Añadir traducción en paralelo Imprimir Opciones de la página

Tái Lập Sự Thờ Phượng CHÚA

Ðến tháng bảy,[a] sau khi dân hồi cư đã ổn định cuộc sống trong các thành của họ, dân chúng tập họp về Giê-ru-sa-lem như một người. Bấy giờ Giê-sua con của Giô-xa-đắc với bà con dòng họ cùng làm tư tế với ông, và Xê-ru-ba-bên con của Sê-anh-ti-ên và bà con dòng họ ông ấy hiệp nhau xây dựng lại bàn thờ Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, để có thể dâng các của lễ thiêu trên đó, như đã quy định trong luật pháp của Môi-se người của Ðức Chúa Trời. Họ xây dựng lại bàn thờ trên nền cũ của nó. Mặc dù họ sợ các dân tộc chung quanh, họ vẫn dâng các của lễ thiêu lên Chúa, cả lễ buổi sáng lẫn lễ lúc chiều tàn. Họ giữ Lễ Lều Tạm như đã quy định. Họ dâng của lễ thiêu hằng ngày theo số lượng luật lệ đã quy định, như bổn phận phải làm mỗi ngày. Sau đó họ dâng các của lễ thiêu hằng tuần, các của lễ thiêu vào mỗi kỳ trăng mới và vào mỗi đại lễ mà Chúa đã biệt riêng ra thánh hằng năm. Ngoài ra họ cũng dâng các của lễ vào những dịp đặc biệt, khi ai được cảm động tự ý muốn dâng hiến một của lễ cho Chúa. Họ bắt đầu dâng các của lễ thiêu cho Chúa vào ngày mồng một tháng bảy. Lúc đó nền của Ðền Thờ Chúa vẫn chưa được xây dựng lại.

Xây Lại Ðền Thờ

Bấy giờ họ trả tiền cho các thợ hồ và các thợ mộc, cùng thức ăn, thức uống, và dầu cho dân Si-đôn và dân Ty-rơ, để chúng đốn gỗ bá-hương ở Li-băng, đem xuống biển, thả bè trôi xuống Giốp-pa, theo như sắc lệnh của Sy-ru vua Ba-tư đã cấp cho.

Vậy bắt đầu từ tháng hai của năm thứ hai[b] kể từ khi họ hồi hương về đến Ðền Thờ Ðức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem, Giê-ru-ba-bên con của Sê-anh-ti-ên, và Giê-sua con của Giô-xa-đắc, cùng với đồng bào của họ, tức các tư tế, những người Lê-vi, và tất cả những người từ chốn lưu đày trở về đã khởi công xây lại nền Ðền Thờ. Họ lập những người Lê-vi từ hai mươi tuổi trở lên[c] chịu trách nhiệm trông coi công việc xây cất Ðền Thờ Chúa. Vậy Giê-sua, các con của ông, bà con dòng họ của ông, Cát-mi-ên và các con của ông, con cháu của Giê-hu-đa, con cháu của Hê-na-đát, các con của họ, và bà con dòng họ của họ là những người Lê-vi cùng nhau đứng dậy đảm trách việc giám thị các thợ xây dựng Nhà Ðức Chúa Trời.

10 Khi các thợ xây dựng bắt đầu xây lại nền của Ðền Thờ Chúa, các tư tế mặc lễ phục đứng tại vị trí của họ thổi kèn vang lừng để tôn ngợi Chúa, những người Lê-vi con cháu của A-sáp dùng chũm chọe họa theo như Ða-vít vua I-sơ-ra-ên đã chỉ dẫn, 11 trong khi đó ca đoàn ca hát đối đáp với nhau để dâng lời chúc tụng và tạ ơn Chúa, “vì Ngài thật tốt, vì tình thương của Ngài đối với dân I-sơ-ra-ên còn đến đời đời.” Toàn dân đáp lại bằng tiếng reo hò vang dội, để dâng lên lòng biết ơn Chúa, vì nền Ðền Thờ Chúa đã được khởi công xây dựng lại. 12 Nhiều vị tư tế cao niên, các bô lão người Lê-vi, và các cụ trưởng thượng trong các gia tộc –tức những vị cao tuổi đã từng thấy Ðền Thờ trước kia trên nền của nó– đã bật khóc lớn tiếng khi thấy Ðền Thờ được khởi công xây lại; họ khóc to giữa tiếng reo mừng vang dội của đoàn dân đông đảo. 13 Vì thế người ta không thể phân biệt được tiếng reo hò vì vui mừng hay tiếng khóc to vì vui mừng, bởi dân chúng đã reo hò lớn tiếng và tiếng reo hò đã vang vọng thật xa.

