Add parallel Print Page Options

Gia đình Đa-vít

Đây là các con trai của Đa-vít sinh ra ở Hếp-rôn.

Con trưởng nam là Am-nôn, mẹ là A-hi-nô-am ở Ghít-rê-ên.

Con thứ hai là Đa-niên, mẹ là A-bi-ga-in ở Cạt-mên.

Con thứ ba là Áp-xa-lôm, mẹ là Ma-a-ca, con gái của Thanh-mai, vua Ghê-sua.

Con thứ tư là A-đô-ni-gia, mẹ là Ha-ghít.

Con thứ năm là Sê-pha-tia, mẹ là A-bi-tan.

Con thứ sáu là Ít-rê-am, mẹ là Éc-la. Sáu người con trai nầy của Đa-vít sinh ở Hếp-rôn, nơi Đa-vít trị vì trong bảy năm rưỡi.

Đa-vít trị vì ở Giê-ru-sa-lem ba mươi ba năm.

Sau đây là những người con sinh ở Giê-ru-sa-lem:

Sam-mua [a], Sô-báp, Na-than, và Sô-lô-môn, tức bốn người con của Đa-vít và Bát-sê-ba [b], con gái A-miên. 6-8 Chín người con trai khác của Đa-vít là Íp-ha, Ê-li-sua [c], Ê-li-phê-lết, Nô-ga, Nê-phéc, Gia-phia, Ê-li-sa-ma, Ê-li-a-đa, và Ê-li-phê-lết. Đó là các con trai của Đa-vít, ngoại trừ các con do các vợ lẽ sinh ra. Đa-vít cũng có một con gái tên Ta-ma.

Các vua Giu-đa sau đời của Đa-vít

10 Con trai của Sô-lô-môn là Rô-bô-am. Con trai Rô-bô-am là A-bi-gia. Con trai A-bi-gia là A-sa. Con trai A-sa là Giô-sa-phát. 11 Con trai Giô-sa-phát là Giê-hô-ram. Con trai Giê-hô-ram là A-cha-xia. Con trai A-cha-xia là Giô-ách. 12 Con trai Giô-ách là A-ma-xia. Con trai A-ma-xia là A-xa-ria. Con trai A-xa-ria là Giô-tham. 13 Con trai Giô-tham là A-cha. Con trai A-cha là Ê-xê-chia. Con trai Ê-xê-chia là Ma-na-xe. 14 Con trai Ma-na-xe là A-môn, và con trai A-môn là Giô-xia.

15 Sau đây là các con trai Giô-xia: Con trưởng nam là Giô-ha-nan, con thứ nhì là Giê-hô-gia-kim, con thứ ba là Xê-đê-kia, con thứ tư là Sa-lum.

16 Con của Giê-hô-gia-kim là Giê-hô-gia-kin, và con của Giê-hô-gia-kin là Xê-đê-kia [d].

Dòng dõi Đa-vít sau khi bị lưu đày sang Ba-by-lôn

17 Giê-hô-gia-kin bị bắt làm tù binh. Các con trai ông là Sê-anh-tiên,

18 Manh-ki-ram, Bê-đai-gia, Sê-na-xa, Giê-ca-mia, Hô-sa-ma, và Nê-đa-bia.

19 Các con trai của Bê-đai-gia là Xê-ru-ba-bên và Si-mê-i. Các con trai Xê-ru-ba-bên là Mê-su-lam và Ha-na-nia cùng em gái họ là Sê-lô-mít.

20 Xê-ru-ba-bên cũng có năm con trai khác; Ha-su-ba, Ô-hên, Bê-rê-kia, Ha-xa-đia, và Giu-sáp Hê-sết.

21 Dòng dõi của Ha-na-nia là Bê-la-tia và Giê-sai-gia [e], và các con trai của Rê-phai-a, Ác-nan, Áp-đia, và Sê-ca-nia. [f]

22 Các con trai của Sê-ca-nia là Sê-mai-gia. Các con trai của Sê-mai-gia là Hát-túc, Y-ganh, Ba-ria, Nê-a-nia, và Sa-phát. Tất cả là sáu người.

23 Nê-a-ria có ba con trai: Ê-li-ô-ê-nai, Hi-kia, và A-ri-cam.

24 Ê-li-ô-ê-nai có bảy con trai: Hô-đa-via, Ê-li-a-síp, Bê-lai-gia, Ác-cúp, Giô-ha-nan, Đê-lai-gia, và A-na-ni.

Các họ hàng khác của Giu-đa

Các con cháu khác của Giu-đa là Phê-rê, Hết-rôn, Cạt-mi, Hu-rơ, và Sô-banh.

Rê-ai-gia là con Sô-banh. Rê-ai-gia sinh Gia-hát, Gia-hát sinh A-hu-mai và La-hát. Đó là họ hàng của dân Xô-ra-thít.

3-4 Hu-rơ là con trưởng nam của Ca-lép và vợ là Ép-ra-tha. Hu-rơ là người sáng lập [g] thị trấn Bết-lê-hem. Ba con trai ông là Ê-tam, Phê-nu-ên, và Ê-xe.

