Print Page Options

Người Chăn Tốt

10 “Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi, người nào không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo vào bằng lối khác, là kẻ trộm cướp. Nhưng ai đi qua cửa mà vào ràn chiên là người chăn chiên. Người giữ cửa mở cửa cho người ấy, và chiên nhận ra tiếng người ấy. Người ấy gọi tên các chiên mình và dẫn chúng ra ngoài. Khi đàn chiên của người ấy ra hết, người ấy đi trước, và đàn chiên theo sau, vì chúng quen tiếng người ấy. Chiên không đi theo người lạ, nhưng chạy trốn người lạ, vì chúng không quen tiếng người lạ.”

Ðức Chúa Jesus dùng ngụ ngôn này để nói với họ, nhưng họ không hiểu ý nghĩa những điều Ngài nói với họ.

Ðức Chúa Jesus lại nói với họ, “Quả thật, quả thật, Ta nói với các ngươi, Ta là cửa để chiên ra vào. Tất cả những kẻ đã đến trước Ta đều là trộm cướp, và chiên không nghe theo chúng. Ta là cửa; nếu ai bởi Ta mà vào, người ấy sẽ được cứu, và sẽ vào ra và gặp đồng cỏ. 10 Kẻ trộm đến chỉ để lấy cắp, giết hại, và tiêu diệt. Ta đến để chiên được sống và được sống dư dật.

11 Ta là người chăn tốt; người chăn tốt hy sinh tính mạng mình cho chiên. 12 Kẻ chăn thuê chẳng phải là người chăn thật, vì chiên không phải của nó. Khi thấy muông sói đến, nó bỏ chiên chạy trốn. Muông sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tan lạc. 13 Kẻ chăn thuê bỏ chạy, vì nó chỉ làm thuê và không quan tâm đến chiên. 14 Ta là người chăn tốt; Ta biết chiên Ta, và chiên Ta biết Ta, 15 cũng như Cha biết Ta, và Ta biết Cha. Ta hy sinh tính mạng mình cho chiên. 16 Ta còn những chiên khác chưa thuộc về ràn này; Ta cũng phải đưa chúng về, và chúng sẽ nghe tiếng Ta, rồi sẽ chỉ có một đàn chiên và một người chăn.

17 Ðây là lý do tại sao Cha thương yêu Ta; bởi vì Ta phó mạng sống mình để Ta sẽ lấy lại. 18 Không ai cất lấy mạng sống Ta, nhưng Ta tự phó cho. Ta có quyền phó mạng sống mình, và Ta có quyền lấy lại. Mệnh lệnh này Ta đã nhận từ Cha Ta.”

19 Vì những lời ấy người Do-thái lại chia rẽ nhau nữa. 20 Nhiều người giữa họ nói rằng, “Ông ấy bị quỷ ám và điên rồi. Sao các người còn nghe ông ấy làm chi?”

21 Nhưng những người khác lại bảo, “Những lời này đâu phải là lời nói của người bị quỷ ám. Người bị quỷ ám làm sao mở mắt người mù được?”

Người Do-thái Khước Từ Chúa

22 Mùa đông ấy có lễ kỷ niệm đền thờ được cung hiến[a] tại Giê-ru-sa-lem. 23 Ðức Chúa Jesus đi dạo ở Hành Lang Sa-lô-môn trong sân đền thờ. 24 Người Do-thái kéo đến quanh Ngài và nói với Ngài, “Thầy cứ để chúng tôi phân vân mãi cho đến bao giờ? Nếu Thầy là Ðấng Christ, xin nói thẳng cho chúng tôi biết đi.”

25 Ðức Chúa Jesus trả lời họ, “Ta đã nói với các ngươi nhưng các ngươi không tin. Những việc Ta nhân danh Cha Ta thực hiện làm chứng cho Ta. 26 Nhưng các ngươi không tin, vì các ngươi không phải chiên Ta. 27 Chiên Ta nghe tiếng Ta; Ta biết chúng, và chúng theo Ta. 28 Ta ban cho chúng sự sống đời đời. Chúng sẽ không bao giờ chết mất. Không ai sẽ cướp chúng khỏi tay Ta. 29 Cha Ta, Ðấng vĩ đại hơn tất cả, đã ban những chiên ấy cho Ta. Không ai có thể giựt chúng khỏi tay Cha. 30 Ta với Cha là một.”

