Add parallel Print Page Options

Tên tuổi của tất cả dân Ít-ra-en đều được ghi trong gia phổ của mỗi gia đình, và tất cả gia phổ đều được ghi trong lịch sử các vua Ít-ra-en.

Dân cư Giê-ru-sa-lem

Dân Giu-đa bị bắt và đày sang Ba-by-lôn vì họ không trung thành cùng Thượng Đế. Những người đầu tiên hồi hương và cư ngụ trong đất và thị trấn mình là một số người Ít-ra-en, các thầy tế lễ, người Lê-vi, và các đầy tớ phục vụ trong đền thờ.

Những người từ chi tộc Giu-đa, Bên-gia-min, Ép-ra-im, và Ma-na-xe cư ngụ ở Giê-ru-sa-lem. Sau đây là danh sách những người ấy.

Có U-thai con Am-mi-hút. Am-mi-hút là con trai Ôm-ri. Ôm-ri con Im-ri. Im-ri con Ba-ni. Ba-ni là một trong các con cháu của Phê-rê. Phê-rê con Giu-đa.

Trong số những người Si-lô-nít có A-sai-gia và các con trai ông. A-sa-gia là con trưởng nam trong gia đình.

Trong dân Xê-ra-hít có Giê-u-ên và các thân nhân khác của Xê-ra. Tổng cộng sáu trăm chín mươi người tất cả.

Trong chi tộc Bên-gia-min có Xa-lu con Mê-su-lam. Mê-su-lam con Hô-đa-via, Hô-đa-via con Hát-sê-nua. Cũng có Íp-nê-a, con Giê-hô-ram và Ê-la, con U-xi. U-xi là con Mích-ri. Có Mê-su-lam con Sê-pha-tia. Sê-pha-tia con Ru-ên, và Ru-ên là con Íp-ni-gia. Gia phổ của Bên-gia-min ghi chín trăm năm mươi sáu người cư ngụ ở Giê-ru-sa-lem. Tất cả đều là trưởng gia đình.

10 Trong số các thầy tế lễ có Giê-đi-gia, Giê-hô-gia-ríp, Gia-kin, 11 A-xa-ria con Hinh-kia. Hinh-kia con Mê-su-lam, Mê-su-lam con Xa-đốc, Xa-đốc con Mê-rai-ốt. Mê-rai-ốt con A-hi-túp. A-hi-túp là viên chức lo cho đền thờ của Thượng Đế. 12 Ngoài ra có A-đai-gia con Giê-hô-ram. Giê-hô-ram con Bách-sua, Bách-sua con Manh-ki-gia. Có Ma-a-sai con A-đi-ên. A-đi-ên con Gia-xê-ra. Gia-xê-ra con Mê-su-lam. Mê-su-lam con Mê-si-lê-mít, Mê-si-lê-mít con Im-mê.

13 Tính luôn các thân nhân có tất cả một ngàn bảy trăm sáu mươi thầy tế lễ. Họ là trưởng gia đình sẵn sàng làm công tác trong đền thờ Thượng Đế.

14 Trong số các người Lê-vi có Sê-mai-gia con Hát-súp. Hát-súp con A-ri-cam, A-ri-cam con Ha-sa-bai-gia. Ha-sa-bai-gia thuộc gia đình Mê-ra-ri. 15 Có Bác-ba-ka, Hê-rết, Ga-lanh, và Ma-ta-nia, con Mi-ca. Mi-ca là con Xích-ri, Xích-ri con A-sáp. 16 Cũng có Áp-đia con Sê-mai-gia. Sê-mai-gia con Ga-lanh, Ga-lanh con Giê-đu-thun. Ngoài ra có Bê-rê-kia con A-sa. A-sa con Ên-ca-na cư ngụ trong các làng của người Nê-tô-pha-thít.

17 Trong số các người giữ cửa có Sa-lum, Ác-cúp, Tanh-môn, A-hi-man và các thân nhân họ. Sa-lum là lãnh tụ của họ. 18 Cho đến thời ấy, những người giữ cửa từ chi tộc Lê-vi vẫn được đứng phía Đông cổng vào cung vua. 19 Sa-lum là con Cô-rê. Cô-rê con Ê-bi-a-sáp, Ê-bi-a-sáp con Cô-ra. Sa-lum và các thân nhân ông từ gia đình Cô-ra là những người giữ cửa và lo việc canh cửa đền thờ. Các tổ tiên của họ cũng từng lo việc canh giữ cửa vào đền thờ CHÚA. 20 Trước kia Phi-nê-ha, con trai Ê-lê-a-sa chịu trách nhiệm về các người giữ cửa đã từng được CHÚA giúp đỡ. 21 Xa-cha-ria con Mê-sê-lê-mia là người giữ cửa Lều Họp.

22 Tất cả có hai trăm mười hai người được chọn giữ cửa, tên tuổi của những người nầy được ghi trong gia phổ trong làng mạc họ. Đa-vít và Sa-mu-ên, đấng tiên kiến chọn họ là vì họ đáng tin cậy. 23 Những người giữ cửa và con cháu họ phải canh gác các cửa của đền thờ CHÚA. (Đền thờ thay thế cho Lều Thánh.) 24 Bốn phía của đền thờ: đông tây nam bắc đều có người giữ cửa. 25 Thân nhân của các người giữ cửa cư ngụ trong làng mạc thỉnh thoảng lên giúp đỡ họ. Mỗi khi lên thì giúp họ trong bảy ngày.