Các con trai của Ê-tam là Ghít-rê-ên, Ích-ma, và Ích-bát. Họ có một em gái tên Ha-xê-lên-bô-ni. Phê-nu-ên sinh Ghê-đo, còn Ê-xe sinh Hu-sa.

Thê-cô-a sinh A-sua. A-sua có hai vợ tên Hê-la và Na-a-ra. Các con trai của A-sua và Na-a-ra là A-hu-xam, Hê-phe, Tê-me-ni, và Ha-a-hát-ta-ri. Đó là dòng dõi của Na-a-ra. Các con trai của Hê-la là Xê-rết, Xô-ha, Ết-nan, và Cốt. Cốt sinh A-núp, Ha-xô-bê-ba, và gia tộc A-ha-hên. A-ha-hên là con trai Ha-rum.

Có một người tên Gia-be được tôn trọng hơn các anh em khác. Mẹ ông đặt tên ông là Gia-be [h] vì bà bảo, “Tôi bị đau đớn quá mức khi sinh ra nó.” 10 Gia-be cầu nguyện cùng Thượng Đế của Ít-ra-en, “Xin ban phước cho tôi, ban cho tôi thêm đất. Xin ở cùng tôi, đừng để ai hại tôi; như thế tôi mới không bị đau đớn nữa.” Thượng Đế nghe lời Gia-be cầu xin.

11 Kê-lúp, anh Su-la, sinh Mê-hia. Mê-hia sinh Ếch-tôn. 12 Ếch-tôn sinh Bết-Ra-pha, Ba-sê-a, và Tê-hin-na. Tê-hin-na là tổ phụ của thị trấn Na-hách [i]. Các người đó gốc Rê-ca.

13 Các con trai của Kê-na là Ốt-ni-ên và Sê-rai-gia. Các con trai của Ốt-ni-ên là Ha-tha và Mê-ô-nô-thai. 14 Mê-ô-nô-thai sinh Óp-ra. Sê-rai-gia sinh Giô-áp.

Giô-áp là tổ tiên của các dân sống trong Thung lũng Thợ Khéo [j], sở dĩ mang tên nầy vì những người sống ở đó đều là các thợ khéo.

15 Ca-lép là con trai của Giê-phu-nê. Các con trai của Ca-lép là Y-ru, Ê-la, và Na-am. Con trai Ê-la là Kê-nát.

16 Các con trai của Giê-ha-lê-lên là Xíp, Xíp-ha, Ti-ra, và A-xa-rên.

17-18 Các con trai của Ê-ra là Giê-the, Mê-rết, Ê-phe, và Gia-lôn. Mê-rết lấy Bi-thia, con gái của vua Ai-cập. Các con của Mê-rết và Bi-thia là Mi-ri-am, Sam-mai, và Ích-ba. Ích-ba sinh Ết-tê-moa. Mê-rết cũng có một người vợ gốc Giu-đa. Bà sinh ra Giê-rết, Hê-be, và Giê-cu-thiên. Giê-rết sinh Ghê-đo. Hê-be sinh Xô-cô. Còn Giê-cu-thiên sinh Xa-noa.

19 Vợ của Hô-đia là em gái Na-ham [k]. Các con trai của vợ Hô-đia là Ết-tê-moa, và cha của Kê-i-la. Kê-i-la xuất thân từ dân Gạt-mít, còn Ết-tê-moa xuất thân từ dân Ma-a-ca-thít. 20 Các con trai của Si-môn là Am-nôn, Rin-na, Bên-Ha-nan, và Ti-lôn. Các con trai của Ích-si là Xô-hết và Bên-Xô-hết.

21-22 Sê-la là con Giu-đa. Các con trai Sê-la là Ê-rơ, La-a-đa, Giô-kim, những người từ Cô-xê-ba, Giô-ách, và Xa-ráp. Ê-rơ sinh Lê-ca. Lê-a-đa sinh Ma-rê-sa và họ hàng của những thợ dệt vải ở Bết-Ách-bia. Giô-ách và Xa-ráp cai trị Mô-áp và Gia-su-bi Lê-hem [l]. Những bút tích của gia đình nầy rất xưa. 23 Các con trai của Sê-la làm thợ gốm. Họ sống ở Nê-ta-im và Ghê-đa-ra và làm việc cho vua.

Các con cái của Xi-mê-ôn

24 Các con trai của Xi-mê-ôn là Nê-mu-ên, Gia-min, Gia-ríp, Xê-ra, và Sa-un. 25 Con trai của Sa-un là Sa-lum. Con trai của Sa-lum là Míp-xam. Con trai Míp-xam là Mích-ma.

26 Con trai của Mích-ma là Ham-mu-ên. Con trai của Ham-mu-ên là Xa-cua. Con trai Xa-cua là Si-mê-i. 27 Si-mê-i có mười sáu con trai và sáu con gái, nhưng anh em ông không có con cho nên gia tộc họ không đông bằng gia tộc Giu-đa.

