còn dưới đất Ngài sẽ trừng phạt các vị vua kiêu ngạo.
22 Họ sẽ bị gom lại với nhau,
Như các tù nhân bị nhốt chung dưới hầm ngục;
Họ sẽ bị giam giữ trong tù;
Họ sẽ bị trừng phạt như vậy một thời gian lâu.
23 Bấy giờ mặt trăng sẽ mắc cỡ, mặt trời sẽ hổ thẹn,
Chúa các đạo quân sẽ trị vì trên Núi Si-ôn, ngay tại Giê-ru-sa-lem,
Và vinh quang Ngài sẽ rạng lòa trước mặt các vị trưởng lão của Ngài.

Tạ Ơn vì Ðược Cứu Khỏi Áp Bức

25 Lạy Chúa, Ngài là Ðức Chúa Trời của con;
Con tôn ngợi Ngài, con chúc tụng danh Ngài,
Vì Ngài đã làm những việc lạ lùng.
Ngài thực hiện các chương trình đã định sẵn từ xưa cách thành tín và thực tế.
Vì Ngài đã biến một thành phố thành một đống vụn,
Một thành trì kiên cố ra một nơi đổ nát điêu tàn;
Khu dinh thự của các dân ngoại không còn là một khu phố nữa;
Nó sẽ không bao giờ được xây dựng lại.
Vì thế các dân tộc hùng cường sẽ tôn vinh Ngài;
Những thành trì của các dân hung hãn sẽ kính sợ Ngài,
Vì Ngài là nơi ẩn núp của người nghèo khó,
Nơi nương náu cho người khốn cùng trong lúc gian nguy,
Nơi trú ẩn trong khi bão tố,
Và bóng mát giữa lúc nắng thiêu;
Vì sát khí của quân cường bạo như bão tố đập tới tấp vào tường,
Tiếng náo động của các dân ngoại như nắng gắt giữa vùng khô hạn;
Ngài chế ngự chúng như nắng nóng bị đám mây che mát;
Tiếng ca hát của quân cường bạo đành im bặt.

Trên núi này Chúa các đạo quân sẽ thết đãi muôn dân một đại tiệc,
Một đại tiệc với thịt béo, một đại tiệc với rượu ngon;
Thịt thật béo bổ và rượu tinh khiết thượng hạng.
Cũng tại trên núi này Ngài sẽ hủy bỏ tấm màn bao trùm mọi dân;
Một tấm màn bao phủ tất cả các nước.

Ngài sẽ tiêu diệt tử thần vĩnh viễn;
Chúa Hằng Hữu sẽ lau khô dòng lệ trên mặt mọi người;
Ngài sẽ cất đi nỗi ô nhục của dân Ngài trên toàn thế giới,
Chúa đã phán vậy.

Trong ngày ấy người ta sẽ nói:
Ðây là Ðức Chúa Trời chúng ta;
Chúng ta trông đợi Ngài, và Ngài giải cứu chúng ta.
Ðây là Chúa chúng ta hằng chờ đợi;
Chúng ta hãy hân hoan và mừng rỡ hưởng ơn cứu rỗi của Ngài,
10 Chúa sẽ đặt tay Ngài trên núi này.

Sứ Ðiệp Nghịch Lại Mô-áp

Người Mô-áp sẽ bị chà đạp ngay tại xứ sở của họ,
Như rơm bị đạp dưới hố phân.
11 Dù giữa lúc ấy họ đưa tay ra tự cứu,
Như người bơi vươn tay ra để sải bơi,
Nhưng Ngài sẽ triệt hạ tính kiêu căng của họ,
Dù cánh tay họ cố vùng vẫy vươn lên.
12 Những tường thành của họ dù lớn cao kiên cố thế nào
Ðều sẽ bị Ngài triệt hạ, phá tan thành bình địa, và trở nên như bụi đất.

