Add parallel Print Page Options

Tội lỗi diễn ra ở đền thờ

Ngày năm, tháng sáu, năm thứ sáu [a] của thời kỳ chúng tôi bị lưu đày, tôi đang ngồi trong nhà có các bô lão Giu-đa khác đang ngồi trước mặt tôi thì tôi cảm biết quyền năng của Chúa là Thượng Đế. Tôi thấy có vật gì giống thân người. Từ hông trở xuống giống như lửa, từ hông trở lên sáng như sắt nung đỏ [b]. Nó giơ ra vật gì giống như bàn tay và nắm lấy tóc tôi. Thần Linh [c] nhấc bổng tôi lên giữa trời và đất. Qua sự hiện thấy của Thượng Đế, người đưa tôi đến Giê-ru-sa-lem, vào cổng phía Bắc nơi sân trong của đền thờ. Trong sân đó có một hình tượng khiến Thượng Đế ganh tức. Tôi thấy vinh quang của Thượng Đế của Ít-ra-en ở đó giống như tôi đã thấy trong đồng trống.

Rồi người bảo tôi, “Hỡi con người [d], bây giờ hãy nhìn về phía Bắc.” Cho nên tôi nhìn về phía Bắc và nơi cổng Bắc của bàn thờ có một pho tượng khiến Thượng Đế ganh tức.

Người hỏi tôi, “Hỡi con người, ngươi có thấy chúng đang làm gì không? Ngươi có thấy bao nhiêu điều gớm ghiếc mà dân Ít-ra-en đang làm ở đây để xua đuổi ta đi xa khỏi đền thờ ta không? Nhưng ngươi sẽ còn thấy nhiều điều gớm ghiếc hơn thế nầy nữa.”

Rồi người mang tôi vào nơi lối vào của sân. Tôi nhìn thì thấy một lỗ hổng nơi vách. Người bảo tôi, “Nầy con người, hãy đào qua vách.” Vậy tôi đào qua vách thì thấy một lỗ trống.

Người tiếp, “Hãy đi vào xem những điều gớm ghiếc mà chúng đang làm ở đây.” 10 Vậy tôi đi vào và nhìn thì thấy đủ loài bò sát [e] và súc vật gớm ghiếc cùng mọi hình tượng của dân Ít-ra-en khắc tứ phía trên vách. 11 Đứng trước mặt các hình khắc và thần tượng đó là bảy mươi bô lão của Ít-ra-en cùng với Gia-a-xa-nia, con Sa-phan. Mỗi người cầm lư hương trong tay và khói thơm của trầm hương bay tỏa lên nghi ngút. 12 Rồi người bảo tôi, “Con người, ngươi thấy các bô lão Ít-ra-en đã làm gì trong bóng tối chưa? Ngươi có thấy mỗi người ở trong phòng riêng với thần tượng mình không? Chúng nói, ‘CHÚA không thấy chúng ta. CHÚA đã lìa bỏ xứ này rồi.’” 13 Người cũng bảo tôi, “Ngươi sẽ còn thấy nhiều điều gớm ghiếc hơn những điều chúng đang làm nữa.” 14 Rồi người mang tôi vào cổng Bắc của đền thờ CHÚA, ở đó tôi thấy các người đàn bà ngồi than khóc cho Tam-mu [f].

15 Người bảo tôi, “Hỡi con người, ngươi có thấy không? Ngươi sẽ còn thấy nhiều điều gớm ghiếc hơn thế nầy nữa.”

16 Rồi người mang tôi vào sân trong của đền thờ. Ở đó tôi thấy khoảng hai mươi lăm người đàn ông đang ngồi nơi cửa vào đền thờ CHÚA, ở giữa vòm cung và bàn thờ. Họ xây lưng vào đền thờ, mặt hướng về phía Đông và đang bái lạy mặt trời phía Đông.

17 Người hỏi tôi, “Hỡi con người, ngươi thấy chưa? Những điều gớm ghiếc mà dân Giu-đa đang làm so với điều chúng làm ở đây mà không quan trọng sao? Chúng làm cho xứ tràn ngập cảnh bạo động và cứ chọc giận ta. Xem đó, chúng tìm mọi cách để chọc giận ta [g]. 18 Cho nên ta sẽ ra tay trong cơn thịnh nộ ta. Ta sẽ không thương tiếc. Cho dù chúng la lớn trước mặt ta, ta cũng chẳng thèm để ý.”