26 Vì họ đáng tin cậy cho nên có bốn người giữ cửa được cử làm trưởng của tất cả toán giữ cửa. Họ là người Lê-vi và chịu trách nhiệm về các phòng và kho báu trong đền thờ Thượng Đế. 27 Họ thức suốt đêm canh giữ đền thờ Thượng Đế, và mỗi sáng sớm thì mở các cửa ra.

28 Một số người giữ cửa chịu trách nhiệm về các vật dụng dùng trong việc thờ phụng trong đền thờ. Họ kiểm kê các vật dụng nầy khi có người lấy ra hay mang trả lại. 29 Các người giữ cửa khác được chọn để chăm sóc bàn ghế và các vật dụng Nơi Thánh. Họ cũng lo về bột, rượu, dầu, trầm hương, hương liệu [a], 30 nhưng một số thầy tế lễ lo việc hòa chế các hương liệu.

31 Có một người Lê-vi tên Mát-ti-thia rất đáng tin cậy và lo việc nướng bánh kẹp dùng trong của lễ. Ông ta là con trưởng nam của Sa-lum thuộc gia đình Cô-ra. 32 Một số người giữ cửa từ gia đình Cô-hát có nhiệm vụ chuẩn bị loại bánh đặc biệt [b] để lên bàn mỗi ngày Sa-bát.

33 Một số người Lê-vi là nhạc sĩ trong đền thờ. Các trưởng gia đình nầy cư ngụ trong các phòng của đền thờ. Vì họ phải trực ngày và đêm cho nên họ không lo việc gì khác trong đền thờ.

34 Đó là các lãnh tụ của các gia đình Lê-vi. Tên tuổi họ được ghi trong gia phổ và họ cư ngụ tại Giê-ru-sa-lem.

Gia phổ vua Sau-lơ

35 Giê-i-ên cư ngụ trong thị trấn Ghi-bê-ôn nơi ông làm lãnh tụ. Vợ ông tên Ma-a-ca. 36 Con trưởng nam của Giê-i-ên là Áp-đôn. Các con trai khác là Xu-rơ, Kích, Ba-anh, Nê-rơ, Na-đáp, 37 Ghê-đo, A-hi-ô, Xa-cha-ri, và Mích-lốt. 38 Mích-lốt sinh Si-mê-am. Gia đình Giê-i-ên sống gần các thân nhân họ ở Giê-ru-sa-lem.

39 Nê-rơ sinh Kích. Kích sinh Sau-lơ. Sau-lơ sinh Giô-na-than, Manh-ki-sua, A-bi-na-đáp, và Ết-Ba-anh.

40 Con trai Giô-na-than là Mê-ríp Ba-anh. Mê-ríp Ba-anh sinh Mi-ca.

41 Các con trai Mi-ca là Phi-thôn, Mê-léc, Ta-rê, và A-cha. 42 A-cha sinh Gia-đa [c]. Gia-đa sinh A-lê-mết, Ạc-ma-vết, và Xim-ri. Xim-ri sinh Mô-xa. 43 Mô-xa sinh Bi-nê-a. Rê-phai-gia là con Bi-nê-a. Ê-lê-a-xa là con Rê-phai-gia, và A-xên là con Ê-lê-a-xa.

44 A-xên có sáu con trai: A-ri-cam, Bô-kê-ru, Ích-ma-ên, Sê-rai-gia, Áp-đia, và Ha-nan. Đó là các con trai A-xên.

Cái chết của vua Sau-lơ

10 Quân Phi-li-tin kéo ra đánh dân Ít-ra-en, dân Ít-ra-en bỏ chạy. Nhiều người Ít-ra-en bị giết trên núi Ghinh-bô-a. Quân Phi-li-tin tấn công Sau-lơ và các con trai ông tới tấp, giết Giô-na-than, A-bi-na-đáp và Manh-ki-sua. Trận đánh thật dữ dội quanh Sau-lơ, các lính cầm cung bắn trúng làm ông bị thương.

Sau-lơ liền bảo viên sĩ quan vác vũ khí mình rằng, “Hãy rút gươm ngươi ra đâm ta đi nếu không bọn Phi-li-tin không chịu cắt dương bì [d] kia sẽ đến giết ta.”

Nhưng viên sĩ quan không dám vì sợ. Nên Sau-lơ rút gươm mình và đè người lên nó. Khi viên sĩ quan thấy Sau-lơ chết nên cũng đè người lên gươm mình và chết theo. Như thế Sau-lơ và ba con trai ông đều chết; cả nhà đều cùng chết.

Khi người Ít-ra-en đang sống trong thung lũng thấy quân đội mình bỏ chạy, Sau-lơ và các con ông chết thì họ cũng bỏ thành chạy trốn. Người Phi-li-tin liền đến định cư trong các thành đó.

Hôm sau quân Phi-li-tin đến lột các xác chết thì thấy Sau-lơ và các con ông đã chết trên núi Ghinh-bô-a. Quân Phi-li-tin lột binh phục khỏi xác Sau-lơ và cắt đầu ông mang đi cùng với áo giáp. Rồi chúng sai sứ đi khắp xứ thông báo tin tức cho thần tượng chúng và toàn dân. 10 Người Phi-li-tin để áo giáp của Sau-lơ trong đền thờ của thần chúng và treo đầu ông trong đền thờ thần Đa-gôn.

11 Cả dân Gia-be Ghi-lê-át nghe việc quân Phi-li-tin làm cho Sau-lơ. 12 Vì thế, những người gan dạ trong Gia-be liền xuống lấy xác Sau-lơ và các con trai ông mang về Gia-be. Họ chôn xương cốt những người đó dưới các cây rậm ở Gia-be. Sau đó dân Gia-be cữ ăn trong bảy ngày.