31 Người Do-thái lại lượm đá để ném Ngài. 32 Ðức Chúa Jesus nói với họ, “Ta đã làm trước mắt các ngươi biết bao việc tốt đẹp của Cha giao; vì việc nào trong các việc đó mà các ngươi muốn ném đá Ta?”

33 Người Do-thái trả lời Ngài, “Không phải vì một việc tốt đẹp nào Thầy làm mà chúng tôi muốn ném đá Thầy, nhưng vì Thầy đã phạm thượng. Thầy chỉ là người mà tự cho mình là Ðức Chúa Trời.”

34 Ðức Chúa Jesus trả lời họ, “Chẳng phải trong Luật Pháp các ngươi chép,

‘Ta nói, “Các ngươi là các thần”’ Thi 82:6

hay sao? 35 Nếu những người được lời Ðức Chúa Trời phán với mà được Ngài gọi là ‘các thần’ –và lời Kinh Thánh không thể bị phế bỏ– 36 thì tại sao các ngươi kết tội Ta, người đã được Cha biệt riêng ra thánh và sai xuống thế gian rằng, ‘Thầy đã phạm thượng’ vì Ta nói, ‘Ta là Con Ðức Chúa Trời’? 37 Nếu Ta không làm những việc của Cha Ta, đừng tin Ta. 38 Nhưng nếu Ta làm, dù các ngươi không tin Ta, hãy tin những việc Ta làm, để các ngươi biết và hiểu rằng Cha ở trong Ta và Ta ở trong Cha.”

39 Vậy họ tìm cách bắt Ngài, nhưng Ngài thoát khỏi tay họ.

Chúa Lui Về Bên Kia Sông Giô-đanh

40 Ngài trở qua bên kia Sông Giô-đanh, nơi Giăng đã làm báp-têm trước kia, và ở lại đó. 41 Nhiều người đến gặp Ngài và nói, “Giăng chẳng làm phép lạ nào, nhưng tất cả những gì Giăng nói về người này đều đúng.” 42 Nhiều người tin Ngài tại đó.

Footnotes

  1. Giăng 10:22 Lễ này được tổ chức hằng năm để mừng ngày họ được độc lập và kỳ niệm Ðền Thờ được thanh tẩy và tái cung hiến từ năm 164 T.C.

Người chăn và bầy chiên

10 Chúa Giê-xu dạy, “Ta bảo thật, kẻ nào không vào ràn chiên bằng cổng chính mà trèo vào bằng ngả khác, là phường trộm cướp. Còn ai đi vào bằng cổng chính là người chăn chiên. Người gác cổng mở cửa cho người chăn. Chiên nghe tiếng người chăn. Người kêu tên từng con chiên của mình rồi dắt chúng ra. Khi đã đưa chiên ra hết, người chăn đi trước, chiên theo sau, vì chiên quen tiếng người ấy. Nhưng chiên sẽ không bao giờ theo người lạ. Chúng sẽ chạy trốn vì chiên không nhận ra tiếng người lạ.” Chúa Giê-xu thuật chuyện nầy cho họ nghe nhưng họ không hiểu ý nghĩa là gì.

Chúa Giê-xu là người chăn tận tụy

Chúa Giê-xu lại dạy dỗ nữa, “Ta bảo thật: Ta là cửa của chiên. Tất cả những kẻ đến trước ta đều là quân trộm cướp nhưng chiên không nghe chúng nó. Ta là cái cửa. Ai đi vào qua cửa của ta sẽ được cứu. Người ấy vào ra và gặp đồng cỏ xanh. 10 Kẻ trộm chỉ đến để đánh cắp, chém giết và hủy diệt. Nhưng ta đến để cho chiên được sống sung túc.