Các sứ giả của Thượng Đế trừng phạt Giê-ru-sa-lem

Rồi người hét vào lỗ tai tôi, “Hỡi các ngươi là người đã được chọn để trừng phạt thành nầy, hãy mang vũ khí đến gần đây.” [h] Liền có sáu người từ phía cổng trên, hướng về phía Bắc đi đến, tay mỗi người cầm vũ khí bén nhọn. Trong đám họ có một người mặc áo quần bằng vải gai mịn [i], bên hông đeo bộ bảng viết [j]. Các người đó vào và đứng bên cạnh bàn thờ bằng đồng.

Rồi vinh quang của Thượng Đế Ít-ra-en cất lên phía trên các con thú có cánh, đến chỗ trong đền thờ nơi cửa mở ra. Người gọi người mặc áo quần bằng vải gai mịn có bộ bảng viết bên hông. Người bảo người đó, “Hãy đi qua Giê-ru-sa-lem và đánh dấu lên trán những người đã than khóc về những điều gớm ghiếc đang diễn ra giữa chúng.”

Khi tôi đang nghe thì người bảo các người kia, “Hãy đi qua khắp thành sau lưng người mặc áo quần bằng vải gai mịn và chém giết. Đừng tội nghiệp hay thương hại ai cả. Hãy giết và tiêu diệt ông già, bà cả, thanh niên, thiếu nữ, trẻ con, nhưng đừng đụng đến ai có dấu trên trán. Hãy bắt đầu từ đền thờ ta.” Vậy họ bắt đầu từ các bô lão đang đứng trước mặt đền thờ.

Rồi người bảo các người đó, “Hãy làm ô uế đền thờ và chất các xác chết đầy sân. Hãy ra đi!” Vậy họ ra đi và sát hại dân chúng trong thành. Trong khi họ đang chém giết dân chúng thì tôi còn lại một mình. Tôi cúi sấp mặt xuống đất và kêu lên, “Ôi, CHÚA là Thượng Đế ôi! Ngài sẽ tiêu diệt hết mọi người còn sống sót trong Ít-ra-en khi Ngài đổ cơn thịnh nộ mình trên Giê-ru-sa-lem sao?” Rồi người bảo tôi, “Tội lỗi của dân Ít-ra-en và Giu-đa lớn lắm. Đất đầy dẫy bọn sát nhân, thành đầy dẫy việc bất công. Dân chúng nói, ‘CHÚA đã lìa khỏi xứ nầy rồi, Ngài không còn thấy gì nữa cả.’ 10 Nhưng ta sẽ không thương tiếc, không tỏ lòng tội nghiệp. Ta sẽ báo trả điều ác lên trên đầu chúng.”

11 Rồi người mặc quần áo bằng vải gai mịn có đeo bộ bảng viết bên hông báo cáo, “Tôi đã thi hành xong mệnh lệnh của ông.”

Than lửa đỏ

10 Rồi tôi nhìn thì thấy có một cái vòm [k] trên đầu các con thú giống như bích ngọc tựa như một cái ngai. CHÚA phán cùng người đang mặc áo vải gai mịn [l] rằng, “Hãy đi đến khu giữa các bánh xe [m] dưới các con thú, bụm tay đầy than lửa giữa các con thú và rải than lên khắp thành.”

Trong khi tôi nhìn thì người mặc áo vải gai mịn đi vào. Bấy giờ các con thú đang đứng ở phía Nam [n] của thành khi người đó bước vào. Có một đám mây bao phủ sân trong của đền thờ. Rồi vinh quang của CHÚA cất lên từ các con thú và dừng trên cửa đền thờ. Đền thờ đầy mây, còn sân cũng sáng rực vinh quang của CHÚA. Tiếng đập cánh của các con thú vang xa tận bên sân ngoài. Âm thanh ấy giống như tiếng phán của Thượng Đế Toàn Năng.

Rồi CHÚA truyền cho người mặc áo gai mịn như sau, “Hãy lấy lửa từ giữa các bánh xe, giữa các con thú,” thì người đó đi vào đứng bên một trong các bánh xe. Một con thú thò tay ra trên lửa ở giữa các con thú, lấy một ít và trao cho người mặc áo vải gai mịn. Người đó lấy lửa xong rồi đi ra.

