Add parallel Print Page Options

Sa-lô-môn Xây Cung Ðiện

Sa-lô-môn cũng xây cất cung điện cho ông. Ông hoàn tất công trình xây cất đó trong mười ba năm.

Ông xây Cung Ðiện Rừng Li-băng. Cung điện ấy dài năm mươi mét, rộng hai mươi lăm mét, và cao mười lăm mét.[a] Cung điện được xây trên bốn hàng cột gỗ bá hương; gỗ bá hương cũng được dùng làm đà đặt trên các hàng cột gỗ bá hương. Trần cung điện được lát bằng gỗ bá hương, do bốn mươi lăm cây đà nâng đỡ, mười lăm cây mỗi dãy, các đà ấy đều gác đầu trên cột. Có ba dãy cửa sổ, các cửa sổ đối diện nhau, và cứ mỗi ba cửa sổ thành một bộ. Gỗ của tất cả các cửa và khung cửa đều có bốn cạnh, đối diện với nhau, và cứ ba cửa thành một bộ.

Ông cũng xây một sảnh đường bằng cột, sảnh đường ấy dài hai mươi lăm mét, rộng mười lăm mét.[b] Phía trước sảnh đường là một vòm mặt tiền với một hàng cột và một mái hiên.

Ông cũng xây một triều cung để đặt ngai vàng, nơi ông xét đoán; đó là Cung Công Lý. Cung ấy được lát bằng gỗ bá hương từ sàn cho đến trần.

Còn cung thất, nơi ông ở, nằm phía sau triều cung, cũng có lối kiến trúc như thế. Sa-lô-môn cũng xây một cung tương tự cho con gái của Pha-ra-ôn mà ông đã cưới làm vợ.

Tất cả các cung điện ấy đều được xây bằng đá quý – các đá ấy được đục đẽo cắt xén theo kích thước đã định sẵn – cả phía trước lẫn phía sau, từ nền cho đến trần, từ bên ngoài cho đến đại sảnh. 10 Nền các cung điện làm bằng những phiến đá quý và lớn, mỗi phiến rộng bốn mét và dài năm mét.[c] 11 Xây trên nền là các phiến đá thượng hạng đã cắt sẵn theo kích thước, và gỗ bá hương. 12 Chung quanh đại sảnh là ba hàng đá và một hàng đà bằng gỗ bá hương, giống như nội điện của Ðền Thờ Chúa và tiền đình của Ðền Thờ.

Hi-ram Người Thợ Ðồng

13 Vua Sa-lô-môn sai người mời Hi-ram ở Ty-rơ về. 14 Ông là con một góa phụ thuộc chi tộc Náp-ta-li, cha ông là người Ty-rơ, một chuyên viên làm đồ đồng. Hi-ram là một người có tài khéo, kinh nghiệm, và có kiến thức về nghệ thuật và kỹ thuật làm đồ đồng. Ông đến với Vua Sa-lô-môn và làm mọi việc vua giao cho ông.

Trụ Ðồng của Ðền Thờ

(2 Sử 3:15-17)

15 Hi-ram đúc hai trụ đồng, mỗi trụ cao chín mét;[d] chu vi mỗi trụ là sáu mét[e] nếu lấy dây mà đo. 16 Ông cũng đúc hai đầu trụ bằng đồng để đặt trên đầu hai trụ. Chiều cao của đầu trụ nầy là hai mét rưỡi,[f] chiều cao của đầu trụ kia cũng hai mét rưỡi. 17 Ông cũng làm một lưới bằng đồng gắn trên đầu mỗi trụ; lưới ấy do các dây chuyền đồng kết lại; các dây chuyền ấy được đúc theo hình các đóa hoa. Có bảy dây chuyền cho đầu trụ nầy và bảy dây chuyền cho đầu trụ kia. 18 Hi-ram cũng đúc hai hàng trái lựu bằng đồng, gắn bên ngoài lưới bằng đồng, ở trên đầu trụ, để tô điểm cho đầu trụ được đẹp đẽ. Ông làm như vậy cho mỗi đầu trụ. 19 Các đầu trụ đặt trên các trụ dựng nơi tiền đình đều được đúc theo hình hoa huệ; các hình ấy cao hai mét.[g] 20 Ở ngoài mặt, trên chóp mỗi đầu trụ, gần lưới đồng, ông cho đúc một hàng hai trăm trái lựu, gắn quanh đầu trụ. 21 Ðoạn ông dựng hai trụ ấy nơi tiền đình của Ðền Thờ. Ông dựng một trụ bên phải và đặt tên là Gia-kin;[h] ông dựng một trụ bên trái và đặt tên là Bô-a.[i] 22 Mỗi đầu trụ đặt trên chóp trụ đều có hình hoa huệ. Vậy công việc làm hai trụ đồng được hoàn tất.