Footnotes

  1. Ê-sai 23:10 ctd: các thương thuyền (nghĩa bóng)
  2. Ê-sai 23:10 LXX: Hãy canh tác ruộng đất của ngươi như người ta làm bên bờ sông (Nin).
  3. Ê-sai 23:12 nt: Kít-tim
  4. Ê-sai 23:13 nt: nó
  5. Ê-sai 23:13 Câu này trong Hebrew không rõ nghĩa; ctd:
    Hãy nhìn vào xứ của dân Canh-đê,
    Dân ấy không còn nữa,
    Người A-sy-ri đã biến nó thành chỗ ở của thú rừng;
    Họ đã dựng các pháo đài; họ đã xây các cung điện,
    Nhưng chúng đã bị biến thành nơi đổ nát hoang tàn.
  6. Ê-sai 24:14 nt: từ hướng biển (Ðịa Trung Hải)

Phao-lô và Ti-mô-thê, tôi tớ của Chúa Cứu Thế Giê-xu,

Kính gởi các dân thánh của Thượng Đế thuộc về Chúa Cứu Thế Giê-xu tại thành Phi-líp cùng với các trưởng lão [a] và các phụ tá.

Nguyền xin ân phúc và bình an của Thượng Đế, Cha chúng ta và của Chúa Cứu Thế Giê-xu ở cùng anh chị em.

Lời cầu nguyện của Phao-lô

Mỗi khi nhớ đến anh chị em tôi đều cảm tạ Thượng Đế tôi, tôi luôn luôn vui mừng cầu nguyện cho tất cả anh chị em. Tôi cảm tạ Ngài vì sự giúp đỡ của anh chị em trong công tác rao giảng Tin Mừng từ đầu cho đến bây giờ. Tôi tin rằng Thượng Đế đã khởi sự làm việc lành trong vòng anh chị em sẽ tiếp tục việc ấy cho đến ngày Chúa Cứu Thế Giê-xu trở lại.

Tôi nghĩ rất đúng như thế về anh chị em vì lòng tôi lúc nào cũng nhớ đến anh chị em. Tất cả anh chị em đều đang dự phần ân phúc của Thượng Đế không những trong khi tôi đang ngồi tù mà cả khi tôi bênh vực và xác nhận chân lý của Tin Mừng nữa. Thượng Đế làm chứng rằng tôi ao ước gặp anh chị em trong tình yêu của Chúa Cứu Thế Giê-xu.

Tôi cầu nguyện cho tình yêu của anh chị em càng ngày càng gia tăng trong sự hiểu biết sâu đậm 10 để anh chị em có thể phân biệt được điều tốt đẹp nhất, và trở nên tinh sạch, toàn thiện vào ngày Chúa Cứu Thế trở lại; 11 và nhờ sự giúp đỡ của Chúa Cứu Thế anh chị em sẽ làm nhiều điều phước đức để đem tiếng khen và vinh hiển về cho Thượng Đế.

Những khó khăn mà Phao-lô gặp đã giúp đỡ công tác rao truyền Tin Mừng

12 Tôi muốn anh chị em biết những điều xảy đến cho tôi đã giúp đỡ cho công tác rao truyền Tin Mừng 13 vì tất cả các lính gác cung điện và mọi người khác đều biết rằng tôi bị tù là vì tôi theo Chúa Cứu Thế. 14 Hơn nữa, việc tôi ngồi tù khiến cho nhiều tín hữu thêm bạo dạn, không còn e sợ khi rao giảng lời Thượng Đế.

15 Đành rằng có một số người rao giảng vì đố kỵ nhưng cũng có người rao giảng Chúa Cứu Thế với lòng chân thành. 16 Những anh em nầy rao giảng vì họ có tình yêu và biết rằng Thượng Đế giao cho tôi công tác bênh vực Tin Mừng. 17 Còn những người kia rao giảng Chúa Cứu Thế vì những tham vọng ích kỷ, không chính đáng, nghĩ rằng sẽ gây thêm khổ sở cho tôi trong tù.

18 Nhưng đâu có sao. Dù bởi động lực nào đi nữa, chính đáng hay không chính đáng, điều quan trọng là Chúa Cứu Thế được rao giảng. Đó là điều tôi đang mừng, và sẽ còn mừng nữa. 19 Nhờ anh chị em cầu nguyện và Thánh Linh của Chúa Cứu Thế Giê-xu giúp đỡ nên tôi tin chắc tôi sẽ sớm được trả tự do [b]. 20 Tôi tin rằng tôi sẽ không thất vọng điều gì vì với sự can đảm của tôi, Chúa Cứu Thế sẽ được hiển vinh trong tôi dù tôi sống hay chết. 21 Đối với tôi, sống là vì Chúa Cứu Thế, còn chết là điều ích lợi [c]. 22 Nếu tôi còn sống trong thân xác thì tôi có thể vui hưởng kết quả của công tác mình làm. Thật ra tôi không biết chọn lựa điều nào. 23 Giữa hai cái thật khó cho tôi chọn. Tôi rất muốn lìa đời nầy để được đi ở cùng Chúa Cứu Thế thì tốt hơn, 24 nhưng tôi sống trong thân xác lại là điều cần cho anh chị em. 25 Vì tôi biết chắc điều ấy nên tôi sẽ tiếp tục sống để giúp đỡ anh chị em lớn mạnh trong đời thiêng liêng và càng vui hơn trong đức tin của anh chị em. 26 Anh chị em sẽ có lý do kiêu hãnh về tôi trong Chúa Cứu Thế khi tôi thăm viếng anh chị em.