Các bánh xe và các con thú

Bên dưới cánh của các con thú có vật gì giống cánh tay người thò ra. Tôi thấy bốn bánh xe bên cạnh các con thú, mỗi bánh bên cạnh mỗi con thú. Bánh xe sáng chói như hoàng ngọc. 10 Bốn bánh xe đều giống nhau: Mỗi bánh giống như bánh lồng vào trong bánh khác. 11 Khi các bánh xe di chuyển thì chúng đi theo hướng mà bốn con thú quay mặt. Các bánh xe không quay qua quay lại, và bốn con thú khi di chuyển cũng không quay mình. 12 Toàn thân, lưng, tay, cánh và các bánh xe đều đầy con mắt. Mỗi con thú có một bánh xe. 13 Tôi nghe các bánh xe đó gọi là “bánh xe quay tít.”

14 Mỗi con thú có bốn mặt. Mặt đầu tiên là mặt con thú có cánh [o]. Mặt thứ nhì là mặt người, mặt thứ ba là mặt sư tử, và mặt thứ tư là mặt chim ưng. 15 Rồi các con thú bay lên. Đó chính là các con thú mà tôi thấy bên bờ sông Kê-ba [p].

16 Khi các con thú di chuyển thì các bánh xe cũng lăn kề bên. Khi các con thú cất cánh để bay lên khỏi đất thì các bánh xe cũng đi kề bên. 17 Khi các con thú dừng lại thì các bánh xe cũng dừng. Khi các con thú bay lên, thì các bánh xe cũng cất lên vì thần linh [q] của các con thú ở trong các bánh xe.

18 Rồi vinh quang của CHÚA rời khỏi cửa đền thờ và dừng lại trên các con thú. 19 Trong khi tôi nhìn thì các con thú giương cánh bay lên khỏi đất, có các bánh xe kề bên. Chúng dừng nơi cổng Đông của đền thờ mở ra, và vinh hiển của Thượng Đế của Ít-ra-en ngự trên chúng.

20 Đó là các con thú mà tôi nhìn thấy bên dưới Thượng Đế của Ít-ra-en nơi bờ sông Kê-ba. Tôi biết các con thú đó gọi là chê-ru-bim. 21 Mỗi con có bốn mặt và bốn cánh, và dưới cánh của chúng có vật gì giống các bàn tay người thò ra. 22 Mặt của chúng giống như mặt tôi đã thấy bên bờ sông Kê-ba. Mỗi con thú đi thẳng trước mặt.