Bể Nước Bằng Ðồng

(2 Sử 4:2-5)

23 Hi-ram cũng đúc một bể nước tròn, bằng đồng, đường kính của miệng bể là năm mét; bể nước nầy cao hai mét rưỡi, với chu vi mười lăm mét[j] nếu lấy dây mà đo. 24 Ông cũng cho đúc hai hàng hình trái bầu quanh miệng bể, cứ nửa mét[k] mười trái. Ông cho đúc như thế cùng một lượt khi đúc bể. 25 Bể nước bằng đồng nầy được đặt trên lưng mười hai con bò đúc, đứng quay đuôi vào nhau. Ba con quay mặt về hướng bắc, ba con quay mặt về hướng tây, ba con quay mặt về hướng nam, và ba con quay mặt về hướng đông. 26 Thành bể dày bằng bề ngang của bàn tay, và miệng bể giống như miệng chén hình hoa huệ. Bể ấy chứa được bốn mươi bốn ngàn lít nước.[l]

Xe Ðồng và Bồn Nước

27 Hi-ram cũng làm mười chiếc xe bằng đồng, mỗi xe có chiều ngang hai mét, chiều dọc hai mét, và chiều cao một mét rưỡi.[m] 28 Kiểu của mỗi xe như sau: mỗi xe đều có các tấm đồng gắn vào khung. 29 Trên mỗi tấm đồng gắn vào khung có chạm hình các sư tử, các bò đực, và các chê-ru-bim. Phía trên và phía dưới các hình của các sư tử và các bò đực được chạm hình các dây hoa. 30 Mỗi xe có bốn bánh bằng đồng và các trục bằng đồng. Ở bốn góc xe lại có bốn cái trụ để chịu sức nặng của sàn xe. Bốn trụ ấy được đúc liền với khung xe và ngoài mặt các trụ ấy có chạm hình các dây hoa. 31 Trên mặt sàn xe là một khung tròn để làm đế cho bồn nước, khung nầy cao hơn mặt sàn xe nửa mét và lõm xuống bảy tấc rưỡi.[n] Mặt của thành khung được chạm khắc mỹ thuật. Mặt ấy được làm bằng những tấm đồng vuông, chứ không tròn. 32 Dưới các tấm đồng của thân xe là bốn bánh và các trục bánh xe. Mỗi bánh xe cao bảy tấc rưỡi.[o] 33 Các bánh xe ấy cũng được làm giống như các bánh xe của xe chiến mã. Cây trục, vành, căm, và bộ trục đều được đúc. 34 Ở bốn góc xe, dưới bốn trụ là bốn cái đế được đúc liền với xe. 35 Trên mặt sàn xe cũng có một niền tròn, cao hai tấc rưỡi.[p] Thành của niền và chân của nó được đúc liền với sàn xe. 36 Trên các mặt vuông của khung tròn và trên mặt các tấm đồng ở thân xe ông chạm hình các chê-ru-bim, các sư tử, và các cây chà là. Nơi nào còn trống, ông chạm các dây hoa vòng quanh nơi đó.

37 Ông làm mười chiếc xe như thế. Tất cả đều được đúc cùng một khuôn, một kích thước, và một kiểu.

38 Sau đó ông làm mười bồn nước bằng đồng; mỗi bồn chứa được tám trăm tám mươi lít.[q] Mỗi bồn như thế cao hai mét.[r] Rồi ông cho đặt chúng trên mười chiếc xe ấy; mỗi xe một bồn nước.

39 Ông đặt năm xe ở phía nam của Ðền Thờ và năm xe ở phía bắc của Ðền Thờ. Ông cũng cho đặt bể nước bằng đồng ở góc đông nam của Ðền Thờ.

Vật Dụng trong Ðền Thờ

(2 Sử 4:11-5:1)

40 Hi-ram cũng làm các nồi, vá, và chậu. Vậy Hi-ram hoàn tất mọi công tác Vua Sa-lô-môn giao ông làm cho nhà Chúa, gồm: 41 hai trụ đồng, hai đầu trụ đặt trên hai trụ đồng, các lưới bằng đồng gắn trên các đầu trụ, 42 bốn trăm trái lựu bằng đồng, gắn thành hai hàng, mỗi hàng một trăm trái, quanh mỗi đầu trụ, 43 mười chiếc xe, mười bồn nước để trên các xe, 44 một bể nước, và mười hai con bò đỡ bên dưới bể nước, 45 các nồi, vá, và chậu.

Tất cả các vật ấy Hi-ram làm cho nhà Chúa do Vua Sa-lô-môn giao phó đều được làm bằng đồng đánh bóng. 46 Vua cho làm những vật ấy tại một nơi có nhiều đất sét trong đồng bằng Giô-đanh, giữa Su-cốt và Xa-rê-than. 47 Sa-lô-môn không cho cân các khí dụng ấy, vì chúng quá nhiều, và số lượng đồng không thể tính nổi.