11 Ta là người chăn tận tụy. Người chăn tận tụy bằng lòng hi sinh mạng sống vì chiên. 12 Kẻ chăn thuê khác với người chăn thật vì chiên không phải của nó. Lúc thấy muông sói đến, nó liền bỏ chiên lại và chạy thoát thân. Muông sói cắn xé, làm chiên tản lạc hết. 13 Kẻ chăn thuê chỉ là người làm mướn nên không hết lòng lo cho chiên.

14-15 Ta là người chăn tận tụy. Ta biết chiên ta như Cha biết ta. Chiên ta biết ta như ta biết Cha ta. Ta bằng lòng hi sinh mạng sống vì chiên ta. 16 Ta còn có những chiên khác không thuộc về bầy nầy. Ta cũng phải tìm dẫn chúng về để chúng cũng nghe tiếng ta, và rồi sẽ chỉ có một bầy chiên và một người chăn mà thôi [a]. 17 Cha yêu ta vì ta bằng lòng hi sinh mạng sống mình để ta có thể nhận lại mạng sống ấy. 18 Không ai cướp mạng sống ta được. Ta tình nguyện hi sinh mạng sống mình. Ta có quyền hi sinh mạng sống và có quyền lấy lại. Đó là điều Cha ta bảo ta làm.”

19 Vì những lời ấy nên người Do-thái lại bất đồng ý với nhau. 20 Nhiều người bảo, “Quỉ ám khiến ông ta điên rồi! Sao mấy anh còn nghe ông ta làm gì?”

21 Nhưng kẻ khác cãi, “Người bị quỉ ám mà nói được như người nầy à? Quỉ làm sao mở mắt người mù được?”

Các lãnh tụ Do-thái chống Chúa Giê-xu

22 Vào dịp kỷ niệm Lễ Khánh Thành [b] đền thờ được cử hành tại Giê-ru-sa-lem. Lúc ấy nhằm mùa đông. 23 Chúa Giê-xu đang đi tản bộ dưới vòm cửa Sô-lô-môn trong đền thờ, 24 thì người Do-thái tụ tập quanh Ngài và hỏi rằng, “Thầy để chúng tôi thắc mắc đến bao giờ? Nếu thầy thật là Đấng Cứu Thế xin nói thẳng cho chúng tôi biết.” 25 Chúa Giê-xu đáp, “Ta đã nói với các ngươi rồi mà các ngươi không chịu tin. Những gì ta làm nhân danh Cha đã chứng tỏ ta là ai. 26 Nhưng các ngươi không chịu tin, vì các ngươi không phải là chiên của ta. 27 Chiên ta quen tiếng ta, ta biết chiên ta và chúng nó theo ta. 28 Ta cho chúng nó sự sống đời đời; chúng sẽ không bao giờ chết, cũng không ai có thể giật chúng khỏi tay ta. 29 Cha ta đã cho ta các chiên ấy. Ngài lớn hơn tất cả mọi loài [c], không ai có thể cướp chúng khỏi tay Cha ta. 30 Ta với Cha là một.”

31 Người Do-thái lại lượm đá để ném Ngài. 32 Nhưng Chúa Giê-xu hỏi họ, “Ta đã làm nhiều điều phúc đức từ Cha mà các ngươi đã thấy. Điều phước đức nào khiến các ngươi muốn giết ta?”

33 Người Do-thái đáp, “Không phải chúng tôi giết ông vì những việc phúc đức ông làm mà vì ông phạm thượng. Ông chỉ là người mà dám tự cho mình là Trời!”

34 Chúa Giê-xu đáp, “Luật Lệ các ngươi có viết rằng, ‘Ta bảo, các ngươi là thần’ [d] kia mà. 35 Nếu Thánh Kinh gọi những người nhận lời của Thượng Đế là ‘thần’ và Thánh Kinh bao giờ cũng đúng, 36 thì tại sao các ngươi bảo rằng ta phạm thượng khi ta xưng mình là ‘Con Trời’? Ta là Đấng Cha đã chọn và sai đến thế gian. 37 Nếu ta không làm những điều Cha ta làm thì đừng tin ta. 38 Nhưng nếu ta làm những điều như Cha ta làm thì dù không tin ta cũng hãy tin những việc làm của ta, để các ngươi biết chắc rằng Cha ta ở trong ta và ta ở trong Cha ta.”