28 Các con của Si-mê-i sống ở Bê-e-sê-ba, Mô-la-đa, Ha-xa-Su-anh, 29 Binh-ha, Ê-xem, Tô-lát, 30 Bê-tu-ên, Họt-ma, Xiếc-lác, 31 Bết-Mác-ca-bốt, Ha-xa Xu-xim, Bết-Bi-ri, và Sa-a-ra-im. Họ sống trong các thành đó cho đến khi Đa-vít lên ngôi vua. 32 Năm làng gần các thành nầy là Ê-tam, A-in, Rim-môn, Tô-ken, và A-san. 33 Ngoài ra cũng có các làng khác chạy dài đến Ba-a-lát. Đó là nơi họ ở. Họ cũng chép gia phổ của gia đình mình.

34-38 Những người trong danh sách sau đây là trưởng họ hàng: Mê-sô-báp, Giam-léc, Giô-sa con A-ma-xia, Giô-ên, Giê-hu con Giô-si-bia (Giô-si-bia là con của Sê-rai-gia, cháu A-xi-ên), Ê-li-ô-ê-nai, Gia-a-cô-ba, Giê-sô-hai-gia, A-sai-gia, A-đi-ên, Giê-xi-miên, Bê-nai-gia, và Xi-xa. Xi-xa là con Síp-hi, cháu A-lôn. A-lôn là con Giê-đai-gia, cháu Sim-ri. Sim-ri là con Sê-mai-gia.

Các gia đình nầy rất đông con. 39 Họ đi ra ngoài thành Ghê-đo về phía đông thung lũng để tìm đồng cỏ cho gia súc mình. 40 Họ tìm được nhiều đồng cỏ tốt, đất rộng, khoảng khoát và yên tĩnh. Các con cháu của Cham trước kia sống ở đó. 41 Những người trong danh sách trên đây đến định cư ở Ghê-đo trong khi Ê-xê-chia làm vua Giu-đa. Họ đánh dân Ha-mít, phá lều trại của chúng, và đánh dân Mê-u-nít đang sống ở đó, hoàn toàn tiêu diệt dân đó. Cho nên ngày nay không còn dân Mê-u-nít nữa. Rồi họ vào chiếm nơi ấy vì có nhiều đồng cỏ cho bầy chiên.

42 Bê-la-tia, Nê-ra-ria, Rê-phai-gia, và U-xi-ên, các con trai của Y-si, hướng dẫn năm trăm người Xi-mê-ôn đánh các dân sống trong vùng núi Ê-đôm. 43 Họ giết những người A-ma-léc còn sống sót. Từ đó đến nay người Xi-mê-ôn vẫn sống ở Ê-đôm.

Dòng dõi Ru-bên

Ru-bên là con trưởng nam của Ít-ra-en. Đáng lẽ Ru-bên được hưởng một phần ưu tiên dành cho con trưởng nam nhưng ông ăn nằm với vợ lẽ của cha mình. Vì vậy phần ưu tiên đó chuyển sang cho các con trai của Giô-xép (Giô-xép là con trai của Ít-ra-en). Trong gia phổ, Ru-bên không được ghi là con trưởng nam. Giu-đa hùng mạnh hơn các anh em mình cho nên từ gia đình đó xuất thân một lãnh tụ. Nhưng gia đình Giô-xép hưởng các đặc quyền dành cho con trưởng nam. Ru-bên là con trưởng nam của Ít-ra-en. Các con trai Ru-bên là Ha-nóc, Pha-lu, Hết-rôn, và Cạt-mi.

Sau đây là các con của Giô-ên: Sê-mai-gia là con trai Giô-ên. Gót là con trai Sê-mai-gia. Si-mê-i là con trai của Gót. Mi-ca là con trai Si-mê-i. Rê-ai-gia là con trai Mi-ca. Ba-anh là con trai Rê-ai-gia. Bê-ê-ra là con trai Ba-anh. Bê-ê-ra là một lãnh tụ của chi tộc Ru-bên. Tiếc-lác Phi-lê-xe, vua A-xy-ri bắt đày ông đi. Ông bị Tiếc-lác Phi-lê-xe, vua A-xy-ri, bắt đi đày.

Các anh em Giô-ên và họ hàng ông được liệt kê theo thứ tự ghi trong gia phổ: Giê-Y-ên là đầu rồi đến Xa-cha-ri và Bê-la. Bê-la là con trai A-xa. A-xa là con trai Sê-ma, và Sê-ma là con trai Giô-ên. Họ sống trong vùng A-rô-e chạy dài cho đến Nê-bô và Ba-anh Mê-ôn. Dân Bê-la sống về phía đông chạy đến ven sa mạc bên cạnh sông Ơ-phơ-rát vì họ có quá nhiều gia súc nên đất Ghi-lê-át không đủ rộng. 10 Trong khi Sau-lơ làm vua, dân Bê-la đánh nhau với dân Hát-rít và thắng họ. Rồi dân Bê-la vào ở trong các lều của dân Hát-rít toàn vùng phía đông Ghi-lê-át.