Sự Chống Ðối Công Cuộc Xây Dựng Lại Ðền Thờ

Khi những kẻ thù của người Giu-đa và người Bên-gia-min nghe rằng những người bị lưu đày nay đã trở về và đã khởi công xây lại Ðền Thờ Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, chúng đến gặp Xê-ru-ba-bên và các vị trưởng tộc và nói với họ, “Xin cho chúng tôi cùng xây dựng Ðền Thờ với quý vị, vì chúng tôi cũng thờ phượng Ðức Chúa Trời của quý vị như quý vị. Chúng tôi đã dâng các của tế lễ lên Ngài kể từ ngày Ê-sạc-hát-đôn[d] vua A-sy-ri đem chúng tôi đến định cư ở đây.”

Nhưng Xê-ru-ba-bên, Giê-sua, và tất cả các vị trưởng tộc của người I-sơ-ra-ên đáp với họ, “Quý vị sẽ không dự phần gì trong việc xây lại Ðền Thờ cho Ðức Chúa Trời của chúng tôi, nhưng chỉ chúng tôi sẽ xây dựng lại Ðền Thờ cho Chúa, Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, như Sy-ru[e] vua Ba-tư đã truyền cho chúng tôi.”

Bấy giờ dân đã cư ngụ sẵn trong xứ lấy làm bất mãn về quyết định của người Do-thái, vì thế chúng quyết tâm làm cho họ phải lo sợ trong việc tái xây dựng Ðền Thờ. Chúng hối lộ các mưu sĩ để bọn đó ton hót với vua hầu làm ngưng công cuộc tái xây dựng. Do đó công việc đã bị đình trệ suốt triều đại của Sy-ru vua Ba-tư mãi đến triều đại của Ða-ri-út[f] vua Ba-tư.

Chi Tiết về Nỗ Lực Cản Trở Việc Xây Dựng Lại Ðền Thờ

Vào triều đại của A-ha-suê-ru,[g] trong năm ông vừa mới đăng quang, chúng làm một bản cáo trạng gởi lên vu cáo dân Do-thái và Giê-ru-sa-lem.

Trong thời của Ạc-ta-xẹc-xe:[h] Bích-lam, Mít-rê-đát, Ta-bê-ên, và đồng bọn của chúng đã viết một bản cáo trạng tâu với Ạc-ta-xẹc-xe vua Ba-tư. Bản cáo trạng ấy được viết bằng tiếng A-ram và dịch ra từ tiếng A-ram.

Rê-hum tổng trấn và Sim-sai thư ký đã viết một văn thư tố cáo Giê-ru-sa-lem gởi lên Vua Ạc-ta-xẹc-xe với nội dung như sau:

“Rê-hum tổng trấn, Sim-sai thư ký, các quan đồng liêu, các thẩm phán, các khâm sai, các viên chức chính quyền, các nhà lãnh đạo người Ba-tư, các nhà lãnh đạo người Ê-rết, các nhà lãnh đạo người Ba-by-lôn, các nhà lãnh đạo dân Su-san tức dân Ê-lam, 10 và toàn thể các dân mà ngài Ốt-náp-pa vĩ đại và lừng danh đã trục xuất và đem đến định cư trong các thành ở Sa-ma-ri và trong các miền của tỉnh Bên Kia Sông,[i] đồng tấu:” 11 (và đây là bản sao cáo trạng chúng đã gởi):

“Tâu Vua Ạc-ta-xẹc-xe:

Các tôi tớ của hoàng thượng, tức các dân sống trong tỉnh Bên Kia Sông kính lời chào thăm hoàng thượng. Bây giờ 12 chúng thần xin kính trình để hoàng thượng được kính tường:

Bọn Do-thái rời khỏi hoàng thượng đã đến với chúng thần và chúng đã về tới Giê-ru-sa-lem. Hiện nay chúng đang xây dựng lại cái thành phản loạn và gian ác ấy. Chúng sắp sửa xây xong các tường thành và đang xây sửa các nền móng của Ðền Thờ. 13 Kính tâu để hoàng thượng được tường rằng: nếu thành ấy được xây lại xong và các tường thành của nó được hoàn tất, thì chúng sẽ không nộp triều cống, không đóng thuế, và không nộp thuế lưu thông cho hoàng thượng nữa. Như vậy công quỹ của hoàng thượng sẽ bị thiệt thòi. 14 Nay vì chúng thần được hưởng lộc của hoàng thượng,[j] chúng thần không nỡ nhìn thấy hoàng thượng phải bị thiệt hại, vì thế chúng thần đồng kính gởi bản báo cáo nầy lên hoàng thượng. 15 Kính xin hoàng thượng cho lục lại trong văn khố của các tiên vương. Chúng thần tin rằng các văn kiện ấy sẽ cho hoàng thượng thấy rõ thành ấy quả là một thành phản loạn, đã gây nhiều phiền phức cho các tiên vương và các tỉnh, một thành có lịch sử chuyên môn dấy loạn, vì thế nó đã bị hủy diệt. 16 Chúng thần xin quả quyết với hoàng thượng rằng một khi thành ấy được xây lại xong, và các tường thành của nó được hoàn tất, hoàng thượng sẽ bị mất hết cả tỉnh Bên Kia Sông.”

17 Thế là vua ban một sắc lệnh để trả lời:

“Gởi Rê-hum tổng trấn, Sim-sai thư ký, và tất cả các quan chức ở Sa-ma-ri và các miền khác trong tỉnh Bên Kia Sông:

Chào tất cả.

18 Bức thư các ngươi gởi đến ta đã được dịch ra và đọc rõ trước mặt ta. 19 Ta đã truyền cho lục trong văn khố và đã thấy thành ấy quả là thành có thành tích phản loạn chống lại các tiên vương. Thành ấy đúng là cái nôi của sự phản loạn và dấy nghịch. 20 Giê-ru-sa-lem đã từng có các vua hùng cường trị vì ở đó. Dân trong các miền của tỉnh Bên Kia Sông đã từng nộp triều cống, đóng thuế, và nộp thuế lưu thông cho các vua ấy. 21 Nay các ngươi hãy truyền lịnh của ta cho những người ấy rằng chúng phải đình chỉ ngay công việc tái thiết, để thành ấy không được xây dựng lại cho đến khi ta có quyết định mới. 22 Các ngươi khá cẩn thận và chớ lơ đễnh thi hành việc nầy. Tại sao các ngươi để cho vua bị thiệt hại thêm?”

23 Khi bản sao sắc lệnh của vua được đọc cho Rê-hum tổng trấn, Sim-sai thư ký, và bè lũ của chúng, chúng vội vàng kéo đến Giê-ru-sa-lem để gặp người Do-thái và dùng quyền lực cùng vũ lực bắt buộc họ phải đình chỉ ngay công cuộc tái thiết. 24 Vậy công cuộc tái thiết Ðền Thờ Ðức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem đã bị ngưng trệ. Việc ấy đã bị gián đoạn mãi cho đến năm thứ hai[k] của triều đại Ða-ri-út vua Ba-tư.

Ðền Thờ Ðược Tiếp Tục Xây Dựng

Lúc ấy Tiên Tri Ha-gai[l] và Tiên Tri Xa-cha-ri[m] thuộc dòng dõi của I-đô đã nhân danh Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, Ðấng ngự trên họ, để nói tiên tri động viên người Do-thái. Bấy giờ Xê-ru-ba-bên con của Sê-anh-ti-ên và Giê-sua con của Giô-xa-đắc đứng dậy tiếp tục xây dựng lại Nhà Ðức Chúa Trời ở Giê-ru-sa-lem. Họ có các vị tiên tri của Ðức Chúa Trời hỗ trợ.