Footnotes

  1. Ê-xê-ki-ên 8:1 năm thứ sáu Đây là mùa thu năm 592 trước Công nguyên.
  2. Ê-xê-ki-ên 8:2 sắt nung đỏ Tiếng Hê-bơ-rơ có thể nghĩa là “đồng nấu chảy,” hay “hợp kim vàng và bạc.”
  3. Ê-xê-ki-ên 8:3 Thần Linh Hay “gió.”
  4. Ê-xê-ki-ên 8:5 con người Một danh hiệu có nghĩa là “người” hay “con người.” Ở đây là cách xưng hô với Ê-xê-chiên. Xem câu 6, 7, 12, 15, 17.
  5. Ê-xê-ki-ên 8:10 loài bò sát Tiếng Hê-bơ-rơ có thể chỉ con “cắc kè,” “con rắn,” hoặc “các loại côn trùng.”
  6. Ê-xê-ki-ên 8:14 Tam-mu Dân chúng tin rằng thần giả nầy chết, vợ ông ta là Ích-ta yêu cầu mọi người buồn thảm và khóc với bà ta vì bà tin rằng làm như thế sẽ khiến ông thần nầy sống lại. Tập tục khóc nầy thường diễn ra vào ngày hai của tháng tư (tức tháng 6-7 dương lịch). Tháng ấy gọi là tháng Tam-mu vì lý do vừa kể.
  7. Ê-xê-ki-ên 8:17 Xem đó … chọc giận ta Hay “Chúng đeo vòng vào mũi để tôn thờ mặt trăng như thần giả!”
  8. Ê-xê-ki-ên 9:1 “Hỡi các ngươi … gần đây.” Trong tiếng Hê-bơ-rơ thì câu nầy cũng giống như 8:11.
  9. Ê-xê-ki-ên 9:2 vải gai mịn Các thầy tế lễ thường mặc áo quần bằng loại vải nầy.
  10. Ê-xê-ki-ên 9:2 bộ bảng viết Học giả là người sao chép các văn kiện chính thức và giữ sổ tổng kê vật liệu và dụng cụ. Họ mang theo một bảng viết nhỏ, bình mực và một cây viết. Họ chấm mực để viết. Xem câu 11.
  11. Ê-xê-ki-ên 10:1 cái vòm Tiếng Hê-bơ-rơ dùng ở đây cũng giống như trong Sáng 1:6-7 để mô tả bầu trời. Có khi gọi là “cái bát úp ngược.”
  12. Ê-xê-ki-ên 10:2 vải gai mịn Các thầy tế lễ thường hay mặc áo quần may bằng loại vải nầy.
  13. Ê-xê-ki-ên 10:2 khu giữa các bánh xe Tiếng Hê-bơ-rơ ở đây có thể nghĩa là “bánh xe quân xa,” “bánh xe lăn,” hay “cỏ khô cuốn tròn.” Xem chương 1 để thấy Ê-xê-chiên mô tả rõ ràng hơn. Xem thêm câu 6.
  14. Ê-xê-ki-ên 10:3 phía Nam Nguyên văn, “bên phải.”
  15. Ê-xê-ki-ên 10:14 con thú có cánh Đây là mặt của con bò đực được nói đến trong Ê-xê 1:10. Xem Ê-xê 10:22.
  16. Ê-xê-ki-ên 10:15 thấy bên bờ sông Kê-ba Xem Ê-xê 1.
  17. Ê-xê-ki-ên 10:17 thần linh Hay “gió.”

Những Thứ Gớm Ghiếctrong Ðền Thờ

Vào ngày mồng năm, tháng sáu, năm thứ sáu, khi tôi đang ngồi trong nhà, có các vị trưởng lão của dân Giu-đa đang ngồi trước mặt tôi, tay của Chúa Hằng Hữu đè nặng trên tôi ngay tại đó. Tôi nhìn, và kìa, có một hình dáng trông giống như một người bằng lửa; từ ngang lưng người ấy trở xuống trông giống như lửa; từ ngang lưng trở lên trông giống như hào quang rực sáng, giống như ánh sáng màu hổ phách lóng lánh. Ðoạn một cái gì có hình thù giống như một bàn tay từ người đó đưa ra, nắm lấy tóc trên đầu tôi. Thần cất tôi lên lơ lửng giữa đất và trời, và mang tôi về Giê-ru-sa-lem trong khải tượng của Ðức Chúa Trời, đem tôi đến cổng hướng bắc của sân trong đền thờ, nơi người ta dựng một tượng thần ghen tương khiến cho ghen tương. Và kìa, ngay tại đó, vinh quang của Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên tỏa rạng, giống như trong khải tượng tôi đã thấy trong thung lũng.

Bấy giờ, Ngài phán với tôi, “Hỡi con người, bây giờ hãy ngước mắt lên và nhìn về hướng bắc.”

Tôi ngước mắt lên và nhìn về hướng bắc; và kìa, nơi cổng bắc để vào nơi có bàn thờ, kề bên lối vào, có một tượng thần ghen tương đứng sờ sờ ở đó. Ngài phán với tôi, “Hỡi con người, ngươi có thấy chúng đang làm gì chăng? Ngươi có thấy trọng tội gớm ghiếc nhà I-sơ-ra-ên đã phạm ở đây khiến Ta phải lìa xa nơi thánh của Ta chăng? Nhưng chưa hết đâu; hãy quay lại đây, ngươi sẽ thấy những điều còn gớm ghiếc hơn nữa.”

Sau đó Ngài đem tôi đến cổng vào sân đền thờ. Tôi nhìn, và kìa, có một lỗ hổng trên tường. Ngài phán với tôi, “Hỡi con người, bây giờ hãy phá lớn lỗ hổng ấy để chui qua tường.”

Tôi phá lớn lỗ hổng ấy, và kìa, có một lối vào. Ngài phán với tôi, “Hãy vào và xem những điều xấu xa gớm ghiếc chúng làm ở đây.”