Dòng dõi Gát

11 Dân cư thuộc chi tộc Gát sống gần dân Ru-bên. Người Gát sống trong vùng Ba-san chạy dài đến Xa-lê-ca. 12 Giô-ên là lãnh tụ chính, Sa-pham là lãnh tụ thứ nhì, còn Gia-nai và Sa-phát là lãnh tụ vùng Ba-san [m]. 13 Bảy thân nhân trong gia đình họ là Mi-chên, Mê-su-lam, Sê-ba, Giô-rai, Gia-can, Xia, và Ê-be.

14 Họ là con cháu A-bi-hai. A-bi-hai là con trai Hu-ri. Hu-ri là con trai Gia-roa. Gia-roa là con trai Ghi-lê-át. Ghi-lê-át là con trai Mi-chên. Mi-chên là con trai Giê-si-sai. Giê-si-sai là con Gia-đô, và Gia-đô là con Bu-xơ. 15 A-hi là con Áp-đi-ên, Áp-đi-ên là con Gu-ni. A-hi là trưởng gia đình.

16 Người Gát sống ở Ghi-lê-át, Ba-san và các thị trấn xung quanh và ở trên các đồng cỏ trong bình nguyên Sa-rôn chạy dài đến biên giới.

17 Tất cả các tên tuổi trên đây đều được ghi vào gia phổ của Gát trong đời Giô-tham làm vua Giu-đa và Giê-rô-bô-am làm vua Ít-ra-en.

Các binh sĩ thiện chiến

18 Trong các chi tộc Ru-bên, Gát và Ma-na-xe miền đông có bốn mươi bốn ngàn bảy trăm sáu mươi binh sĩ mang thuẫn, gươm và cung tên. Họ có tài đánh giặc. 19 Họ gây chiến cùng dân Hát-rít và các dân Giê-tua, Na-phích, và Nô-đáp. 20 Những người thuộc chi tộc Ma-na-xe, Ru-bên, và Gát cầu xin Thượng Đế giúp mình trong khi đánh nhau nên Ngài giúp họ vì họ tin cậy nơi Ngài. Ngài trao dân Hát-rít cùng những kẻ ở với chúng vào tay họ. 21 Họ chiếm các gia súc của dân Hát-rít: năm mươi ngàn lạc đà, hai trăm năm mươi ngàn chiên, và hai ngàn lừa. Họ cũng bắt một trăm ngàn người. 22 Nhiều người Hát-rít bị giết vì Thượng Đế giúp người Ru-bên, Gát, và Ma-na-xe. Rồi họ sống ở đó cho đến khi người Ba-by-lôn bắt họ mang đi lưu đày.

Chi tộc Ma-na-xe miền Đông

23 Phân nửa chi tộc Ma-na-xe sống trong vùng Ba-san chạy dài đến Ba-anh Hẹt-môn, Xê-nia, và núi Hẹt-môn. Họ trở thành một đám dân đông đảo.

24 Sau đây là các trưởng gia đình: Ê-phe, Y-si, Ê-li-ên, Át-ri-ên, Giê-rê-mi, Hô-đa-via, và Gia-đi-ên. Họ đều là những lãnh tụ mạnh dạn, can đảm, và nổi danh trong gia đình họ. 25 Nhưng họ phạm tội cùng Thượng Đế mà tổ tiên họ đã thờ lạy. Họ bắt đầu bái lạy các thần của dân trong xứ đó tức dân mà Thượng Đế hủy diệt.

26 Nên Thượng Đế của Ít-ra-en khiến Phun, vua A-xy-ri gây chiến. Phun cũng còn có tên là Tiếc-lác Phi-lê-xe. Ông bắt người Ru-bên, Gát và Ma-na-xe miền Đông, đày họ sang Ha-la, Ha-bo, Ha-ra, và vùng gần sông Gô-xan. Từ lúc đó cho đến nay họ sống ở đó.

Footnotes

  1. I Sử Ký 3:5 Sam-mua Hay “Si-mia.” Xem thêm II Sam 5:14.
  2. I Sử Ký 3:5 Bát-sê-ba Bản Hê-bơ-rơ tiêu chuẩn ghi “Bát-sua.”
  3. I Sử Ký 3:6 Ê-li-sua Hay “Ê-li-sa-ma.”
  4. I Sử Ký 3:16 Câu nầy có thể hiểu theo hai cách: “Xê-đê-kia là con của Giê-hô-gia-kim và anh của Giê-hô-gia-kin” hay “Xê-đê-kia là con của Giê-hô-gia-kim và cháu của Giê-hô-gia-kin.”
  5. I Sử Ký 3:21 Giê-sai-gia Hay “Ê-sai.”
  6. I Sử Ký 3:21 Dòng dõi … Sê-ca-nia Bản Hê-bơ-rơ ở chỗ nầy hơi khó hiểu.
  7. I Sử Ký 4:3 người sáng lập Nguyên văn, “cha.” Tức người lập ra thị trấn ấy.
  8. I Sử Ký 4:9 Gia-be Nghĩa là “đau đớn” trong tiếng Hê-bơ-rơ.
  9. I Sử Ký 4:12 Tê-hin-na … Na-hách Hay “Tê-hin-na là người thành lập thị trấn Na-hách.”
  10. I Sử Ký 4:14 Thung lũng Thợ Khéo Nguyên văn, “Ghê Ha-ra-sim.”
  11. I Sử Ký 4:19 Vợ của Hô-đia … Na-ham Bản cổ Hi-lạp ghi “Vợ của Mê-rết là em gái Na-ham. Vợ Mê-rết người miền Giu-đa.”
  12. I Sử Ký 4:21 Giô-ách … Lê-hem Hay “Giô-ách và Xa-ráp lấy vợ là người Mô-áp rồi trở về Bết-lê-hem.”
  13. I Sử Ký 5:12 còn Gia-nai … Ba-san Hay “Gia-nai trở thành lãnh tụ của họ.”