48 Sa-lô-môn cũng làm các vật dụng cho nhà Chúa gồm: bàn thờ dâng hương bằng vàng, bàn dâng Bánh Hằng Hiến bằng vàng, 49 các cây đèn bằng vàng ròng, năm cái bên phải và năm cái bên trái,[s] đặt phía trước Nơi Chí Thánh. Vua cũng cho làm các hoa, các đèn, và các kẹp gắp đều bằng vàng. 50 Các chén, các kéo cắt tim đèn, các chậu, các khay đựng tro, và các khay đựng than đều bằng vàng ròng. Các bộ bản lề các cửa vào bên trong của Ðền Thờ, tức vào Nơi Chí Thánh, và các cửa của Nơi Thánh đều làm bằng vàng cả.

51 Vậy Vua Sa-lô-môn hoàn tất mọi công trình ông muốn làm cho nhà Chúa. Sa-lô-môn đem vào Ðền Thờ những vật mà Ða-vít cha ông đã dâng hiến, gồm bạc, vàng, và các vật dụng. Ông để các vật ấy trong các kho của nhà Chúa.

Footnotes

  1. I Các Vua 7:2 dài 100 cubits, rộng 50 cubits, cao 30 cubits
  2. I Các Vua 7:6 nt: dài 50 cubits, rộng 30 cubits
  3. I Các Vua 7:10 nt: rộng 8 cubits, dài 10 cubits
  4. I Các Vua 7:15 nt: 18 cubits
  5. I Các Vua 7:15 nt: 12 cubits
  6. I Các Vua 7:16 nt: 5 cubits và 5 cubits
  7. I Các Vua 7:19 nt: 4 cubits
  8. I Các Vua 7:21 Gia-kin nghĩa là Chúa lập cho vững chắc
  9. I Các Vua 7:21 Bô-a nghĩa là Chúa là sức mạnh
  10. I Các Vua 7:23 nt: đường kính 10 cubits, cao 5 cubits, và chu vi 30 cubits
  11. I Các Vua 7:24 nt: 1 cubit
  12. I Các Vua 7:26 nt: 2000 baths (2 Sử 4: 5 ghi 3000 baths)
  13. I Các Vua 7:27 nt: ngang 4 cubits, dọc 4 cubits, cao 3 cubits
  14. I Các Vua 7:31 nt: 1 cubit và 1,5 cubit
  15. I Các Vua 7:32 nt: 1,5 cubit
  16. I Các Vua 7:35 nt: nửa cubit
  17. I Các Vua 7:38 nt: 40 baths
  18. I Các Vua 7:38 nt: 4 cubits
  19. I Các Vua 7:49 ctd: năm cái phía nam và năm cái phía bắc

Các Vật Dụng trong Ðền Thờ

Ông làm một bàn thờ bằng đồng, chiều dọc mười mét, chiều ngang mười mét, và chiều cao năm mét.[a]

Ông đúc một bể nước tròn bằng đồng, đường kính của miệng bể năm mét, bể cao hai mét rưỡi, chu vi mười lăm mét[b] nếu đo bằng thước dây. Bên dưới gờ quanh miệng bể là hai hàng hình các con bò đúc nổi trên thân bể. Chúng được đúc cùng một lượt với bể, cứ khoảng nửa mét mười con. Bể được đặt trên lưng mười hai con bò. Ba con quay về hướng bắc, ba con quay về hướng tây, ba con quay về hướng nam, và ba con quay về hướng đông. Bể đồng ấy được đặt trên lưng mười hai con bò đúc, thân sau của chúng đều quay vào trong. Thành bể dày bằng bề ngang của bàn tay. Miệng bể được đúc như miệng chén hình hoa huệ. Bể ấy có thể chứa đến sáu mươi sáu ngàn lít[c] nước.

Ông cũng làm mười cái bồn nước để rửa. Ông đặt năm cái bên phải và năm cái bên trái. Người ta dùng các bồn nước ấy để rửa các của lễ sẽ đem thiêu. Còn cái bể đồng thì chỉ để cho các tư tế dùng.

Ông làm mười cây đèn bằng vàng như đã chỉ bảo, rồi đặt chúng trong Ðền Thờ, năm cái ở phía nam và năm cái ở phía bắc.

Ông làm mười cái bàn và đặt chúng trong Ðền Thờ, năm cái bên phải và năm cái bên trái. Ông làm một trăm cái chậu bằng vàng.

Ông xây một sân dành cho các tư tế, và một sân lớn, cùng làm các cửa cho sân. Ông dát đồng các cửa ấy. 10 Ông đặt bể nước ở góc đông nam của Ðền Thờ.