39 Một lần nữa họ tìm cách bắt Chúa Giê-xu, nhưng Ngài thoát khỏi tay họ.

40 Sau đó Ngài trở về cư ngụ phía Đông sông Giô-đanh nơi trước đây Giăng làm lễ báp-têm. 41 Nhiều người đến cùng Ngài. Họ bảo, “Giăng không làm phép lạ nào, nhưng tất cả những gì Giăng nói về người nầy đều là thật.” 42 Tại đó có nhiều người tin theo Ngài.

Footnotes

  1. Giăng 10:16 Ta còn có những chiên khác … thôi Chúa Giê-xu muốn nói rằng Ngài có những môn đệ không phải là người Do-thái. Xem Gi 11:52.
  2. Giăng 10:22 Lễ Khánh Thành Đền thờ Hay lễ Ha-nu-ca, một lễ đặc biệt vào tháng chạp khi người Do-thái hân hoan kỷ niệm việc tái thiết đền thờ ở Giê-ru-sa-lem vào năm 165-164 trước công nguyên.
  3. Giăng 10:29 Ngài … mọi loài Vài bản Hi-lạp ghi “Chúng lớn hơn mọi loài.”
  4. Giăng 10:34 Ta bảo … là thần Thi 82:6.

Người Chăn Nhân Từ

10 Thật vậy, Ta bảo các ngươi: “Kẻ nào không bởi cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo từ ngả khác, là kẻ trộm cướp. Còn người bởi cửa mà vào mới là người chăn chiên. Người gác cổng mở cửa cho người chăn và đàn chiên nhận ra tiếng người. Người chăn gọi đích danh từng con chiên mình để dẫn ra ngoài. Khi đã đem chiên ra hết, người chăn đi trước, chiên theo sau, vì chiên quen tiếng người. Chiên không theo người lạ nhưng bỏ chạy, vì chiên không quen tiếng người lạ.” Đức Giê-su dùng ngụ ngôn này nói với họ, nhưng họ không hiểu Ngài ngụ ý gì.

Nên Đức Giê-su tiếp: “Thật vậy, Ta bảo các ngươi: Chính Ta là cửa của chuồng chiên. Tất cả những kẻ đến trước Ta đều là trộm cướp, nhưng chiên không nghe theo họ. Chính Ta là cửa: Ai qua Ta mà vào sẽ được cứu. Người ấy vào, ra và tìm được đồng cỏ. 10 Kẻ trộm chỉ đến để cướp, giết và hủy diệt; còn Ta đã đến để chiên được sống và sống sung mãn.

11 Ta là người chăn nhân từ. Người chăn nhân từ hy sinh tính mạng vì đàn chiên. 12 Kẻ chăn thuê không phải là người chăn; chiên không thuộc về nó, nên thấy muông sói đến nó bỏ chiên chạy trốn; muông sói vồ bắt và đuổi chiên tan lạc. 13 Vì là kẻ chăn thuê, nên nó chẳng quan tâm gì đến chiên.

14 Ta là người chăn nhân từ, Ta biết chiên Ta và chiên Ta biết Ta, 15 cũng như Cha biết Ta và Ta biết Cha vậy. Ta hy sinh tính mạng mình vì chiên. 16 Ta còn có những chiên khác không thuộc bầy này, Ta cũng phải đem chúng về nữa, và chúng sẽ nghe theo tiếng Ta. Như vậy, sẽ chỉ có một đàn chiên và một người chăn. 17 Cha đã yêu thương Ta chính vì Ta chịu hy sinh tính mạng, rồi sau được lấy lại. 18 Không ai lấy được tính mạng Ta, nhưng chính Ta tự hiến. Ta có quyền hy sinh tính mạng và có quyền lấy lại. Đây là mạng lệnh Ta nhận từ Cha Ta.”