27 Anh chị em hãy sống thế nào cho xứng đáng với Tin Mừng của Chúa Cứu Thế để dù cho tôi đến thăm hay ở xa anh chị em tôi cũng vui vì nghe rằng anh chị em đứng vững vàng trong Chúa Cứu Thế, theo đuổi cùng một mục tiêu, chung nhau chiến đấu cho đức tin trong Tin Mừng, 28 và rằng anh chị em không sợ những người chống đối mình. Đó là bằng chứng cho thấy kẻ chống đối anh chị em sẽ bị tiêu diệt còn anh chị em sẽ được Thượng Đế cứu. 29 Vì anh chị em được vinh dự là không những tin Chúa Cứu Thế mà thôi, lại còn chịu khổ vì Ngài nữa. 30 Anh chị em đã tham dự vào những cuộc thử nghiệm mà tôi đã trải qua, và bây giờ anh chị em cũng vẫn nghe về những cuộc thử nghiệm ấy.

Footnotes

  1. Phi-líp 1:1 trưởng lão Nguyên văn, “giám thị” hay “quản thủ.” Xin xem “trưởng lão” trong Bảng Giải Thích Từ Ngữ.
  2. Phi-líp 1:19 tự do Hay “sự cứu rỗi.”
  3. Phi-líp 1:21 chết … ích lợi Phao-lô nói rằng chết là điều ích lợi vì cái chết mang ông lại gần Chúa Cứu Thế hơn.

Lời Mở Ðầu

Phao-lô và Ti-mô-thê, các đầy tớ của Ðức Chúa Jesus Christ, kính gởi tất cả các thánh đồ trong Ðức Chúa Jesus Christ, cùng các vị giám mục, và các chấp sự ở Phi-líp. Nguyện xin ân sủng và bình an từ Ðức Chúa Trời, Cha chúng ta, và từ Ðức Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta, đến cùng anh chị em.

Cảm Tạ và Cầu Nguyện

Mỗi khi nhớ đến anh chị em, tôi cảm tạ Ðức Chúa Trời của tôi. Mỗi khi cầu nguyện cho tất cả anh chị em, tôi luôn luôn cầu nguyện với lòng vui mừng, vì anh chị em đã dự phần với tôi trong nỗ lực truyền bá Tin Mừng từ ngày đầu tiên cho đến bây giờ. Tôi có niềm tin quả quyết nầy, đó là Ðấng đã bắt đầu làm những việc tốt đẹp trong anh chị em sẽ tiếp tục công việc của Ngài cho đến khi hoàn tất trong ngày của Ðức Chúa Jesus Christ. Tôi nghĩ về tất cả anh chị em như vậy cũng đúng thôi, bởi vì anh chị em luôn ở trong lòng tôi. Dù khi tôi mang xiềng xích hay khi tôi biện hộ và chứng thực chân lý của Tin Mừng, tất cả anh chị em đều dự phần vào ân sủng với tôi. Vì Ðức Chúa Trời có thể làm chứng cho tôi rằng tôi thương nhớ anh chị em bằng tình yêu của Ðức Chúa Jesus Christ biết bao.

Ðiều tôi cầu nguyện là tình yêu của anh chị em mỗi ngày một gia tăng, để anh chị em có kiến thức sâu sắc và nhận xét chính xác, 10 giúp anh chị em có thể xác định điều nào là tốt nhất, hầu trong ngày của Ðấng Christ anh chị em được trong sạch và vẹn toàn, 11 đầy những trái của đức công chính đến từ Ðức Chúa Jesus Christ, đem vinh hiển và ca ngợi về Ðức Chúa Trời.