11 Hu-ram làm các nồi, các xẻng, và các bình rảy. Vậy Hu-ram hoàn tất công tác chế tạo các vật dụng cho Ðền Thờ Ðức Chúa Trời theo như Vua Sa-lô-môn đã chỉ thị: 12 hai cây trụ, hai bầu trên đầu hai trụ, hai bộ lưới trang trí quanh bầu trên đầu hai trụ, 13 bốn trăm trái lựu gắn vào hai bộ lưới. Mỗi bộ lưới được gắn hai hàng trái lựu, để trang trí hai bầu trên đầu hai trụ. 14 Ông làm mười chiếc xe và các bồn nước đặt trên các xe ấy, 15 một cái bể và mười hai con bò đỡ bên dưới bể ấy, 16 các nồi, các xẻng, các chĩa thịt, và các dụng cụ liên hệ. Hu-ram A-bi chế tạo tất cả các vật dụng đó cho Ðền Thờ bằng đồng đánh bóng, theo như chỉ thị của Sa-lô-môn. 17 Vua cho dùng đất sét làm khuôn để đúc chúng trong Ðồng Bằng Giô-đanh, giữa Súc-cốt và Xê-rê-đa. 18 Vua Sa-lô-môn cho làm rất nhiều các món ấy, và số lượng đồng dùng để chế tạo chúng rất nhiều, không sao cân xuể. 19 Sa-lô-môn làm tất cả các đồ vật trong Ðền Thờ Ðức Chúa Trời: bàn thờ bằng vàng, các bàn để các Bánh Hằng Hiến, 20 các cây đèn và các ngọn đèn đều bằng vàng ròng, để thắp sáng phía trước Nơi Chí Thánh như đã quy định. 21 Các hoa, các đèn, và các kẹp gắp đều bằng vàng ròng; 22 các kéo cắt tim đèn, các chậu, các bát dâng hương, và các khay than đều bằng vàng ròng. Về các lối ra vô trong Ðền Thờ, tức các cửa bên trong để ra vào Nơi Chí Thánh và các cửa ra vào Nơi Thánh đều được dát vàng.

Footnotes

  1. II Sử Ký 4:1 nt: dọc 20 cubits, ngang 20 cubits, và cao 10 cubits
  2. II Sử Ký 4:2 nt: đường kính 10 cubits, cao 5 cubits, chu vi 30 cubits
  3. II Sử Ký 4:5 nt: 3.000 baths (1 Vua 7:26 ghi 2.000 baths)

So Sánh Sự Thi Hành Chức Vụ Thượng Tế Dưới Ðất và Chức Vụ Thượng Tế Trên Trời

Vậy giao ước thứ nhất cũng có những quy luật thờ phượng và một đền thánh trên đất. Vì trong Ðền Tạm, phòng thứ nhất ở phía trước được gọi là Nơi Thánh, nơi ấy được thiết trí với cây đèn, bàn, và bánh thánh. Phía sau bức màn là một phòng thứ hai được gọi là Nơi Chí Thánh, trong đó có bàn thờ dâng hương bằng vàng và Rương Giao Ước được bọc vàng mọi phía, trong rương có một bình bằng vàng đựng man-na, cây gậy trổ hoa của A-rôn, và các bảng giao ước. Trên nắp rương là các chê-ru-bim oai nghiêm rực rỡ, dang cánh che phủ nắp thi ân. Về những điều ấy thì không cần phải nói từng chi tiết lúc này.

Các vật đó được sắp đặt như thế để các tư tế thường xuyên đi vào phòng thứ nhất của Ðền Tạm hầu cử hành các nghi lễ phụng vụ. Nhưng phòng thứ nhì thì chỉ vị thượng tế mới được vào mỗi năm một lần, và phải luôn đem theo huyết, để dâng lên, chuộc những tội lỗi của ông và của toàn dân đã vô tình phạm.

Ðức Thánh Linh dùng điều đó để cho chúng ta biết rằng ngày nào phòng thứ nhất của Ðền Tạm vẫn còn thì đường vào Nơi Chí Thánh vẫn chưa mở. Ðó là hình bóng của thời hiện tại, thời các lễ vật và các thú vật hiến tế được dâng hiến không thể làm cho lương tâm người thờ phượng được thánh sạch vẹn toàn. 10 Những điều ấy chỉ liên quan đến thức ăn, thức uống, các hình thức tẩy rửa, những luật lệ cho xác thịt được áp đặt cho đến khi có một trật tự mới.