10 Tôi vào và thấy, kìa, đầy trên mặt tường chung quanh đền, người ta đã chạm khắc các hình dáng của mọi loài bò sát, các thú vật gớm ghiếc, và mọi thần tượng của nhà I-sơ-ra-ên. 11 Ðứng trước các hình tượng đó là bảy mươi trưởng lão của nhà I-sơ-ra-ên, có Gia-a-xa-ni-a con của Sa-phan đứng giữa họ. Người nào cũng cầm lư hương của mình trong tay, và khói hương nghi ngút từ các lư hương đó bay lên. 12 Ngài phán với tôi, “Hỡi con người, ngươi có thấy những gì các trưởng lão của nhà I-sơ-ra-ên đang làm trong bóng tối, mỗi người đều làm trong phòng riêng của chúng, phòng có khắc đầy các hình tượng gớm ghiếc đó chăng? Chúng nói, ‘Chúa không thấy chúng ta đâu, vì Chúa đã bỏ đất nước của chúng ta rồi.’”

13 Ngài lại phán với tôi, “Ngươi sẽ còn thấy những điều gớm ghiếc hơn những gì chúng đang làm.”

14 Kế đó, Ngài đem tôi đến cổng bắc của nhà Chúa, tại đó có các bà đang ngồi khóc lóc cầu xin Thần Tam-mu.[a] 15 Ngài phán với tôi, “Hỡi con người, ngươi có thấy điều ấy chăng? Ngươi sẽ còn thấy những điều gớm ghiếc hơn các điều ấy nữa.”

16 Sau đó Ngài đem tôi vào sân trong của nhà Chúa. Tại đó, nơi lối vào đền thờ Chúa, trong sân ở khoảng giữa hành lang phía trước và bàn thờ, có hai mươi lăm người đàn ông đang xây lưng về đền thờ Chúa, mặt hướng về phía đông; họ sụp lạy mặt trời ở phương đông. 17 Ngài phán với tôi, “Hỡi con người, ngươi thấy điều đó chăng? Nhà Giu-đa đã phạm những điều gớm ghiếc ấy ở đây mà vẫn chưa đủ sao? Sao chúng còn làm cho đất nước nầy đầy dẫy sự bạo ngược, rồi quay lại chọc giận Ta thêm? Này, chúng đã để một nhánh cây ngang mũi chúng rồi. 18 Vì thế, Ta sẽ đối xử với chúng theo cơn giận của Ta. Mắt Ta sẽ không đoái thương chúng. Ta sẽ không thương xót chúng. Dù chúng có khóc lóc van xin lớn tiếng vào tai Ta, Ta cũng sẽ không nghe chúng.”

Diệt Trừ Những Kẻ Thờ Thần Tượng

Bấy giờ tai tôi nghe Ngài nói lớn tiếng rằng, “Hỡi các ngươi, những kẻ có nhiệm vụ thi hành hình phạt trong thành, hãy lại gần đây. Mỗi người hãy cầm sẵn khí giới để tiêu diệt.”

Sáu người từ hướng cổng thượng ở phía bắc bước tới, ai nấy đều cầm vũ khí giết người. Trong số các người ấy có một người mặc y phục bằng vải gai mịn, bên hông đeo cái tráp đựng bút mực. Họ đi vào và đứng bên cạnh bàn thờ bằng đồng.

Bấy giờ vinh quang của Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, vốn ngự từ chê-rúp, cất lên và đến ngự tại ngưỡng cửa đền thờ. Ngài gọi người mặc y phục bằng vải gai mịn, bên hông đeo cái tráp đựng bút mực, và bảo người ấy, “Hãy đi khắp thành, đi khắp các nơi trong Giê-ru-sa-lem, và đánh dấu trên trán những kẻ nào than thở và rên rỉ về mọi điều gớm ghiếc đã xảy ra trong thành.” Tôi nghe Ngài phán với những người còn lại, “Hãy đi theo người ấy khắp thành và chém giết. Mắt các ngươi chớ bỏ sót ai. Các ngươi chớ thương xót ai. Các ngươi phải giết hết, người già, người trẻ, thiếu nữ, trẻ em, và phụ nữ, nhưng các ngươi chớ đụng đến những người có dấu trên trán. Các ngươi hãy bắt đầu ngay từ nơi thánh của Ta.” Vậy họ bắt đầu giết các trưởng lão đang ở trước đền thờ. Ngài phán với họ, “Cứ làm cho đền thờ nầy ra ô uế đi. Hãy làm cho các sân đền thờ đầy những xác người bị giết. Hãy đi đi!” Vậy họ đi ra và vào trong thành để giết.