Dòng Dõi của Ða-vít và Sa-lô-môn

Ðây là các con của Ða-vít sinh tại Hếp-rôn: Am-nôn con đầu lòng, mẹ là A-hi-nô-am người Giê-rê-ên; Ða-ni-ên con thứ nhì, mẹ là A-bi-ga-in người Cạt-mên; Áp-sa-lôm con thứ ba, mẹ là Ma-a-ca con gái của Tanh-mai, vua Ghê-sua; A-đô-ni-gia con thứ tư, mẹ là Hắc-ghít; Sê-pha-ti-a con thứ năm, mẹ là A-bi-tanh; Ít-rê-am con thứ sáu, do Éc-la vợ của ông sinh cho ông. Sáu người con đó đều sinh tại Hếp-rôn, nơi ông đã trị vì bảy năm sáu tháng.

Sau đó ông trị vì ba mươi ba năm tại Giê-ru-sa-lem. Ðây là các con của ông sinh tại Giê-ru-sa-lem: Si-mê-a, Sô-báp, Na-than, và Sa-lô-môn. Mẹ của bốn người nầy là Bát Su-a, con gái của Am-mi-ên. Các con khác là Íp-ha, Ê-li-sa-ma, Ê-li-phê-lết, Nô-ga, Nê-phéc, Gia-phia, Ê-li-sa-ma, Ê-li-a-đa, và Ê-li-phê-lết – chín người cả thảy. Tất cả những người đó là con của Ða-vít, không kể các con do các cung phi của ông sinh cho ông, và Ta-ma là em gái của họ.

10 Con trai của Sa-lô-môn là Rê-hô-bô-am; con của Rê-hô-bô-am là A-bi-gia; con của A-bi-gia là A-sa; con của A-sa là Giê-hô-sa-phát; 11 con của Giê-hô-sa-phát là Giô-ram; con của Giô-ram là A-ha-xi-a; con của A-ha-xi-a là Giô-ách; 12 con của Giô-ách là A-ma-xi-a; con của A-ma-xi-a là A-xa-ri-a; con của A-xa-ri-a là Giô-tham; 13 con của Giô-tham là A-kha; con của A-kha là Ê-xê-chia; con của Ê-xê-chia là Ma-na-se; 14 con của Ma-na-se là A-môn; con của A-môn là Giô-si-a.

15 Các con của Giô-si-a là Giô-ha-nan con đầu lòng, Giê-hô-gia-kim con thứ nhì, Xê-đê-ki-a con thứ ba, Sanh-lum con thứ tư. 16 Các con của Giê-hô-gia-kim là Giê-cô-ni-a[a] con của ông, và Xê-đê-ki-a[b] con của ông.

17 Các con của Giê-cô-ni-a, người bị bắt đi lưu đày, là Sê-anh-ti-ên con của ông, 18 Manh-ki-ram, Pê-đai-a, Sê-na-xa, Giê-ca-mi-a, Hô-sa-ma, và Nê-đa-bi-a.

19 Các con của Pê-đai-a là Xê-ru-ba-bên và Si-mê-i.

Các con của Xê-ru-ba-bên là Mê-su-lam và Ha-na-ni-a. Em gái của họ là Sê-lô-mít. 20 Ngoài ra ông còn có năm người con nữa là Ha-su-ba, Ô-hên, Bê-rê-ki-a, Ha-sa-đi-a, và Giu-sáp Hê-sết.

21 Các con của Ha-na-ni-a là Pê-la-ti-a và Giê-sa-gia. Con của Giê-sa-gia là Rê-pha-gia. Con của Rê-pha-gia là Ạc-nan. Con của Ạc-nan là Ô-ba-đi-a. Con của Ô-ba-đi-a là Sê-ca-ni-a.

22 Con cháu của Sê-ca-ni-a gồm Sê-ma-gia và các con của Sê-ma-gia, đó là Hát-túc, I-ganh, Ba-ri-a, Nê-a-ri-a, và Sa-phát, sáu người cả thảy.