13 Sau-lơ chết vì không trung thành với CHÚA và không vâng lời Ngài. Thậm chí ông đi cầu hỏi đồng bóng 14 thay vì cầu hỏi CHÚA. Vì thế CHÚA giết Sau-lơ và trao nước cho Đa-vít, con trai Gie-xê.

Đa-vít lên ngôi vua trên Ít-ra-en

11 Sau đó dân Ít-ra-en đến cùng Đa-vít ở Hếp-rôn và nói, “Nầy, chúng tôi là anh em ruột thịt [e] với ông. Trong thời gian Sau-lơ làm vua, ông là người hướng dẫn dân Ít-ra-en ra trận. CHÚA là Thượng Đế ông nói cùng ông, ‘Ngươi sẽ là người chăn dân Ít-ra-en ta. Ngươi sẽ lãnh đạo họ.’”

Vậy các bô lão Ít-ra-en đến cùng vua Đa-vít tại Hếp-rôn. Ông lập giao ước với họ ở Hếp-rôn trước mặt CHÚA. Rồi họ đổ dầu lên Đa-vít lập ông làm vua Ít-ra-en. CHÚA đã hứa qua Ít-ra-en là việc phải xảy ra như thế.

Đa-vít chiếm được Giê-ru-sa-lem

Đa-vít và toàn dân Ít-ra-en đi đến thành Giê-ru-sa-lem. Lúc đó Giê-ru-sa-lem gọi là Giê-bu, và dân sống ở đó gọi là dân Giê-bu-sít. Chúng bảo Đa-vít, “Ngươi không thể nào vào thành chúng ta được đâu.” Nhưng Đa-vít chiếm thành Giê-ru-sa-lem có vách kiên cố, và nó trở nên thành Đa-vít.

Đa-vít nói, “Ai xung phong tấn công dân Giê-bu-sít sẽ được làm chỉ huy toàn quân đội ta.” Giô-áp con trai Xê-ru-gia hướng dẫn cuộc tấn công nên ông làm chỉ huy quân đội.

Sau đó Đa-vít vào cư trú trong thành có vách kiên cố ấy cho nên nó mang tên là thành Đa-vít. Đa-vít xây lại thành, bắt đầu nơi người ta lấp đất cho đến vách bao quanh thành. Giô-áp sửa chữa các phần khác của thành phố. Đa-vít càng ngày càng mạnh. CHÚA Toàn Năng ở cùng ông.

Ba chiến sĩ anh dũng

10 Sau đây là danh sách những người cầm đầu các chiến sĩ của Đa-vít, giúp ông thêm mạnh. Tất cả dân Ít-ra-en cũng ủng hộ nước của Đa-vít. Các anh hùng nầy và toàn dân Ít-ra-en lập Đa-vít làm vua, như CHÚA đã hứa.

11 Sau đây là danh sách các chiến sĩ của Đa-vít:

Gia-sô-bê-am người Hạc-mô-nít [f]. Ông lãnh đạo nhóm ba người [g], tức các chiến sĩ anh dũng nhất của Đa-vít. Ông dùng gươm giết sạch ba trăm người cùng một lúc.

12 Kế ông có Ê-lê-a-xa, một trong Ba Chiến sĩ. Ê-lê-a-xa là con trai Đô-đai [h] gốc dân A-hô-hít. 13 Ê-lê-a-xa có mặt với Đa-vít tại Bát Đa-mim khi quân Phi-li-tin đến tấn công. Ở đó có một đồng lúa mạch. Dân Ít-ra-en trốn chạy khỏi người Phi-li-tin, 14 nhưng họ đứng lại giữa đồng lúa đó chiến đấu và giết người Phi-li-tin. CHÚA ban chiến thắng lớn cho họ.

15 Có lần, ba trong số Ba Mươi Chiến sĩ [i], tức các chiến sĩ nòng cốt của Đa-vít đến gặp ông ở tảng đá gần hang A-đu-lam. Lúc đó quân Phi-li-tin đang đóng trại trong thung lũng Rê-pha-im.

16 Lúc ấy Đa-vít đang ở trong mật khu, còn một số quân Phi-li-tin đang ở Bết-lê-hem. 17 Đa-vít quá khát nước nên ông nói, “Ôi, ước gì có ai đi lấy cho ta nước từ giếng gần cổng thành Bết-lê-hem!” 18 Cho nên Ba Người [j] đó xông qua hàng rào quân Phi-li-tin và lấy nước từ giếng gần cổng thành Bết-lê-hem. Khi họ mang nước về cho Đa-vít thì ông không chịu uống. Ông đổ nước ra trước mặt CHÚA, 19 nói rằng, “Xin CHÚA đừng để tôi uống nước nầy! Vì chẳng khác nào uống huyết của những người đã liều mạng lấy nước về cho tôi!” Cho nên Đa-vít nhất định không chịu uống. Đó là những hành vi dũng cảm của ba chiến sĩ gan dạ ấy.

Các chiến sĩ anh dũng khác

20 A-bi-sai, em Giô-áp chỉ huy Toán Ba Người. A-bi-sai dùng giáo đánh giết ba trăm binh sĩ. Ông nổi danh như Ba Người, 21 nhưng được tôn trọng hơn Ba Người [k] ấy. Ông chỉ huy Toán Ba Người dù không thuộc về toán nầy.