11 Nhưng Ðấng Christ đã đến để làm Vị Thượng Tế của những điều tốt đẹp hơn sắp đến. Ngài đi vào một Ðền Tạm vĩ đại hơn và toàn hảo hơn, không bởi tay loài người dựng nên, tức là không thuộc về thế giới thọ tạo này. 12 Ngài không nhờ huyết của dê đực và bò đực, nhưng dùng chính huyết Ngài, để vào Nơi Chí Thánh một lần đủ cả, mà thực hiện sự cứu chuộc đời đời. 13 Vì nếu huyết của dê đực và bò đực, cùng tro của bò cái tơ rảy trên những người bị ô uế có thể thánh hóa họ, làm phần xác của họ được tinh sạch, 14 thì huyết của Ðấng Christ, Ðấng nhờ Ðức Thánh Linh đời đời dâng chính Ngài làm con vật hiến tế không tì vết lên Ðức Chúa Trời, tẩy sạch những việc chết khỏi lương tâm chúng ta để chúng ta phục vụ Ðức Chúa Trời hằng sống, có hiệu lực hơn biết dường nào!

Ðấng Christ Lập Giao Ước Mới Bằng Chính Huyết Ngài

15 Vì lý do đó Ngài là Ðấng Trung Gian của giao ước mới, để những người được gọi có thể nhận lãnh cơ nghiệp đời đời đã hứa, vì cái chết đã xảy ra để cứu chuộc những người phạm tội dưới giao ước thứ nhất.

16 Nơi nào có chúc thư thì người lập chúc thư cần phải được xác nhận rằng đã qua đời, 17 vì chúc thư chỉ có hiệu lực khi người lập chúc thư đã qua đời, vì chúc thư không bao giờ được đem ra thi hành khi người lập chúc thư vẫn còn sống. 18 Vì vậy ngay cả giao ước thứ nhất cũng không có hiệu lực nếu không có huyết. 19 Sau khi Môi-se công bố mọi điều răn trong Luật Pháp cho toàn dân, ông đã lấy huyết của bò đực và dê đực, với nước, dây nhung đỏ, và nhánh cây bài hương rảy trên cuộn sách và trên toàn dân, 20 rồi nói rằng,

“Ðây là huyết của giao ước mà Ðức Chúa Trời đã truyền cho anh chị em.”Xuất 24:8

21 Tương tự ông cũng rảy huyết trên Lều Tạm và trên mọi khí dụng được dùng trong việc thờ phượng. 22 Thật vậy theo Luật Pháp hầu hết mọi vật phải nhờ huyết để được tinh sạch, và không có đổ huyết thì không có sự tha thứ.

23 Vậy nếu những gì mô phỏng của những cái có thật trên trời mà còn phải được thanh tẩy như thế, thì chính những cái có thật trên trời càng phải được thanh tẩy bằng các thú vật hiến tế cao quý hơn biết bao.

Read full chapter

22 Tôi không thấy đền thờ trong thành, vì Chúa, Ðức Chúa Trời Toàn Năng, và Chiên Con là đền thờ của thành. 23 Thành không cần mặt trời hay mặt trăng soi sáng, vì vinh quang của Ðức Chúa Trời tỏa sáng cho thành và Chiên Con là đèn của thành. 24 Muôn dân sẽ bước đi trong ánh sáng của thành, và các vua trên đất sẽ đem vinh hiển của mình vào đó. 25 Ban ngày các cổng thành không bao giờ đóng lại, và nơi đó không có ban đêm. 26 Muôn dân sẽ đem vinh hiển và tôn quý của dân tộc mình vào đó. 27 Không ai ô uế hoặc làm những việc ghê tởm hoặc gian dối có thể vào trong thành, nhưng chỉ những ai có tên được ghi trong sách sự sống của Chiên Con mà thôi.

Sông Nước Sự Sống

22 Bấy giờ vị thiên sứ ấy chỉ cho tôi một sông nước sự sống; dòng sông trong suốt như pha lê, chảy ra từ ngai của Ðức Chúa Trời và của Chiên Con. Giữa quảng trường của thành, nơi tẻ ra của hai nhánh sông,[a] có cây sự sống sinh trái mười hai đợt, mỗi tháng một đợt, và lá của cây ấy được dùng để chữa lành các dân.

Trong thành sẽ không có bất cứ lời nguyền rủa nào. Ngai của Ðức Chúa Trời và ngai của Chiên Con sẽ ở trong đó, và các tôi tớ Ngài sẽ phụng sự Ngài. Họ sẽ nhìn thấy mặt Ngài, và danh Ngài sẽ ở trên trán họ. Ðêm sẽ không còn nữa; họ sẽ không cần ánh sáng đèn hay ánh sáng mặt trời, vì Chúa, Ðức Chúa Trời, sẽ tỏa sáng trên họ; và họ sẽ trị vì đời đời vô cùng.