Trong khi họ giết và chỉ một mình tôi còn lại, tôi sấp mặt xuống đất và kêu cầu lớn tiếng, “Ôi lạy Chúa Hằng Hữu! Chẳng lẽ Ngài sẽ tiêu diệt mọi người còn lại của I-sơ-ra-ên khi Ngài trút đổ cơn thịnh nộ của Ngài trên Giê-ru-sa-lem sao?”

Ngài phán với tôi, “Tội lỗi của nhà I-sơ-ra-ên và nhà Giu-đa đã quá lớn. Ðất nước nầy đầy máu người chết oan, còn đô thành đầy những điều gian ác đồi trụy, vì chúng bảo rằng, ‘Chúa đã bỏ đất nước của chúng ta rồi, Chúa không thấy đâu.’ 10 Vì thế về phần Ta, mắt Ta sẽ không bỏ qua, và Ta sẽ không thương xót chúng, nhưng Ta sẽ giáng trên đầu chúng những điều xấu xa tội lỗi chúng đã làm.”

11 Bấy giờ người mặc y phục bằng vải gai mịn, bên hông đeo cái tráp đựng bút mực, trở lại và thưa, “Con đã làm xong những gì Ngài truyền cho con.”

Vinh Quang của Ðức Chúa Trời Rời Khỏi Giê-ru-sa-lem

10 Bấy giờ tôi nhìn, và kìa, trên vòm phía trên đầu của các chê-ru-bim có cái gì như lam bảo ngọc, hình dáng giống như một cái ngai. Ngài phán với người mặc y phục bằng vải gai mịn, “Hãy đi vào bên trong các bánh xe đang quay dưới chân các chê-ru-bim; hãy lấy hai tay ngươi bụm đầy những than lửa hực đang cháy ở giữa các chê-ru-bim, rồi đem rải chúng ra khắp thành.” Người ấy đi vào ngay trước mắt tôi. Khi ấy các chê-ru-bim đang đứng ở phía nam của đền thờ khi người ấy đi vào, và có một đám mây phủ đầy sân trong của đền thờ. Bấy giờ vinh quang của Chúa từ trên chê-rúp cất lên và đến ngự tại ngưỡng cửa của đền thờ. Ðền thờ đầy mây, và sân đền thờ sáng rực bằng vinh quang của Chúa. Tiếng của các cánh chê-ru-bim vỗ có thể nghe rõ ở sân ngoài của đền thờ, giống như tiếng của Ðức Chúa Trời Toàn Năng[b] khi Ngài tuyên phán.

Ngài truyền cho người mặc y phục bằng vải gai mịn, “Hãy lấy lửa trong các bánh xe đang quay ở giữa các chê-ru-bim,” người ấy liền tiến vào và đứng cạnh một bánh xe. Một chê-rúp trong số các chê-ru-bim đưa tay ra và lấy một ít lửa đang ở giữa các chê-ru-bim và đặt vào lòng hai bàn tay của người mặc y phục bằng vải gai mịn. Người ấy nhận lửa đó và đi ra. Dưới các cánh của các chê-ru-bim có những cái gì trông giống như tay của loài người.

Tôi nhìn, và kìa, có bốn bánh xe bên cạnh các chê-ru-bim. Mỗi chê-rúp đều có một bánh xe bên cạnh, và các bánh xe ấy trông như lục bích ngọc đang lóng lánh. 10 Về hình dáng thì bốn bánh xe ấy đều giống nhau, bánh xe nào cũng có cái gì trông giống một bánh xe ở trong một bánh xe. 11 Khi chúng di chuyển, chúng có thể di chuyển về bất cứ hướng nào trong bốn hướng mà không cần phải quay bánh. Bất cứ hướng nào bánh xe trước tiến tới, các bánh xe kia cũng tiến theo mà không cần phải quay bánh. 12 Toàn thân các chê-ru-bim, lưng, tay, cánh, và các bánh xe, tức các bánh xe của bốn sinh vật, đều có đầy những mắt ở chung quanh. 13 Về các bánh xe, tôi nghe có tiếng gọi chúng là “Bánh Xe Siêu Tốc.” 14 Mỗi chê-rúp có bốn mặt: mặt thứ nhất là mặt chê-rúp, mặt thứ hai là mặt người, mặt thứ ba là mặt sư tử, và mặt thứ tư là mặt đại bàng.