22 Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa là một chiến sĩ gan dạ [l] từ Cáp-xê-ên, thực hiện nhiều kỳ công. Ông giết hai trong số các chiến sĩ xuất sắc nhất của Mô-áp. Ông cũng xuống hầm đá giết một con sư tử vào một ngày tuyết rơi. 23 Bê-na-gia giết một người Ai-cập cao khoảng bảy bộ rưỡi [m] và có cây giáo lớn như trục thợ dệt. Bê-na-gia chỉ có một dùi cui trong tay nhưng ông giựt cây giáo ra khỏi tay người Ai-cập và giết hắn bằng chính cây giáo của hắn. 24 Đó là những chiến công của Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa. Ông nổi tiếng như Toán Ba Người. 25 Ông được tôn trọng hơn Toán Ba Mươi nhưng không thuộc Toán Ba Người. Đa-vít cử ông chỉ huy toán hộ vệ cho mình.

Ba Mươi chiến sĩ nồng cốt

26 Sau đây là danh sách các chiến sĩ anh dũng: A-xa-ên, em Giô-áp; Ên-ha-nan, con trai Đô-đô người Bết-lê-hem; 27 Sa-mốt người Ha-rô-rít; Hê-lê người Bê-lô-nít; 28 Y-ra, con Ích-kê, từ Thê-cô-a; A-bi-ê-xe người A-na-thốt; 29 Xi-bê-cai người Hu-sa-thít; Y-lai người A-hô-hít; 30 Ma-ha-rai người Nê-tô-pha-thít; Hê-lết, con Ba-a-na, người Nê-tô-pha-thít; 31 Y-thai, con Ri-bai, từ Ghi-bê-a thuộc xứ Bên-gia-min; Bê-na-gia người Phi-ra-thô-nít; 32 Ha-rai từ vùng hố của Ga-ách; A-bi-ên người Ác-ba-thít; 33 A-ma-vết, người Ba-ha-ru-mít; Ê-li-a-ba người Sa-anh-bô-nít; 34 các con trai của Ha-xem người Ghi-xôn; Giô-na-than con trai Sa-ghê, người Ha-ra-rít; 35 A-hi-am con trai Xa-ca người Ha-ra-rít; Ê-li-phanh, con U-rơ; 36 Hê-phe người Mê-kê-ra-thít; A-hi-gia người Bê-lô-nít; 37 Hết-rô người Cạt-mên; Na-a-rai, con Ết-bai; 38 Giô-ên em Na-than; Míp-ha con trai Hát-ri; 39 Xê-léc người Am-môn; Na-ha-rai người Bê-rô-thít, sĩ quan vác áo giáp cho Giô-áp, con trai Xê-ru-gia. 40 Y-ra người Ích-rít; Ga-rếp người Ích-rít; 41 U-ri người Hi-tít; Xa-bát con trai A-lai; 42 A-đi-na, con trai Si-xa người Ru-bên, đồng thời là lãnh tụ của người Ru-bên cùng ba mươi binh sĩ mình; 43 Ha-nan con trai Ma-a-ca; Giô-xa-phát người Mích-nít; 44 U-xia người Ách-tê-ra-thít; Sa-ma và Giê-i-ên con trai Hô-tham người A-rô-e-rít; 45 Giê-đi-a-ên con trai Xim-ri; Giô-ha, em Giê-đi-a-ên, người Thi-xít; 46 Ê-li-ên người Ma-ha-vít; Giê-ri-bai và Giô-sa-via, hai con trai của Ên-a-am; Ít-ma người Mô-áp; 47 Ê-li-ên, Ô-bết, và Gia-a-si-ên người Mê-xô-ba-ít.

Footnotes

  1. I Sử Ký 9:29 hương liệu Hay “dầu đặc biệt.” Đây có thể là loại dầu dùng để đổ lên đầu các thầy tế lễ, nhà tiên tri, hay vua. Xem Xuất 30:22-38.
  2. I Sử Ký 9:32 bánh đặc biệt Hay “bánh xếp theo hai dãy.”
  3. I Sử Ký 9:42 Gia-đa Tên nầy trích từ bản cổ Hi-lạp và vài bản Hê-bơ-rơ. Hầu hết các bản Hê-bơ-rơ ghi “Gia-ra” thay vì “Gia-đa.”
  4. I Sử Ký 10:4 bọn … không chịu cắt dương bì Nghĩa rộng, “bọn ngoại quốc.” Những người không chịu cắt bì không được dự phần vào giao ước Thượng Đế lập với Ít-ra-en. Xem “cắt dương bì” trong Bảng Giải Thích Từ Ngữ.
  5. I Sử Ký 11:1 anh em ruột thịt Ý họ muốn nói họ rất thân thiết với Đa-vít như anh em trong gia đình.
  6. I Sử Ký 11:11 Gia-sô-bê-am người Hạc-mô-nít Đây là Giô-sê Ba-sê-bết người Tạc-kê-mô-nít trong II Sam 23:8.
  7. I Sử Ký 11:11 nhóm ba người Một lực lượng của vua để thi hành các nhiệm vụ đặc biệt mà vua giao phó.
  8. I Sử Ký 11:12 Ê-lê-a-xa là con trai Đô-đai Hay “Ê-lê-a-xa, thân nhân của Đô-đai.”
  9. I Sử Ký 11:15 Ba Mươi Chiến sĩ Hay “lực lượng đặc nhiệm của vua.” Đây là nhóm chiến sĩ nổi danh gan dạ của Đa-vít. Xem thêm các câu 25, 42.
  10. I Sử Ký 11:18 Ba Người Đây là ba chiến sĩ gan dạ nhất của Đa-vít. Xem thêm câu 19-21.
  11. I Sử Ký 11:21 Ba Người Hay “Ba mươi người.”
  12. I Sử Ký 11:22 chiến sĩ gan dạ Hay là “người thuộc hàng chiến sĩ sẵn sàng bảo vệ dân chúng lúc chiến tranh.”
  13. I Sử Ký 11:23 bảy bộ rưỡi Nguyên văn, “5 cu-bít ngắn” (khoảng 2,20 thước).