Footnotes

  1. Khải Huyền 22:2 nt: ở bên này và bên kia của bờ sông

Rước Rương Giao Ước vào Ðền Thờ

(2 Sử 5:2-6:2)

Bấy giờ Sa-lô-môn triệu tập các trưởng lão của I-sơ-ra-ên, tất cả các vị trưởng chi tộc và các trưởng gia tộc trong I-sơ-ra-ên lại trước mặt vua ở Giê-ru-sa-lem, để rước Rương Giao Ước của Chúa từ Thành Ða-vít ở Si-ôn đến Ðền Thờ. Vào tháng Ê-tha-nim, tức tháng bảy, toàn dân I-sơ-ra-ên tụ họp quanh Vua Sa-lô-môn để dự lễ. Khi tất cả các trưởng lão đến, các tư tế khiêng Rương ra đi. Vậy các tư tế và những người Lê-vi khiêng Rương của Chúa, Ðền Tạm tức Lều Hội Kiến, và tất cả các vật dụng thánh trong Ðền Tạm đem đi.

Vua Sa-lô-môn và toàn thể hội chúng I-sơ-ra-ên, tức những người đã tụ họp trước mặt vua, hiệp với ông đến trước Rương. Họ dâng hiến chiên và bò nhiều vô kể, nhiều đến nỗi không thể đếm được. Kế đó các tư tế thỉnh Rương Giao Ước của Chúa, đặt vào vị trí ở phòng trong cùng của Ðền Thờ, tức Nơi Chí Thánh, dưới các cánh chê-ru-bim. Các chê-ru-bim dang cánh ra trên Rương; các chê-ru-bim che trên Rương và các đòn khiêng. Các đòn khiêng ấy khá dài đến nỗi lòi các đầu ra, khiến ai đứng ở trước Nơi Chí Thánh đều có thể trông thấy, nhưng ai đứng ở ngoài thì không thấy được. Các đòn khiêng ấy vẫn còn ở đó cho đến ngày nay. Trong Rương không có gì ngoài hai bảng đá mà Môi-se đã đặt vào đó khi còn ở Hô-rếp, nơi Chúa đã lập giao ước với dân I-sơ-ra-ên, khi họ vừa mới ra khỏi Ai-cập.

10 Khi các tư tế vừa ra khỏi Nơi Thánh, mây mù kéo đến bao phủ Ðền Thờ CHÚA 11 đến nỗi các tư tế không thể đứng để tiếp tục thi hành công tác vì bị mây mù bao phủ, bởi vinh quang của Chúa tràn ngập cả Ðền Thờ Chúa.

Read full chapter

22 Ta sẽ gặp ngươi tại đó. Từ trên Nắp Thi Ân, tức từ giữa hai chê-ru-bim ở trên Rương Giao Ước, Ta sẽ truyền cho ngươi mọi mạng lịnh cho dân I-sơ-ra-ên.

Read full chapter

21 Bà đặt tên cho đứa trẻ là I-ca-bốt[a] và nói, “Vinh hiển đã lìa khỏi I-sơ-ra-ên!” vì Rương của Ðức Chúa Trời đã bị đoạt mất và vì cha chồng và chồng của bà đều đã chết. 22 Bà nói tiếp, “Vinh hiển đã lìa khỏi I-sơ-ra-ên, vì Rương của Ðức Chúa Trời đã bị cướp mất.”

Read full chapter

Footnotes

  1. I Sa-mu-ên 4:21 I-ca-bốt nghĩa là “không còn vinh hiển nữa”

Rương Giao Ước Ðược Trả Về

Ðến lúc ấy Rương Giao Ước của Chúa đã ở trong xứ Phi-li-tin được bảy tháng. Dân Phi-li-tin gọi các tế sư và các bốc sư của họ đến để tham vấn, “Chúng tôi phải làm gì với Rương Giao Ước của Chúa? Xin chỉ chúng tôi cách nào để gởi trả Rương ấy về chỗ cũ.”

Vậy họ bảo, “Nếu anh em muốn gởi trả Rương của Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên về, anh em chớ gởi Rương ấy về không, nhưng bằng mọi cách, anh em phải gởi kèm theo một của lễ chuộc lỗi. Bấy giờ anh em mới được chữa lành, và anh em sẽ biết tại sao tay Ngài đã đè nặng trên anh em.”

Họ hỏi, “Thế chúng tôi phải lấy gì làm của lễ chuộc lỗi để gởi về cho Ngài?”