Ðạo Chúa Phát Triển giữa Nghịch Cảnh

12 Thưa anh chị em,[a] tôi muốn anh chị em biết rằng những gì xảy ra cho tôi đã giúp cho Tin Mừng thêm phát triển, 13 đến nỗi cả quân đoàn bảo vệ hoàng cung và mọi người khác đều biết rằng tôi vì Ðấng Christ mà mang xiềng xích, 14 và khi biết tôi bị xiềng xích, nhiều anh chị em tin Chúa càng mạnh mẽ hơn và càng dạn dĩ rao giảng lời Đức Chúa Trời[b] hơn, chẳng sợ hãi gì.

15 Thật ra một số người rao giảng Ðấng Christ vì ganh tị và cạnh tranh, nhưng một số khác rao giảng vì ý tốt. 16 Những người rao giảng vì ý tốt làm thế vì tình yêu, biết rằng tôi được bổ nhiệm để binh vực Tin Mừng; 17 còn những người rao giảng Ðấng Christ vì tham vọng cá nhân[c] thay vì động cơ trong sạch, thiết tưởng chỉ tạo thêm khổ cho tôi trong khi mang xiềng xích thôi. 18 Nhưng rồi sao? Ðàng nào cũng được, dù giả vờ hay thành thật, Ðấng Christ vẫn được rao giảng; và như thế là tôi vui rồi, phải, và tôi sẽ tiếp tục vui, 19 vì tôi biết rằng nhờ lời cầu nguyện của anh chị em và nhờ sự giúp đỡ của Ðức Thánh Linh của Ðức Chúa Jesus Christ, tôi sẽ sớm được giải thoát.[d]

20 Tôi thiết tha mong đợi và hy vọng rằng tôi sẽ không bị hổ thẹn vì bất cứ lý do gì, nhưng bây giờ hay lúc nào cũng thế, tôi nói cách dạn dĩ, để dù sống hay chết, Ðấng Christ vẫn được tôn cao trong thân xác tôi. 21 Vì đối với tôi, sống là Ðấng Christ, và chết là lợi. 22 Nhưng nếu tôi được tiếp tục sống trong thân xác, có nghĩa là tôi sẽ làm việc sao cho có kết quả, tôi thật không biết phải chọn điều nào. 23 Tôi đang bị giằng co giữa hai điều: một đàng, tôi muốn được ra đi để ở với Ðấng Christ, đó là điều tốt hơn cho tôi; 24 một đàng khác, tôi được tiếp tục ở lại trong thân xác nầy, đó là điều cần hơn cho anh chị em. 25 Vì có niềm tin quả quyết về điều thứ hai nầy, tôi biết rằng tôi sẽ còn ở lại và sẽ tiếp tục sống với tất cả anh chị em để giúp anh chị em tăng trưởng và vui vẻ trong đức tin. 26 Như thế, khi tôi trở lại thăm anh chị em, thì vì cớ tôi, anh chị em có thể hãnh diện nhiều hơn trong Ðức Chúa Jesus Christ.

Chiến Ðấu cho Ðức Tin

27 Tôi chỉ mong anh chị em sống xứng đáng với Tin Mừng của Ðấng Christ, để hoặc đến thăm anh chị em, hoặc vắng mặt, tôi có thể nghe tin về anh chị em rằng anh chị em đang đứng vững, cùng một tinh thần, cùng một chí hướng, chiến đấu bên nhau cho đức tin của Tin Mừng, 28 và không sợ những kẻ chống đối anh chị em bất cứ điều gì. Đây là dấu hiệu của sự hủy diệt sẽ đến với họ, còn anh chị em sẽ được cứu, và đó cũng là điều đến từ Ðức Chúa Trời, 29 vì Ðức Chúa Trời không những đã ban cho anh chị em đặc ân tin Ðấng Christ, nhưng cũng chịu khổ vì Ngài nữa, 30 tức tham dự cùng một cuộc chiến mà anh chị em đã thấy tôi đương đầu trước kia, và nay vẫn còn nghe tôi đang tiếp tục.

Footnotes

  1. Phi-líp 1:12 nt: anh em (tương tự cho cả sách)
  2. Phi-líp 1:14 Có bản ghi: rao giảng Đạo
  3. Phi-líp 1:17 ctd: cạnh tranh (eritheuo: làm thuê)
  4. Phi-líp 1:19 ctd: sớm được trả tự do, hay sớm ra khỏi tù