Toàn dân I-sơ-ra-ên đều được ghi vào sổ bộ theo gia phả của họ, và này, họ đã được ghi trong sách Các Vua I-sơ-ra-ên. Còn dân Giu-đa đã bị bắt đem lưu đày ở Ba-by-lôn vì sự vong ơn bội nghĩa của họ. Lúc ấy những người đầu tiên được trở về sống trong sản nghiệp của họ trong các thành trước kia của họ là một nhóm ít ỏi thường dân người I-sơ-ra-ên, vài tư tế, mấy người Lê-vi, và một ít người phục vụ tại đền thờ.

Những Gia Tộc Cư Ngụ tại Giê-ru-sa-lem sau Thời Lưu Ðày

Thuở ấy một số người Giu-đa, Bên-gia-min, Ép-ra-im, và Ma-na-se đã hồi hương và sống tại Giê-ru-sa-lem.

U-thai con của Am-mi-hút, con của Ôm-ri, con của Im-ri, con của Ba-ni. Những người ấy là dòng dõi của Pê-rê con của Giu-đa.

Các con cháu của Si-lôn có A-sa-gia con đầu lòng, và các con cháu của ông ấy.

Các con cháu của Xê-ra có Giê-u-ên và bà con dòng họ của họ, sáu trăm chín mươi người.

Các con cháu của Bên-gia-min có Sanh-lu con của Mê-su-lam, con của Hô-đa-vi-a, con của Hát-sê-nu-a, Íp-nê-gia con của Giê-rô-ham, Ê-la con của U-xi, con của Mích-ri, Mê-su-lam con của Sê-pha-ti-a, con của Rê-u-ên, con của Íp-ni-gia, và con cháu của họ nhiều thế hệ tổng cộng được chín trăm năm mươi sáu người. Những người được kể tên ở trên là những thủ lãnh trong gia tộc của họ và trong dòng họ của họ.

Các Gia Tộc Tư Tế

10 Về các tư tế có Giê-đa-gia, Giê-hô-gia-ríp, Gia-kin, 11 và A-xa-ri-a con của Hinh-ki-a, con của Mê-su-lam, con của Xa-đốc, con của Mê-ra-giốt, con của A-hi-túp, người quản lý nhà của Ðức Chúa Trời, 12 và A-đa-gia con của Giê-rô-ham, con của Pát-khua, con của Manh-ki-gia, và Ma-a-sai con của A-đi-ên, con của Gia-xê-ra, con của Mê-su-lam, con của Mê-sin-lê-mít, con của Im-me. 13 Ngoài ra họ còn có các bà con của họ, những người đứng đầu trong các gia tộc – một ngàn bảy trăm sáu mươi người đầy đủ khả năng làm công tác phục vụ nhà của Ðức Chúa Trời.

Các Gia Tộc của Người Lê-vi

14 Về những người Lê-vi có Sê-ma-gia con của Hạc-súp, con của A-xơ-ri-cam, con của Ha-sa-bi-a, những người trong dòng dõi của Mê-ra-ri; 15 Bạc-bác-ca, Hê-rết, Ga-lanh, và Mát-ta-ni-a con của Mi-ca, con của Xích-ri, con của A-sáp; 16 Ô-ba-đi-a con của Sê-ma-gia, con của Ga-lanh, con của Giê-đu-thun; và Bê-rê-ki-a con của A-sa, con của Ên-ca-na, những người sống trong các làng của người Nê-tô-pha-thi.

Các Gia Tộc Những Người Giữ Cửa

17 Về những người giữ cửa có Sanh-lum, Ạc-cúp, Tanh-môn, A-hi-man, và những người bà con của họ. Sanh-lum là thủ lãnh của họ. 18 Trước kia họ là những người canh gác cổng ngọ môn, ở hướng đông. Họ từng là những người canh gác cổng vào trại của người Lê-vi. 19 Sanh-lum con của Cô-rê, con của Ê-bi-a-sáp, con của Cô-ra, và các anh em của ông trong gia đình của cha ông. Con cháu của Cô-ra, chịu trách nhiệm canh gác nơi ngạch cửa của Ðền Tạm, giống như tổ tiên của họ đã từng canh gác nơi lối vào Lều Thánh của Chúa. 20 Thuở xưa Phi-nê-a con của Ê-lê-a-xa là người chỉ huy của họ, và Chúa đã ở cùng ông ấy. 21 Xa-cha-ri-a con của Mê-sê-lê-mi-a là người canh giữ lối vào Lều Hội Kiến.