19 Người Do Thái lại chia phe nghịch nhau vì những lời ấy. 20 Trong vòng họ có nhiều người nói: “Hắn ta bị quỷ ám, điên rồi, các anh nghe hắn làm gì!” 21 Một số khác lại bảo: “Người bị quỷ ám không thể nói được những lời lẽ ấy? Quỷ làm sao mở mắt người mù?”

22 Lúc ấy nhằm lễ Cung Hiến[a] tại Giê-ru-sa-lem. Trời vào tiết đông, 23 Đức Giê-su đang đi dạo trong khuôn viên đền thờ, dưới hành lang Sa-lô-môn. 24 Người Do Thái tụ họp quanh Ngài mà hỏi: “Ông để chúng tôi hoang mang cho đến bao giờ? Nếu quả thật ông là Chúa Cứu Thế, hãy nói hẳn ra cho chúng tôi đi!”

25 Đức Giê-su đáp: “Ta bảo các ngươi rồi mà các ngươi vẫn không tin! Những công việc Ta nhân danh Cha Ta thực hiện, chính là bằng chứng cho Ta; 26 thế mà các ngươi cũng không tin, chỉ vì các ngươi không phải là chiên của Ta! 27 Chiên Ta nghe tiếng Ta, Ta biết chúng và chúng theo Ta. 28 Ta ban cho chúng sự sống vĩnh phúc, chúng chẳng hư mất bao giờ, và không ai bắt chúng khỏi tay Ta. 29 Cha Ta là Đấng vĩ đại hơn tất cả đã ban cho Ta và không ai có thể bắt nổi chúng khỏi tay Cha.[b] 30 Ta với Cha là một.”

31 Mấy người Do Thái lại lượm đá để ném Ngài. 32 Đức Giê-su bảo họ: “Những việc lành Ta đã làm đều từ Cha mà đến, vậy thì các ngươi ném đá Ta vì việc gì?”

33 Người Do Thái đáp: “Chúng tôi không ném đá ông vì việc lành ông làm nhưng vì ông phạm thượng: Ông là người mà tự cho mình là Đức Chúa Trời!”

34 Đức Giê-su đáp: “Kinh Luật các ngươi chẳng đã có câu: ‘Ta đã phán: Các ngươi là các thần,’ hay sao? 35 Nếu Đức Chúa Trời đã gọi những kẻ được Lời Ngài phán đến là thần và Kinh Thánh không thể bãi bỏ được, 36 thì Đấng được Cha biệt riêng ra thánh và sai đến trần gian chỉ nói: Ta là Con Đức Chúa Trời, tại sao các ngươi tố cáo Người là phạm thượng? 37 Nếu Ta không làm những công việc của Cha Ta, thì các ngươi đừng tin Ta. 38 Còn nếu Ta làm, thì dù các ngươi không tin Ta, hãy tin công việc Ta, để các ngươi hiểu rằng Cha ở trong Ta và Ta ở trong Cha.” 39 Họ lại tìm cách bắt Ngài, nhưng Ngài thoát khỏi tay họ.

40 Ngài lại ra đi, qua bên kia sông Giô-đanh, đến nơi Giăng đã làm phép báp-tem trước đây và ở lại đó. 41 Nhiều người đến với Ngài nói rằng: “Giăng không làm một dấu lạ nào, nhưng mọi điều Giăng đã nói về người này đều đúng cả!” 42 Tại đó có nhiều người tin Ngài.