23 Các con của Nê-a-ri-a là Ê-li-ô-ê-nai, Hi-ki-a, A-xơ-ri-cam, ba người cả thảy.

24 Các con của Ê-li-ô-ê-nai là Hô-đa-vi-a, Ê-li-a-síp, Pê-la-gia, Ạc-cúp, Giô-ha-nan, Ðê-la-gia, và A-na-ni – bảy người cả thảy.

Dòng Dõi của Giu-đa

Các con của Giu-đa là Pê-rê, Hê-xơ-rôn, Cạt-mi, Hu-rơ, và Sô-banh.

Rê-a-gia con của Sô-banh sinh Gia-hát. Gia-hát sinh A-hu-mai và La-hát. Ðó là những gia tộc của thị tộc Xô-ra-thi.

Ðây là các con của[c] Ê-tam: Giê-rê-ên, Ích-ma, I-bách, và Ha-xê-lên-pô-ni em gái của họ. Pê-nu-ên là cha của Ghê-đô; Ê-xe là cha của Hu-sa.

Ðây là các con của Hu-rơ, con đầu lòng của Ép-ra-tha, cha của Bết-lê-hem.

Ách-sua cha của Tê-cô-a có hai vợ: Hê-la và Na-a-ra.

Na-a-ra sinh cho ông A-hu-xam, Hê-phe, Tê-mê-ni, và Ha-a-hách-ta-ri. Ðó là các con của bà Na-a-ra.

Các con của bà Hê-la là Xê-rết, Ít-ha,[d] và Ết-nan. Cô-xơ sinh A-núp, Xô-bê-ba, và các gia tộc của A-hạc-hên con của Ha-rum.

Gia-bê được tôn trọng hơn các anh em ông. Mẹ ông đặt tên cho ông là Gia-bê; bà nói, “Vì tôi đã sinh nó ra trong đau đớn.” 10 Gia-bê kêu cầu Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên rằng, “Ôi, xin Chúa ban phước cho con và mở rộng bờ cõi con, xin tay Ngài ở với con để phù hộ con, và xin Ngài giữ con khỏi những gì xấu xa gian ác, để con khỏi phải đau buồn.” Ðức Chúa Trời ban cho ông những gì ông cầu xin.

11 Kê-lúp anh của Su-ha sinh Mê-hi-rơ; Mê-hi-rơ là cha của Ếch-tôn.

12 Ếch-tôn sinh Bết Ra-pha, Pa-sê-a, và Tê-hin-na; Tê-hin-na là cha của I-na-hách. Ðó là những người của Rê-cáp.

13 Các con của Kê-na là Ốt-ni-ên, Sê-ra-gia.

Các con của Ốt-ni-ên là Ha-thát và Mê-ô-nô-thai.[e]

14 Mê-ô-nô-thai sinh Ốp-ra.

Sê-ra-gia sinh Giô-áp, ông tổ của Thung Lũng Thợ Thủ Công, vì họ là những thợ thủ công.

15 Các con của Ca-lép con trai Giê-phu-nê là I-ru, Ê-la, và Na-am.

Con của Ê-la là Kê-na.

16 Các con của Giê-ha-lê-lên là Xíp, Xi-pha, Ti-ri-a, và A-sa-rên.

17 Các con của Ê-xơ-ra là Giê-the, Mê-rết, Ê-phe, và Gia-lôn.

Ðây là các con của Bi-thi-a con gái của Pha-ra-ôn mà Mê-rết đã cưới làm vợ. Bà mang thai và sinh cho ông Mi-ri-am, Sam-mai, và Ích-ba cha của Ếch-tê-mô-a. 18 Còn người vợ Giê-hu-đi-gia của ông sinh cho ông Giê-rết cha của Ghê-đô, Hê-be cha của Sô-cô, và Giê-cư-thi-ên cha của Xa-nô-a.

19 Các con của vợ ông Hô-đi-a em gái của Na-ham là tổ tiên của Kê-i-la sinh ra dòng họ Gạc-mi, và Ếch-tê-mô-a sinh ra dòng họ Ma-a-ca-thi.

20 Các con của Si-môn là Am-môn, Rin-na, Bên Ha-nan, và Ti-lôn. Các con của I-si là Xô-hết và Bên Xô-hết.

21 Các con của Sê-la con của Giu-đa là Ê-rơ cha của Lê-ca, Lê-a-đa cha của Ma-rê-sa, và các gia tộc của nghiệp đoàn thợ sản xuất vải gai mịn ở Bết Ách-bê-a, 22 Giô-kim, những người ở Cô-xê-ba, Giô-ách, Sa-ráp, người đã qua Mô-áp cưới vợ nhưng sau đó đã trở về cư ngụ tại Lê-hem – đó là chuyện xưa. 23 Những người ấy là các thợ gốm và là dân cư ở Nê-ta-im và Ghê-đê-ra. Họ sống ở đó với vua để phục vụ vua.