22 Tổng số những người được tuyển chọn để canh cửa là hai trăm mười hai người. Họ đăng bộ theo gia phả của họ trong các làng của họ. Vua Ða-vít và Ðấng Tiên Kiến Sa-mu-ên đã lập dòng họ của họ vĩnh viễn vào chức vụ canh cửa, vì họ là những người đáng tin cậy. 23 Do đó họ và con cháu họ chịu trách nhiệm canh gác các cửa vào nhà Chúa, nhà ấy cũng được gọi là Lều Thánh. 24 Những người canh cửa đều được phân chia công tác canh gác ở bốn hướng: đông, tây, bắc, và nam. 25 Thỉnh thoảng những người bà con của họ từ các làng thay nhau đến phụ canh gác với họ từng đợt suốt bảy ngày. 26 Tuy nhiên bốn người giữ cửa chính là bốn người Lê-vi. Họ được ủy thác trách nhiệm canh giữ các phòng và các kho báu của nhà Ðức Chúa Trời. 27 Ban đêm họ ngủ chung quanh nhà của Ðức Chúa Trời, bởi vì họ phải canh gác nhà ấy. Họ được trao cho trách nhiệm phải mở cửa nhà ấy vào mỗi sáng. 28 Trong vòng họ, một số người được trao trách nhiệm quản lý các vật dụng dùng trong việc thờ phượng. Họ đếm những vật ấy mỗi khi chúng được mang vào các phòng và mỗi khi chúng được lấy ra dùng. 29 Một số người khác trong vòng họ được trao trách nhiệm quản lý các đồ vật và mọi khí dụng thánh, kể cả bột thượng hạng, rượu, dầu, nhũ hương, và các thứ hương liệu. 30 Những người khác nữa, các con của các tư tế, phụ trách việc trộn các hương liệu cho đúng công thức, 31 và Mát-ti-thi-a người Lê-vi, con đầu lòng của Sanh-lum, dòng dõi của Cô-ra, phụ trách việc làm bánh trong chảo. 32 Một vài người khác, những người bà con của họ trong dòng dõi Kê-hát, chịu trách nhiệm làm bánh thánh để mỗi ngày Sa-bát họ cung cấp các bánh mới dâng trên bàn thờ.

33 Những người đặc trách việc ca hát thờ phượng, những thủ lãnh trong các gia tộc của người Lê-vi, được ở trong các phòng tại Ðền Tạm và được miễn làm các công việc khác, vì họ phải lo việc ca hát thờ phượng cả ngày lẫn đêm.

34 Ðó là các thủ lãnh của người Lê-vi, theo từng thế hệ của họ, những người lãnh đạo ấy sống tại Giê-ru-sa-lem.

Gia Tộc của Sau-lơ

(1 Sử 8:29-38)

35 Ở Ghi-bê-ôn có Giê-i-ên cha của Ghi-bê-ôn sống tại đó, vợ ông tên là Ma-a-ca. 36 Con đầu lòng của ông là Áp-đôn, kế đến là Xu-rơ, Kích, Ba-anh, Nê-rơ, Na-đáp, 37 Ghê-đô, A-hi-ô, Xa-cha-ri-a, và Mít-lốt. 38 Mít-lốt sinh Si-mê-a. Lúc ấy những người đó, những người trong bà con của họ, sống cận kề với nhau ở Giê-ru-sa-lem.

39 Nê-rơ sinh Kích; Kích sinh Sau-lơ; Sau-lơ sinh Giô-na-than, Manh-ki-sua, A-bi-na-đáp, và Ếch-ba-anh.

40 Con của Giô-na-than là Mê-ríp Ba-anh; Mê-ríp Ba-anh sinh Mi-ca.

41 Các con của Mi-ca là Pi-thôn, Mê-lếch, Ta-rê-a, và A-kha.[a] 42 A-kha sinh Gia-ra, Gia-ra sinh A-lê-mết, A-ma-vết, và Xim-ri; Xim-ri sinh Mô-xa. 43 Mô-xa sinh Bi-nê-a; Rê-pha-gia là con của Bi-nê-a; Ê-lê-a-sa là con của Rê-pha-gia; A-xên là con của Ê-lê-a-sa.

44 A-xên có sáu con, và đây là tên của họ: A-xơ-ri-cam, Bô-kê-ru, Ích-ma-ên, Sê-a-ri-a, Ô-ba-đi-a, và Ha-nan. Tất cả những người ấy là con của A-xên.

Sau-lơ và Các Con Ông Tử Trận

(1 Sa 31:1-13)

10 Khi ấy quân Phi-li-tin giao chiến với quân I-sơ-ra-ên. Quân I-sơ-ra-ên chạy trốn trước mặt quân Phi-li-tin và ngã chết trên Núi Ghinh-bô-a. Quân Phi-li-tin đuổi kịp Sau-lơ và các con của ông. Quân Phi-li-tin giết chết Giô-na-than, A-bi-na-đáp, và Manh-ki-sua, các con trai của Sau-lơ. Trận chiến trở nên khốc liệt đối với Sau-lơ. Quân xạ tiễn của quân thù đuổi theo bắn ông, khiến ông bị trọng thương. Sau-lơ nói với người mang binh khí của ông, “Hãy rút gươm của ngươi ra và đâm ta chết, kẻo những kẻ không cắt bì đó đuổi kịp và ta sẽ bị chúng làm nhục.” Nhưng người mang binh khí của ông không dám, vì người ấy sợ. Do đó Sau-lơ lấy thanh gươm của ông và tự sấn người vào nó mà chết. Khi người mang binh khí của Sau-lơ thấy ông đã chết, người ấy cũng tự sấn người vào thanh gươm của mình mà chết. Như thế Sau-lơ đã tử trận. Ông, ba con trai của ông, và mọi người trong gia đình ông đều tử trận ngày hôm đó. Khi mọi người I-sơ-ra-ên khác trong thung lũng thấy quân I-sơ-ra-ên bỏ chạy, Sau-lơ và các con trai ông đã chết, họ liền bỏ các thành của họ mà chạy trốn. Dân Phi-li-tin bèn đến, chiếm lấy, và ở trong các thành ấy.