Footnotes

  1. 10:22 Lễ kỷ niệm dâng hiến đền thờ Giê-ru-sa-lem
  2. 10:29 Một số cổ bản khác chép: Điều gì Cha ban cho ta hùng mạnh hơn cả

The Good Shepherd and His Sheep

10 “Very truly I tell you Pharisees, anyone who does not enter the sheep pen by the gate, but climbs in by some other way, is a thief and a robber.(A) The one who enters by the gate is the shepherd of the sheep.(B) The gatekeeper opens the gate for him, and the sheep listen to his voice.(C) He calls his own sheep by name and leads them out.(D) When he has brought out all his own, he goes on ahead of them, and his sheep follow him because they know his voice.(E) But they will never follow a stranger; in fact, they will run away from him because they do not recognize a stranger’s voice.” Jesus used this figure of speech,(F) but the Pharisees did not understand what he was telling them.(G)

Therefore Jesus said again, “Very truly I tell you, I am(H) the gate(I) for the sheep. All who have come before me(J) are thieves and robbers,(K) but the sheep have not listened to them. I am the gate; whoever enters through me will be saved.[a] They will come in and go out, and find pasture. 10 The thief comes only to steal and kill and destroy; I have come that they may have life,(L) and have it to the full.(M)

11 “I am(N) the good shepherd.(O) The good shepherd lays down his life for the sheep.(P) 12 The hired hand is not the shepherd and does not own the sheep. So when he sees the wolf coming, he abandons the sheep and runs away.(Q) Then the wolf attacks the flock and scatters it. 13 The man runs away because he is a hired hand and cares nothing for the sheep.

14 “I am the good shepherd;(R) I know my sheep(S) and my sheep know me— 15 just as the Father knows me and I know the Father(T)—and I lay down my life for the sheep.(U) 16 I have other sheep(V) that are not of this sheep pen. I must bring them also. They too will listen to my voice, and there shall be one flock(W) and one shepherd.(X) 17 The reason my Father loves me is that I lay down my life(Y)—only to take it up again. 18 No one takes it from me, but I lay it down of my own accord.(Z) I have authority to lay it down and authority to take it up again. This command I received from my Father.”(AA)

19 The Jews who heard these words were again divided.(AB) 20 Many of them said, “He is demon-possessed(AC) and raving mad.(AD) Why listen to him?”

21 But others said, “These are not the sayings of a man possessed by a demon.(AE) Can a demon open the eyes of the blind?”(AF)

Further Conflict Over Jesus’ Claims

22 Then came the Festival of Dedication[b] at Jerusalem. It was winter, 23 and Jesus was in the temple courts walking in Solomon’s Colonnade.(AG) 24 The Jews(AH) who were there gathered around him, saying, “How long will you keep us in suspense? If you are the Messiah, tell us plainly.”(AI)

25 Jesus answered, “I did tell you,(AJ) but you do not believe. The works I do in my Father’s name testify about me,(AK) 26 but you do not believe because you are not my sheep.(AL) 27 My sheep listen to my voice; I know them,(AM) and they follow me.(AN) 28 I give them eternal life,(AO) and they shall never perish;(AP) no one will snatch them out of my hand.(AQ) 29 My Father, who has given them to me,(AR) is greater than all[c];(AS) no one can snatch them out of my Father’s hand. 30 I and the Father are one.”(AT)

31 Again his Jewish opponents picked up stones to stone him,(AU) 32 but Jesus said to them, “I have shown you many good works from the Father. For which of these do you stone me?”

33 “We are not stoning you for any good work,” they replied, “but for blasphemy, because you, a mere man, claim to be God.”(AV)

34 Jesus answered them, “Is it not written in your Law,(AW) ‘I have said you are “gods”’[d]?(AX) 35 If he called them ‘gods,’ to whom the word of God(AY) came—and Scripture cannot be set aside(AZ) 36 what about the one whom the Father set apart(BA) as his very own(BB) and sent into the world?(BC) Why then do you accuse me of blasphemy because I said, ‘I am God’s Son’?(BD) 37 Do not believe me unless I do the works of my Father.(BE) 38 But if I do them, even though you do not believe me, believe the works, that you may know and understand that the Father is in me, and I in the Father.”(BF) 39 Again they tried to seize him,(BG) but he escaped their grasp.(BH)

40 Then Jesus went back across the Jordan(BI) to the place where John had been baptizing in the early days. There he stayed, 41 and many people came to him. They said, “Though John never performed a sign,(BJ) all that John said about this man was true.”(BK) 42 And in that place many believed in Jesus.(BL)

Footnotes

  1. John 10:9 Or kept safe
  2. John 10:22 That is, Hanukkah
  3. John 10:29 Many early manuscripts What my Father has given me is greater than all
  4. John 10:34 Psalm 82:6

10 Verily, verily, I say unto you, He that entereth not by the door into the sheepfold, but climbeth up some other way, the same is a thief and a robber.