Dòng Dõi của Si-mê-ôn

24 Các con của Si-mê-ôn là Nê-mu-ên, Gia-min, Gia-ríp, Xê-ra, và Sa-un.

25 Các con của Sa-un là Sanh-lum con của ông, Míp-sam con của ông, và Mích-ma con của ông.

26 Các con của Mích-ma là Ha-mu-ên con của ông, Xác-cua con của ông, và Si-mê-i con của ông.

27 Si-mê-i có mười sáu con trai và sáu con gái, nhưng các anh em ông không có nhiều con, và chi tộc của họ không có đông con cái như người Giu-đa. 28 Họ cư ngụ ở vùng Bê-e Sê-ba, Mô-la-đa, Ha-xa Su-anh, 29 Bin-ha, Ê-xem, Tô-la, 30 Bê-thu-ên, Học-ma, Xích-lắc, 31 Bết Mạc-ca-bốt, Ha-xa Su-sim, Bết Bi-ri, và Sa-a-ra-im. Ðó là những thành của họ cho đến khi Ða-vít làm vua. 32 Các thị trấn của họ là Ê-tam, A-in, Rim-môn, Tô-ken, và A-san – năm thành cả thảy, 33 với tất cả các làng mạc trực thuộc các thành ấy chạy dài cho đến Ba-anh. Ðó là những vùng định cư của họ. Họ giữ một sổ danh bộ cho gia phả của họ.

34 Mê-sô-báp, Giam-lếch, Giô-sa con của A-ma-xi-a, 35 Giô-ên, Giê-hu con của Giô-si-bi-a, con của Sê-ra-gia, con của A-si-ên, 36 Ê-li-ô-ê-nai, Gia-a-cô-ba, Giê-sô-ha-gia, A-sa-gia, A-đi-ên, Giê-si-mi-ên, Bê-na-gia, 37 Xi-xa con của Si-phi, con của Anh-lôn, con của Giê-đa-gia, con của Sim-ri, con của Sê-ma-gia.

38 Những người danh tánh được nhắc đến ở trên đều là những người lãnh đạo trong gia tộc của họ, và thị tộc của họ đã tăng trưởng rất nhiều. 39 Họ di chuyển về ngỏ vào của miền Ghê-đô, tức về miền đông của thung lũng, để tìm đồng cỏ cho các bầy súc vật của họ. 40 Nơi đó họ đã tìm được đồng cỏ phì nhiêu, xanh tươi, còn xứ thì rộng rãi, tĩnh mịch, và an lành, vì dân cư sống ở đó trước kia là con cháu của Ham.

41 Những người được kể tên ấy đã đến trong xứ đó vào thời Ê-xê-chia vua Giu-đa. Họ tấn công vào các lều của dân Mê-u-nim đang sống ở đó, tận diệt dân ấy cho đến ngày nay, và định cư trong xứ của dân ấy, bởi vì ở đó có đồng cỏ cho các bầy súc vật của họ. 42 Một số người trong vòng họ, năm trăm người của chi tộc Si-mê-ôn, đã đến Núi Sê-i-rơ dưới sự chỉ huy của Pê-la-ti-a, Nê-a-ri-a, Rê-pha-gia, và U-xi-ên, tức các con của I-si. 43 Họ tiêu diệt những người A-ma-léc đã đến trốn tránh ở đó, rồi sống ở đó cho đến ngày nay.

Dòng Dõi của Ru-bên

Sau đây là các con của Ru-bên con đầu lòng của I-sơ-ra-ên. (Ru-bên tuy là con đầu lòng, nhưng vì ông đã làm ô nhục giường của cha ông, nên quyền trưởng tử của ông đã được ban cho các con của Giô-sép con trai của I-sơ-ra-ên. Ru-bên đã không được ghi vào gia phả theo thông lệ của người có quyền trưởng tử. Ngoài ra Giu-đa đã trở nên nổi bật giữa vòng anh em của ông, và một người lãnh đạo đã ra từ dòng dõi của ông, dù vậy quyền trưởng tử vẫn thuộc về Giô-sép.) Các con của Ru-bên con đầu lòng của I-sơ-ra-ên là Ha-nóc, Panh-lu, Hê-xơ-rôn, và Cạt-mi.

Các con của Giô-ên là Sê-ma-gia con của ông, Gót con của ông, Si-mê-i con của ông, Mi-ca con của ông, Rê-a-gia con của ông, Ba-anh con của ông, và Bê-ê-ra con của ông. Bê-ê-ra là người đã bị Tin-gát Pin-nê-se[f] vua A-sy-ri đem đi lưu đày; ông là thủ lãnh của chi tộc Ru-bên lúc bấy giờ.

Các anh em của ông được liệt kê trong gia phả theo từng thị tộc gồm: đứng đầu là Giê-i-ên, kế đến là Xa-cha-ri-a, rồi Bê-la con của A-xa, con của Sê-ma, con của Giô-ên.