Lúc đó Tát-tê-nai tổng trấn của tỉnh Bên Kia Sông, cùng với Sê-tha Bô-xê-nia, và đồng bọn của chúng đến nói với họ, “Ai cho phép các ông xây lại Ðền Thờ nầy và tái thiết bức tường nầy?” Chúng cũng hỏi họ, “Ai là những người chủ xướng việc xây dựng nầy?” Nhưng mắt Ðức Chúa Trời của họ đoái xem họ, tức các vị trưởng lão của dân Do-thái, nên họ không chịu bỏ dở công cuộc tái thiết cho đến khi họ gởi bản tường trình tâu với Ða-ri-út và nhận được văn thư phúc đáp của vua bày tỏ quyết định rõ ràng về việc ấy.

Ðây là bản sao bức thư của Tát-tê-nai tổng trấn của tỉnh Bên Kia Sông, cùng với Sê-tha Bô-xê-nia, và đồng bọn của chúng trong tỉnh Bên Kia Sông gởi cho Vua Ða-ri-út. Chúng gởi cho vua một bức thư, nội dung như sau:

“Kính gởi Vua Ða-ri-út:

Kính chúc hoàng thượng được an khang thịnh vượng. Chúng thần xin kính tâu để hoàng thượng được kính tường rằng: Chúng thần đã đến tỉnh Giu-đa, đến Ðền Thờ Ðức Chúa Trời vĩ đại. Dân ở đó đang xây cất Ðền Thờ ấy bằng những khối đá lớn. Các cây đà đã được đặt trên đầu tường. Công việc xây cất ấy được thực hiện một cách rất cần mẫn và đang tiến hành cách tốt đẹp trong tay họ. Chúng thần đã hỏi các trưởng lão của họ và nói với họ thế nầy, ‘Ai cho phép các ông xây lại Ðền Thờ nầy và tái thiết bức tường nầy?’ 10 Chúng thần cũng hỏi họ, ‘Ai là những người chủ xướng việc xây dựng nầy?’ để chúng thần có tên những người cầm đầu của họ mà báo cáo. 11 Nhưng họ đã trả lời với chúng thần như thế nầy, ‘Chúng tôi là tôi tớ của Ðức Chúa Trời, Chủ Tể của trời và đất. Chúng tôi chỉ tái thiết ngôi đền nầy, vốn đã được xây dựng nhiều năm về trước, do một vua vĩ đại của I-sơ-ra-ên đã xây cất và hoàn tất. 12 Nhưng sau đó vì tổ tiên chúng tôi đã chọc giận Ðức Chúa Trời trên trời, nên Ngài đã trao chúng tôi vào tay Nê-bu-cát-nê-xa vua Ba-by-lôn người Canh-đê. Vua ấy đã phá tan ngôi đền nầy, và bắt dân trong xứ đem lưu đày ở Ba-by-lôn. 13 Nhưng trong năm đầu của Sy-ru vua Ba-by-lôn, Vua Sy-ru đã ban một sắc lệnh truyền xây lại Ðền Thờ Ðức Chúa Trời. 14 Ngay cả các khí dụng bằng vàng và bằng bạc của Ðền Thờ Ðức Chúa Trời mà Nê-bu-cát-nê-xa đã lấy ra khỏi Ðền Thờ ở Giê-ru-sa-lem và đem về để trong đền thờ ở Ba-by-lôn cũng đã được Vua Sy-ru lấy ra khỏi đền thờ ở Ba-by-lôn và trao cho một người tên là Sết-ba-xa, người mà vua ấy đã lập làm tổng trấn. 15 Vua ấy đã nói với ông ta, “Hãy lấy các khí dụng nầy và đi, đem để chúng trong Ðền Thờ ở tại Giê-ru-sa-lem. Hãy xây dựng lại Ðền Thờ Ðức Chúa Trời trên chỗ cũ của đền ấy.” 16 Vì thế Sết-ba-xa đã đến và xây dựng lại nền của Ðền Thờ ở Giê-ru-sa-lem. Từ đó đến nay, công việc xây cất ấy vẫn còn diễn tiến, nhưng chưa hoàn tất.’

17 Vậy bây giờ nếu đẹp lòng hoàng thượng, kính xin hoàng thượng cho truy lục trong văn khố của triều đình tại Ba-by-lôn để xem Vua Sy-ru có thật sự ra sắc lệnh xây lại Ðền Thờ Ðức Chúa Trời tại Giê-ru-sa-lem hay không. Sau đó kính xin hoàng thượng cho chúng thần một văn thư xác nhận ý chỉ của hoàng thượng về việc nầy.”