Ngày hôm sau khi quân Phi-li-tin đi ra thu dọn chiến trường, chúng tìm thấy xác của Sau-lơ và các con trai ông nằm chết trên Núi Ghinh-bô-a. Chúng lột binh giáp của ông, chặt đầu ông, lấy các vũ khí của ông, và sai các sứ giả đi khắp xứ của dân Phi-li-tin để rao báo tin mừng cho các thần của chúng và cho dân của chúng. 10 Chúng để các vũ khí của ông trong đền thờ các thần của chúng và treo đầu ông trong đền thờ của Thần Ða-gôn. 11 Nhưng khi mọi người ở Gia-bét Ghi-lê-át nghe được mọi điều dân Phi-li-tin đã làm cho Sau-lơ, 12 tất cả những chiến sĩ dũng cảm ở đó đứng dậy; họ đến lấy thi thể của ông và thi thể của các con trai ông mang về Gia-bét. Họ chôn cất các hài cốt của cha con ông nơi gốc một cây sồi ở Gia-bét và kiêng ăn bảy ngày.

13 Như thế Sau-lơ đã chết vì tội bất trung của ông. Ông đã bất trung với Chúa, vì ông đã không vâng giữ mạng lịnh của Chúa. Ngoài ra ông còn mang tội cầu vấn đồng bóng; ông tìm cầu sự hướng dẫn của nó, 14 nhưng không tìm cầu sự hướng dẫn của Chúa; vì thế Ngài đã khiến cho ông chết và trao vương quốc của ông cho Ða-vít con trai Giê-se.

Ða-vít Ðược Xức Dầu Làm Vua

(2 Sa 5:1-3)

11 Bấy giờ toàn dân I-sơ-ra-ên nhóm lại với Ða-vít ở Hếp-rôn và nói, “Này, chúng tôi cùng cốt nhục với ông. Một thời trước đây, khi Sau-lơ còn làm vua, ông là người đã chỉ huy quân đội của I-sơ-ra-ên. Chúa, Ðức Chúa Trời của ông, đã phán với ông, ‘Chính ngươi sẽ chăn dắt dân I-sơ-ra-ên của Ta, ngươi sẽ trị vì trên dân I-sơ-ra-ên của Ta.’” Vậy toàn thể các trưởng lão của I-sơ-ra-ên đến với vua ở Hếp-rôn, và Ða-vít lập một giao ước với họ ở Hếp-rôn trước mặt Chúa. Họ xức dầu lập Ða-vít làm vua trên I-sơ-ra-ên theo như lời Chúa đã phán qua Sa-mu-ên.

Ða-vít Chiếm Thành Giê-ru-sa-lem

(2 Sa 5:6-10)

Ða-vít và toàn quân I-sơ-ra-ên kéo đến Giê-ru-sa-lem, tức Giê-bu, nơi dân Giê-bu-si, dân cư trong xứ, đang ở. Dân Giê-bu-si nói với Ða-vít, “Ngươi sẽ không vào đây.” Tuy nhiên Ða-vít đã chiếm được chiến lũy của Si-ôn, nay là thành của Ða-vít. Ða-vít nói, “Ai tấn công dân Giê-bu-si trước sẽ được lập làm nguyên soái và tổng tư lịnh.” Giô-áp con của bà Xê-ru-gia xông lên trước, nên được làm nguyên soái. Ða-vít sống trong chiến lũy, nên nó được gọi là Thành Ða-vít. Ông cho xây tường chung quanh thành, bắt đầu từ công sự phòng thủ xây giáp vòng trở lại, còn Giô-áp thì lo xây sửa các chỗ khác của thành. Ða-vít càng ngày càng hùng mạnh, vì Chúa ở với ông.

Các Dũng Sĩ của Ða-vít và Các Kỳ Công của Họ

(2 Sa 23:8-39)

10 Ðây là các thủ lãnh của những chiến sĩ của Ða-vít, những người đã hỗ trợ mạnh mẽ cho ông trong vương quốc của ông, những người đã hiệp với toàn dân I-sơ-ra-ên lập ông làm vua, theo như lời Chúa đã phán về dân I-sơ-ra-ên. 11 Ðây là danh sách các dũng sĩ của Ða-vít:

Gia-sô-bê-am con của một người Hách-mô-ni, đứng đầu ba người chỉ huy; có lần một mình ông đã dùng cây giáo của ông đánh chết ba trăm quân thù.

12 Kế ông là Ê-lê-a-xa con của Ðô-đô người A-hô-hi, một trong ba người chỉ huy. 13 Ông ở với Ða-vít tại Pát Ðam-mim, nơi quân Phi-li-tin tụ lại đó để dàn trận. Tại đó có một đám ruộng đầy lúa mạch, và quân dân bỏ chạy trước mặt quân Phi-li-tin. 14 Nhưng ông và Ða-vít đứng lại giữa đám ruộng để đối đầu với quân thù và đánh giết quân Phi-li-tin. Chúa đã cứu họ và ban cho họ chiến thắng lớn.