But he that entereth in by the door is the shepherd of the sheep.

To him the porter openeth; and the sheep hear his voice: and he calleth his own sheep by name, and leadeth them out.

And when he putteth forth his own sheep, he goeth before them, and the sheep follow him: for they know his voice.

And a stranger will they not follow, but will flee from him: for they know not the voice of strangers.

This parable spake Jesus unto them: but they understood not what things they were which he spake unto them.

Then said Jesus unto them again, Verily, verily, I say unto you, I am the door of the sheep.

All that ever came before me are thieves and robbers: but the sheep did not hear them.

I am the door: by me if any man enter in, he shall be saved, and shall go in and out, and find pasture.

10 The thief cometh not, but for to steal, and to kill, and to destroy: I am come that they might have life, and that they might have it more abundantly.

11 I am the good shepherd: the good shepherd giveth his life for the sheep.

12 But he that is an hireling, and not the shepherd, whose own the sheep are not, seeth the wolf coming, and leaveth the sheep, and fleeth: and the wolf catcheth them, and scattereth the sheep.

13 The hireling fleeth, because he is an hireling, and careth not for the sheep.

14 I am the good shepherd, and know my sheep, and am known of mine.

15 As the Father knoweth me, even so know I the Father: and I lay down my life for the sheep.

16 And other sheep I have, which are not of this fold: them also I must bring, and they shall hear my voice; and there shall be one fold, and one shepherd.

17 Therefore doth my Father love me, because I lay down my life, that I might take it again.

18 No man taketh it from me, but I lay it down of myself. I have power to lay it down, and I have power to take it again. This commandment have I received of my Father.

19 There was a division therefore again among the Jews for these sayings.

20 And many of them said, He hath a devil, and is mad; why hear ye him?

21 Others said, These are not the words of him that hath a devil. Can a devil open the eyes of the blind?

22 And it was at Jerusalem the feast of the dedication, and it was winter.

23 And Jesus walked in the temple in Solomon's porch.

24 Then came the Jews round about him, and said unto him, How long dost thou make us to doubt? If thou be the Christ, tell us plainly.

25 Jesus answered them, I told you, and ye believed not: the works that I do in my Father's name, they bear witness of me.

26 But ye believe not, because ye are not of my sheep, as I said unto you.

27 My sheep hear my voice, and I know them, and they follow me:

28 And I give unto them eternal life; and they shall never perish, neither shall any man pluck them out of my hand.

29 My Father, which gave them me, is greater than all; and no man is able to pluck them out of my Father's hand.

30 I and my Father are one.

31 Then the Jews took up stones again to stone him.

32 Jesus answered them, Many good works have I shewed you from my Father; for which of those works do ye stone me?

33 The Jews answered him, saying, For a good work we stone thee not; but for blasphemy; and because that thou, being a man, makest thyself God.

34 Jesus answered them, Is it not written in your law, I said, Ye are gods?

35 If he called them gods, unto whom the word of God came, and the scripture cannot be broken;

36 Say ye of him, whom the Father hath sanctified, and sent into the world, Thou blasphemest; because I said, I am the Son of God?

37 If I do not the works of my Father, believe me not.

38 But if I do, though ye believe not me, believe the works: that ye may know, and believe, that the Father is in me, and I in him.

39 Therefore they sought again to take him: but he escaped out of their hand,

40 And went away again beyond Jordan into the place where John at first baptized; and there he abode.

41 And many resorted unto him, and said, John did no miracle: but all things that John spake of this man were true.

42 And many believed on him there.