Họ đáp, “Năm cục bướu bằng vàng và năm con chuột bằng vàng, theo số các lãnh chúa của dân Phi-li-tin, vì bịnh dịch đó đã hoành hành trên tất cả anh em và trên các lãnh chúa của anh em. Vì thế anh em phải làm tượng của các cục bướu và tượng của các con chuột đã gieo tai ương trong khắp xứ. Anh em cũng phải tôn vinh Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên; may ra Ngài sẽ nhẹ tay với anh em, với các thần của anh em, và với xứ sở của anh em. Tại sao anh em lại cứng lòng như người Ai-cập và Pha-ra-ôn đã cứng lòng ngày xưa? Khi Ngài thực hiện những việc quyền năng giữa những người ấy, há chẳng phải cuối cùng họ cũng phải chấp nhận để cho dân Ngài ra đi hay sao? Vậy bây giờ hãy đóng một cỗ xe mới, bắt hai con bò cái mới sinh con và chưa hề mang ách, thắng hai con bò ấy vào cỗ xe, rồi tách con của chúng ra. Ðoạn lấy Rương của Chúa đem đặt trên xe, rồi để các vật bằng vàng làm của lễ chuộc lỗi vào một cái hộp ở bên cạnh, xong hãy để đôi bò ấy kéo cỗ xe ra đi. Anh em hãy theo dõi. Nếu xe ấy cứ thẳng đường mà đi về lãnh thổ của Rương, tức đi về hướng Bết Sê-mếch, thì đó có nghĩa là Ngài đã giáng họa lớn trên chúng ta. Còn không, chúng ta sẽ biết rằng không phải tay Ngài đã đánh chúng ta đâu, bèn là sự trùng hợp thôi.”

10 Vậy họ cho làm như thế. Họ bắt hai con bò cái có con còn bú, thắng chúng vào cỗ xe, bắt các con nhỏ của chúng nhốt lại trong chuồng. 11 Sau đó họ đặt Rương của Chúa lên xe, cùng với hộp đựng các con chuột bằng vàng và các tượng cục bướu. 12 Ðoạn họ để đôi bò cái đó kéo xe đi. Hai con bò ấy cứ thẳng đường về hướng Bết Sê-mếch mà đi tới. Chúng cứ theo một đường đó mà vừa đi vừa rống, không quay qua bên phải hoặc bên trái. Các lãnh chúa của dân Phi-li-tin đi theo phía sau xe cho đến biên giới Bết Sê-mếch.

13 Lúc ấy dân Bết Sê-mếch đang gặt lúa mì trong thung lũng. Khi họ ngước mắt lên và thấy Rương Thánh đang tiến tới, họ vô cùng mừng rỡ. 14 Khi cỗ xe đến cánh đồng của Giô-sua người Bết Sê-mếch, nó dừng lại bên một tảng đá lớn trong cánh đồng đó. Họ bèn chẻ cỗ xe ra làm củi và bắt hai con bò cái làm của lễ thiêu dâng lên Chúa. 15 Người Lê-vi đem Rương của Chúa xuống, cùng với chiếc hộp được gởi kèm theo –trong hộp đó có các vật bằng vàng– rồi để tất cả trên một tảng đá lớn tại đó. Ngày hôm ấy dân Bết Sê-mếch dâng các của lễ thiêu và các con vật hiến tế lên Chúa. 16 Ngày hôm đó năm lãnh chúa của dân Phi-li-tin đều chứng kiến mọi việc ấy, rồi họ trở về Éc-rôn.

17 Ðây là các cục bướu bằng vàng mà dân Phi-li-tin đã gởi làm của lễ chuộc lỗi dâng lên Chúa: một cho Ách-đốt, một cho Ga-xa, một cho Ách-kê-lôn, một cho Gát, và một cho Éc-rôn, 18 và năm con chuột bằng vàng theo số lượng các thành của dân Phi-li-tin do năm lãnh chúa cai trị, kể cả các đồn lũy kiên cố và các làng mạc ở thôn quê. Tảng đá lớn, nơi người ta khiêng Rương của Chúa xuống để bên cạnh, trong cánh đồng của Giô-sua người Bết Sê-mếch, vẫn còn đó cho đến ngày nay.

19 Bấy giờ Ngài đánh phạt dân Bết Sê-mếch, vì họ đã ngắm nhìn Rương của Chúa. Ngài đánh chết bảy mươi người[a] trong dân. Dân chúng thọ tang than khóc, vì Chúa đã đánh họ một trận đòn rất nặng.

Rương Thánh Ðược Ðể tại Ki-ri-át Giê-a-rim

20 Dân ở Bết Sê-mếch nói, “Ai có thể đứng nổi trước mặt Chúa Ðức Chúa Trời[b] thánh khiết nầy? Ngài sẽ rời chúng ta và đến ở với ai đây?” 21 Họ phái các sứ giả đến với dân ở Ki-ri-át Giê-a-rim và nói, “Dân Phi-li-tin đã mang trả cho chúng ta Rương của Chúa. Xin anh chị em xuống lấy và rước về trên đó với anh chị em.”

Footnotes

  1. I Sa-mu-ên 6:19 nt: Không rõ nghĩa trong Hebrew. Có bản ghi là 50.070 người bị đánh chết. Có bản lại ghi 70 người và 50 con bò của một người.
  2. I Sa-mu-ên 6:20 nt: Yahweh Elohim

29 Cha Ta, Ðấng vĩ đại hơn tất cả, đã ban những chiên ấy cho Ta. Không ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha.