Chi tộc Ru-bên sống ở miền A-rô-ê chạy dài cho đến Nê-bô và Ba-anh Mê-ôn. Con cháu của ông cũng sống lan rộng về hướng đông đến giáp ranh với sa mạc phía bên này Sông Ơ-phơ-rát, bởi vì súc vật của họ sinh sản tăng nhiều trong vùng Ghi-lê-át. 10 Trong thời của Vua Sau-lơ họ đã có chiến tranh với dân Hắc-ri; dân ấy đã bị ngã gục dưới tay họ. Họ chiếm ngụ trong các lều trại của dân ấy khắp vùng phía đông của Ghi-lê-át.

Dòng Dõi của Gát

11 Các con của Gát sống đối ngang với họ trong đất Ba-san lan rộng đến Sa-lê-ca: 12 đứng đầu là Giô-ên, thứ nhì là Sa-pham, kế đến là Gia-nai và Sa-phát ở Ba-san.

13 Các anh em của ông được liệt kê theo từng thị tộc gồm: Mi-ca-ên, Mê-su-lam, Sê-ba, Giô-rai, Gia-can, Xi-a, và Ê-be – bảy người cả thảy.

14 Ðây là các con của A-bi-ha-in con của Hu-ri, con của Gia-rô-a, con của Ghi-lê-át, con của Mi-ca-ên, con của Giê-si-sai, con của Gia-đô, con của Bu-xơ.

15 A-hi con của Áp-đi-ên, con của Gu-ni, là thủ lãnh của chi tộc Gát.

16 Họ sống trong miền Ghi-lê-át, trong xứ Ba-san, trong các thành của xứ đó, trong các đồng cỏ của miền Sa-rôn, và các miền tận cùng các ranh giới của các đồng cỏ đó.

17 Tất cả những người ấy đã đăng bộ theo từng gia phả trong thời của Giô-tham vua Giu-đa và trong thời của Giê-rô-bô-am vua I-sơ-ra-ên.

18 Chi tộc Ru-bên, chi tộc Gát, và phân nửa chi tộc Ma-na-se đã có những chiến sĩ dũng mãnh. Họ thông thạo việc sử dụng khiên và gươm, cung và tên, và họ thật lão luyện trong chiến trường. Họ có bốn mươi bốn ngàn bảy trăm sáu mươi người sẵn sàng ra trận. 19 Họ đánh nhau với các dân Hắc-ri, Giê-tu, Na-phích, và Nô-đáp. 20 Họ nhận được sự giúp đỡ khi đối phó với quân thù. Dân Hắc-ri và tất cả các đồng minh của dân ấy đã bị trao vào tay họ, bởi vì khi lâm trận họ kêu cầu Ðức Chúa Trời. Ngài đã ban cho họ những gì họ cầu xin, vì họ tin cậy Ngài. 21 Họ bắt đi các bầy súc vật của các dân ấy: năm mươi ngàn lạc đà, hai trăm năm mươi ngàn chiên, hai ngàn lừa, và một trăm ngàn tù binh. 22 Nhiều người đã tử trận, bởi vì cuộc chiến ấy thuộc về Ðức Chúa Trời. Họ đã sống trong lãnh thổ của các dân ấy cho đến khi bị lưu đày.

Nửa Chi Tộc Ma-na-se

23 Con cháu của phân nửa chi tộc Ma-na-se đã sống trong xứ. Họ rất đông và định cư từ miền Ba-san cho đến Ba-anh Hẹt-môn, Sê-ni-rơ, và Núi Hẹt-môn.

24 Ðây là những thủ lãnh của các thị tộc của họ: Ê-phe, I-si, Ê-li-ên, A-xơ-ri-ên, Giê-rê-mi, Hô-đa-vi-a, và Gia-đi-ên. Họ là những chiến sĩ dũng mãnh, những người danh tiếng, những người cầm đầu thị tộc của họ. 25 Tuy nhiên họ đã bất trung với Ðức Chúa Trời của tổ tiên họ. Họ làm điếm bằng cách thờ lạy các thần của các dân trong xứ, những kẻ Ðức Chúa Trời đã tiêu diệt trước mặt họ. 26 Vì thế Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên đã dấy động lòng của Pun vua A-sy-ri, tức lòng của Tin-gát Pin-nê-se vua A-sy-ri, và ông ấy đã bắt họ đem đi; đó là các chi tộc Ru-bên, chi tộc Gát, và phân nửa chi tộc Ma-na-se. Ông ấy đã mang họ đến lưu đày ở Ha-la, Ha-bơ, Ha-ra, và bên bờ Sông Gô-xan cho đến ngày nay.

Footnotes

  1. I Sử Ký 3:16 Biến thể của chữ Giê-hô-gia-kin
  2. I Sử Ký 3:16 Trùng tên với chú của ông
  3. I Sử Ký 4:3 Hebrew: các con của cha của Ê-tam
  4. I Sử Ký 4:7 Có bản khác ghi là Xô-ha
  5. I Sử Ký 4:13 Một số bản LXX và Vulgate không có tên ông Mê-ô-nô-thai trong câu nầy
  6. I Sử Ký 5:6 Ông nầy cũng được gọi là Tích-lát Pi-lê-se