Notas al pie

  1. Ê-xơ-ra 3:1 Khoảng 537 T.C.
  2. Ê-xơ-ra 3:8 Khoảng 536 T.C.
  3. Ê-xơ-ra 3:8 Giảm tuổi vì ít người. Dân 4:3, 30 tuổi; Dân 8:24, sụt xuống 25 tuổi; ở đây chỉ còn 20 tuổi
  4. Ê-xơ-ra 4:2 Ê-sạc-hát-đôn (681-669 T.C.)
  5. Ê-xơ-ra 4:3 Sy-ru (559-530 T.C.)
  6. Ê-xơ-ra 4:5 Ða-ri-út I (522-486 T.C.)
  7. Ê-xơ-ra 4:6 Cũng gọi là Xẹc-xe (486-465 T.C.)
  8. Ê-xơ-ra 4:7 Tức Aïc-ta-xẹc-xe I (465-424 T.C.)
  9. Ê-xơ-ra 4:10 Sông Ơ-phơ-rát
  10. Ê-xơ-ra 4:14 nt: được hưởng muối của hoàng cung
  11. Ê-xơ-ra 4:24 Khoảng 520-519 T.C.
  12. Ê-xơ-ra 5:1 Bắt đầu từ 29-8-520 T.C. (Ha-gai 1:1) cho đến 18-12-520 T.C. (Ha-gai 2:1, 10, 20)
  13. Ê-xơ-ra 5:1 Khoảng tháng 10-11 năm 520 T.C. (Xac 1:1)

Ngôi Mộ Trống

(Mat 28:1-8; Mác 16:1-8; Lu 24:1-10)

20 Ngày thứ nhất trong tuần, Ma-ry Mạc-đa-len đến thăm mộ rất sớm, lúc trời vẫn còn mờ mờ tối; bà thấy tảng đá chận cửa mộ đã bị dời đi. Do đó bà chạy đến gặp Si-môn Phi-rơ và môn đồ kia, người được Ðức Chúa Jesus thương mến, và nói với họ, “Người ta đã đem Chúa ra khỏi mộ, và chúng tôi không biết họ đặt Ngài ở đâu.”

Vậy Phi-rơ và môn đồ ấy đi ra, và họ đi đến mộ. Cả hai cùng chạy, nhưng môn đồ ấy chạy nhanh hơn Phi-rơ và đến mộ trước. Môn đồ ấy cúi xuống, nhìn vào trong, và thấy cuộn vải liệm nằm đó, nhưng không bước vào.

Si-môn Phi-rơ theo đến nơi, ông bước vào trong mộ và thấy cuộn vải liệm nằm đó, còn vải quấn đầu Ngài không nằm chung với cuộn vải liệm, nhưng vẫn còn cuộn lại và ở riêng một nơi. Môn đồ ấy, người chạy đến trước, cũng bước theo vào trong mộ, và khi thấy như thế thì tin. Số là lúc đó họ chưa hiểu Kinh Thánh dạy rằng Ngài phải từ cõi chết sống lại.Lu 24:46; Thi 16:9-11; Ê-sai 53:10-11

10 Sau đó hai môn đồ bước ra và trở về nhà.

Chúa Hiện Ra cho Ma-ry Mạc-đa-len

(Mat 28:9-10; Mác 16:9-11)

11 Tuy nhiên Ma-ry cứ đứng khóc bên ngoài cửa mộ. Bà vừa khóc, vừa cúi xuống, nhìn vào trong mộ. 12 Bà thấy hai vị thiên sứ y phục trắng xóa đang ngồi ở chỗ xác Ðức Chúa Jesus đã nằm, một vị ngồi ở đàng đầu, và một vị ngồi ở đàng chân. 13 Họ hỏi bà, “Này bà,[a] tại sao bà khóc?”

Bà trả lời họ, “Bởi vì người ta đã đem Chúa của tôi đi, và tôi không biết họ để Ngài ở đâu.” 14 Khi nói xong, bà quay lại và thấy Ðức Chúa Jesus đứng đó, nhưng bà không biết đó là Ðức Chúa Jesus.

15 Ðức Chúa Jesus nói với bà, “Này bà, tại sao bà khóc? Bà tìm ai?”