Read full chapter

16 Ðền thờ của Ðức Chúa Trời có thỏa hiệp gì với các thần tượng chăng? Vì chúng ta là đền thờ của Ðức Chúa Trời hằng sống, như Ðức Chúa Trời đã phán,

“Ta sẽ ở giữa họ và đi lại giữa họ,
Ta sẽ là Ðức Chúa Trời của họ,
Và họ sẽ làm dân Ta.Lê 26:12; Xuất 29:45; Êxê 37:27; Giê 31:1

Read full chapter

11 đến nỗi các tư tế không thể đứng để tiếp tục thi hành công tác vì bị mây mù bao phủ, bởi vinh quang của Chúa tràn ngập cả Ðền Thờ Chúa.

12 Bấy giờ Sa-lô-môn nói, “Chúa đã phán, ‘Ngài ngự giữa mây đen,’ 13 và con rất được vinh dự xây cho Ngài một Ðền Thờ nguy nga tráng lệ để làm một nơi Ngài ngự đời đời.”

Sa-lô-môn Hiệu Triệu Dân

(2 Sử 6:3-11)

14 Kế đó vua quay lại và chúc phước cho hội chúng I-sơ-ra-ên, trong khi cả hội chúng I-sơ-ra-ên đang đứng. 15 Ông nói, “Chúc tụng Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, Ðấng đã dùng tay Ngài làm trọn mọi điều miệng Ngài đã hứa với Ða-vít cha tôi rằng, 16 ‘Từ ngày Ta đem dân I-sơ-ra-ên Ta ra khỏi Ai-cập, Ta đã không chọn thành nào của bất cứ chi tộc nào trong I-sơ-ra-ên để xây một Ðền Thờ, hầu danh Ta có thể ngự tại đó,[a] nhưng Ta đã chọn Ða-vít để lãnh đạo dân I-sơ-ra-ên Ta.’

17 Lúc ấy Ða-vít cha tôi đã có ý định xây một Ðền Thờ cho danh Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, 18 nhưng Chúa đã phán với Ða-vít cha tôi rằng, ‘Ngươi quả có ý tốt khi lòng ngươi muốn xây một Ðền Thờ cho danh Ta. 19 Tuy nhiên ngươi sẽ không xây Ðền Thờ ấy cho Ta, nhưng con trai ngươi, kẻ do ngươi sinh ra, sẽ xây Ðền Thờ ấy cho danh Ta.’

20 Chúa đã làm thành những lời Ngài đã phán. Tôi đã được nhấc lên thế vào chỗ của Ða-vít cha tôi, và được ngồi trên ngai của I-sơ-ra-ên như Chúa đã phán; và tôi cũng đã xây một Ðền Thờ cho danh Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên. 21 Ðây nầy, tôi đã làm một chỗ để đặt Rương Giao Ước, trong đó có đựng giao ước của Chúa, mà Ngài đã lập với tổ tiên chúng ta, khi Ngài đem họ ra khỏi xứ Ai-cập.”

Read full chapter

Footnotes

  1. I Các Vua 8:16 Xin xem phần bổ túc của câu nầy trong 2 Sử 6:5b-6a

15 Ðoạn Môi-se đi lên núi, và mây bao phủ núi. 16 Vinh quang của Chúa ngự trên Núi Si-nai. Mây bao phủ núi liên tiếp sáu ngày; đến ngày thứ bảy, Ngài từ trong đám mây gọi Môi-se. 17 Bấy giờ vinh quang Chúa hiện ra trên đỉnh núi giống như lửa cháy phừng phừng trước mắt dân I-sơ-ra-ên. 18 Môi-se đi vào trong đám mây và lên trên núi. Môi-se ở trên núi bốn mươi ngày và bốn mươi đêm.

Read full chapter

Lều Hội Kiến

Môi-se lấy một cái lều đem dựng bên ngoài doanh trại, cách doanh trại một khoảng xa xa, và gọi đó là Lều Hội Kiến. Nếu ai muốn thỉnh ý Chúa, người ấy phải ra ngoài doanh trại và đến Lều Hội Kiến được dựng bên ngoài doanh trại ấy. Mỗi khi Môi-se đi ra để đến Lều ấy, toàn dân đứng dậy. Ai nấy đứng nơi cửa lều mình và nhìn theo Môi-se cho đến khi ông vào trong Lều thánh. Khi Môi-se đã vào trong Lều, trụ mây hạ xuống, đứng ở cửa Lều, và Chúa nói chuyện với Môi-se. 10 Khi dân thấy trụ mây đứng ở cửa Lều, mọi người đứng dậy, rồi sấp mình xuống thờ lạy nơi cửa lều mình. 11 Ðó là cách Chúa nói chuyện với Môi-se, mặt đối mặt, như hai người bạn nói chuyện với nhau. Sau đó ông trở về doanh trại, nhưng người phụ tá trẻ tuổi của ông, Giô-suê con của Nun, thì không rời Lều ấy.

Read full chapter