15 Ba người trong số ba mươi người thủ lãnh đi xuống nơi có một vầng đá lớn để gặp Ða-vít lúc ấy đang ẩn náu trong hang đá A-đu-lam, trong khi đại quân Phi-li-tin đang đóng trại trong Thung Lũng Rê-pha-im. 16 Bấy giờ Ða-vít đang ở trong chiến lũy, còn đồn của quân Phi-li-tin đang đóng ở Bết-lê-hem. 17 Ða-vít ước ao và nói, “Ước gì tôi được uống nước giếng ở Bết-lê-hem, bên cổng thành.” 18 Thế là ba người ấy xông qua doanh trại của quân Phi-li-tin và lấy nước từ giếng ở Bết-lê-hem bên cổng thành, rồi họ mang nước ấy về cho Ða-vít. Nhưng Ða-vít không uống nước ấy. Ông đổ nước ấy ra dâng lên CHÚA 19 và nói, “Nguyện Ðức Chúa Trời của tôi đừng để tôi làm điều nầy. Lẽ nào tôi uống máu của những người ấy sao? Vì họ đã liều mạng của họ để mang nước ấy về đây.” Vậy ông không uống nước ấy. Ðó là điều ba dũng sĩ ấy đã làm.

20 A-bi-sai em của Giô-áp là người đứng đầu ba người. Ông sử dụng cây giáo của ông đối phó với ba trăm quân thù và đánh giết họ. Ông nổi danh trong nhóm ba người ấy. 21 Trong nhóm ba người ấy, ông được kính trọng hơn hai người kia và được lập làm thủ lãnh của nhóm ba mươi[b] người. Tuy nhiên ông không thuộc trong nhóm ba người đầu tiên.

22 Bê-na-gia con của Giê-hô-gia-đa, con của một người dũng mãnh quê ở Cáp-xê-ên, đã làm nhiều việc phi thường. Ông đã giết chết hai người hùng mạnh như sư tử của dân Mô-áp, và trong một ngày tuyết giá nọ, ông xuống hố và hạ sát một con sư tử ở đó. 23 Ông cũng đánh hạ một người khổng lồ Ai-cập cao hai mét rưỡi.[c] Người Ai-cập ấy cầm trong tay một cây giáo như cây trục của dàn cửi thợ dệt. Ông đi xuống đối đầu với người ấy, trong tay ông chỉ cầm một cây gậy. Ông giựt lấy cây giáo trong tay người khổng lồ và dùng nó giết chết người ấy. 24 Ðó là những việc Bê-na-gia con của Giê-hô-gia-đa đã làm. Ông được nổi tiếng chẳng kém gì nhóm ba người dũng mãnh kia. 25 Này, ông được tôn trọng hơn mọi người trong nhóm ba mươi người, nhưng ông không ở trong hàng ngũ của nhóm ba người kia. Ða-vít lập ông làm người chỉ huy đội quân hộ giá.

26 Những dũng sĩ khác của quân đội gồm: A-sa-ên em của Giô-áp, Ên-ha-nan con của Ðô-đô ở Bết-lê-hem, 27 Sam-mốt người Ha-rô-ri, Hê-lê người Pê-lô-ni, 28 I-ra con của Ích-kết ở Tê-cô-a, A-bi-ê-xe ở A-na-thốt, 29 Si-bê-cai người Hu-sa-thi, I-lai người A-hô-hi, 30 Ma-ha-rai người Nê-tô-pha-thi, Hê-lết con của Ba-a-na người Nê-tô-pha-thi, 31 I-thai con của Ri-bai ở Ghi-bê-a thuộc dòng dõi của Bên-gia-min, Bê-na-gia quê ở Pi-ra-thôn, 32 Hu-rai quê ở các dòng suối vùng Ga-ách, A-bi-ên người Ạc-ba-thi, 33 A-ma-vết người Ba-ha-ru-mi, Ên-gia-ba người Sa-anh-bô-ni, 34 các con của Ha-sem người Ghi-xô-ni, Giô-na-than con của Sa-ghi người Ha-ra-ri, 35 A-hi-am con của Sa-ca người Ha-ra-ri, Ê-li-phan con của U-rơ, 36 Hê-phe người Mê-kê-ra-thi, A-hi-gia người Pê-lô-ni, 37 Hê-xơ-rô quê ở Cạt-mên, Na-a-rai con của Ê-xơ-bai, 38 Giô-ên em của Na-than, Míp-ha con của Hắc-ri, 39 Xê-léc người Am-môn, Na-ha-rai người Bê-rô-thi –ông là người vác binh khí của Giô-áp con bà Xê-ru-gia– 40 I-ra người I-thơ-ri, Ga-rép người I-thơ-ri, 41 U-ri-a người Hít-ti, Xa-bách con của A-lai, 42 A-đi-na con của Si-xa con cháu của Ru-bên –ông là thủ lãnh của chi tộc Ru-bên và nhóm ba mươi người của ông– 43 Ha-nan con của Ma-a-ca, Giô-sa-phát con của Mít-ni, 44 U-xi-a người Ách-tê-ra-thi, Sa-ma và Giê-i-ên hai con của Hô-tham người A-rô-ê, 45 Giê-đi-a-ên con của Sim-ri và Giô-ha em ông, người Ti-xi, 46 Ê-li-ên người Ma-ha-vi, Giê-ri-bai và Giô-sa-vi-a hai con của Ên-na-am, Ít-ma người Mô-áp, 47 Ê-li-ên, Ô-bết, và Gia-a-si-ên người Mê-xô-ba-i.

Footnotes

  1. I Sử Ký 9:41 Xem 8:35, Hebrew thiếu A-kha
  2. I Sử Ký 11:21 Hebrew ghi Ba Người, xem thêm 2 Sa 23:19
  3. I Sử Ký 11:23 Hebrew ghi năm cubits