Tưởng Ngài là người làm vườn, bà nói với Ngài, “Thưa ông, nếu ông đã đem Ngài đi, xin nói cho tôi biết ông đã để Ngài ở đâu, để tôi sẽ đến đem Ngài đi.”

16 Ðức Chúa Jesus nói với bà, “Ma-ry!”

Bà quay hẳn người lại và nói với Ngài, “Ra-bu-ni!”[b] nghĩa là ‘Thầy!’

17 Ðức Chúa Jesus bảo bà, “Ðừng đụng vào Ta, [c] vì Ta chưa lên cùng Cha, nhưng hãy đi gặp các anh em Ta và nói cho họ biết rằng Ta phải lên cùng Cha Ta và Cha các ngươi, cùng Ðức Chúa Trời của Ta và Ðức Chúa Trời của các ngươi.”

18 Ma-ry Mạc-đa-len đi và loan báo với các môn đồ, “Tôi đã gặp Chúa,” và kể lại những lời Ngài đã nói với bà.

Chúa Hiện Ra cho Các Môn Ðồ

(Mat 28:16-20; Mác 16:14-18; Lu 24:36-49)

19 Chiều tối hôm đó, ngày thứ nhất trong tuần, các cửa nơi các môn đồ đang ở đều đóng chặt, vì sợ người Do-thái, Ðức Chúa Jesus đến, đứng chính giữa họ, và nói, “Bình an cho các ngươi!”

20 Nói xong Ngài đưa hai tay và hông Ngài cho họ xem. Các môn đồ mừng rỡ vô cùng khi thấy Chúa. 21 Ðức Chúa Jesus lại nói với họ, “Bình an cho các ngươi! Như Cha đã sai Ta, Ta cũng sai các ngươi.”

22 Nói xong Ngài hà hơi trên họ và phán với họ, “Hãy nhận lãnh Ðức Thánh Linh. 23 Nếu các ngươi tha tội ai, tội người ấy được tha. Nếu các ngươi cầm tội ai, tội của người ấy bị cầm lại.”

Chúa và Thô-ma

24 Nhưng Thô-ma cũng gọi là Ði-đim,[d] một trong nhóm mười hai môn đồ, không có mặt với họ lúc Ðức Chúa Jesus hiện đến. 25 Vì vậy khi các môn đồ nói với ông, “Chúng tôi đã thấy Chúa,” ông trả lời họ, “Nếu tôi không thấy dấu đinh trong hai bàn tay Ngài, nếu tôi không đặt ngón tay tôi vào chỗ có dấu đinh, và đặt bàn tay tôi vào hông Ngài, tôi sẽ không tin.”

26 Tám ngày sau, các môn đồ lại họp nhau trong nhà, Thô-ma cũng có mặt với họ. Khi các cửa đang đóng, Ðức Chúa Jesus hiện đến, đứng chính giữa họ, và phán, “Bình an cho các ngươi!” 27 Ðoạn Ngài nói với Thô-ma, “Hãy để ngón tay ngươi vào đây và hãy xem hai bàn tay Ta, cũng hãy đưa bàn tay ngươi ra và đặt vào hông Ta. Ðừng vô tín, nhưng hãy tin.”

28 Thô-ma trả lời và nói với Ngài, “Lạy Chúa của con và Ðức Chúa Trời của con!”

29 Ðức Chúa Jesus nói với ông, “Vì ngươi đã thấy Ta, nên ngươi tin. Phước cho những người chẳng hề thấy mà tin!”

Mục Ðích của Sách

30 Ðức Chúa Jesus đã làm nhiều phép lạ khác trước mặt các môn đồ Ngài nhưng không được chép trong sách này. 31 Nhưng những việc này được chép ra để các người tin rằng Ðức Chúa Jesus chính là Ðấng Christ, Con Ðức Chúa Trời, và để khi tin các người có sự sống trong danh Ngài.

Notas al pie

  1. Giăng 20:13 nt: người đàn bà (2:4; 4:21; 8:10; 19:26; 20:15) [tương tự trong câu 15]
  2. Giăng 20:16 “Ra-bu-ni” là tiếng A-ram
  3. Giăng 20:17 ctd: Ðừng ôm lấy Ta
  4. Giăng 20:24 Ði-đim nghĩa là “Con Sinh Ðôi”