15 Bấy giờ các chê-ru-bim cất lên. Ðó là các sinh vật tôi đã thấy bên bờ Sông Kê-ba. 16 Khi các sinh vật ấy di chuyển, các bánh xe bên cạnh cũng di chuyển theo. Khi các sinh vật ấy dang cánh ra để cất lên khỏi mặt đất, các bánh xe đó không quay hướng, mà vẫn ở sát bên cạnh các sinh vật ấy. 17 Khi các chê-ru-bim đứng yên, các bánh xe ấy cũng đứng yên. Khi các chê-ru-bim cất lên, các bánh xe đó cũng cất lên theo, vì Thần của các sinh vật ấy ở trong các bánh xe đó.

18 Bấy giờ vinh quang của Chúa rời khỏi ngưỡng cửa đền thờ và đến ngự bên trên các chê-ru-bim ấy. 19 Trong khi tôi đang nhìn, các chê-ru-bim dang cánh ra và cất lên khỏi mặt đất. Khi các chê-ru-bim bay ra, các bánh xe cũng theo bên cạnh. Các chê-ru-bim dừng lại ở cổng phía đông của nhà Chúa, và vinh quang của Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên ngự ở trên các chê-ru-bim ấy. 20 Ðó là các sinh vật tôi đã thấy ở phía dưới Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên, bên bờ Sông Kê-ba; bấy giờ tôi biết rằng các sinh vật ấy là các chê-ru-bim. 21 Mỗi sinh vật có bốn mặt và bốn cánh. Dưới mỗi cánh có vật chi trông giống những cánh tay của loài người. 22 Diện mạo của các vị ấy giống y hệt diện mạo của các sinh vật tôi đã thấy nơi bờ Sông Kê-ba. Mỗi sinh vật đều nhìn thẳng về phía trước mà tiến tới.

Footnotes

  1. Ê-xê-chi-ên 8:14 Thần của dân Phô-ni-xi
  2. Ê-xê-chi-ên 10:5 nt: El Shaddai

13 Hãy yêu nhau như anh chị em. Hãy niềm nở tiếp đón khách vào nhà vì có người đã vô tình tiếp đón thiên sứ mà không biết. Hãy nhớ những người bị tù tội như thể mình cũng đồng tù với họ. Hãy nhớ những kẻ đang chịu khổ như thể mình cũng chịu khổ với họ.

Mọi người phải kính trọng hôn nhân, vợ chồng phải giữ hôn nhân cho tinh sạch. Thượng Đế sẽ kết tội những kẻ phạm tội ngoại tình và các hình thức khác của tội nhục dục. Hãy tránh việc tham tiền trong cuộc sống. Hãy bằng lòng với những gì mình có. Thượng Đế đã hứa,

“Ta không bỏ ngươi;
    Ta không rời ngươi đâu.” (A)

Cho nên chúng ta vững vàng khi nói,

“Tôi không sợ gì cả
    vì Chúa là Đấng giúp đỡ tôi.
Con người không làm gì được tôi.” (B)

Hãy nhớ những người lãnh đạo đã dạy lời của Thượng Đế cho mình. Hãy nhớ cách họ sống và chết ra sao mà học đòi đức tin họ. Chúa Cứu Thế Giê-xu hôm qua, ngày nay và muôn đời không thay đổi.

Đừng để những lời dạy dỗ xa lạ dắt dẫn anh chị em lầm lạc. Lòng anh chị em phải vững mạnh nhờ ân phúc chứ không phải nhờ vâng theo các qui tắc ăn uống, là những qui tắc không ích gì cho người vâng giữ.

10 Chúng ta có một sinh tế [a] mà các thầy tế lễ phục vụ nơi Lều Thánh không được phép ăn. 11 Thầy tế lễ tối cao mang huyết thú vật vào Nơi Chí Thánh [b] để dâng lên làm của lễ chuộc tội. Nhưng xác thú vật thì đem đốt ngoài vòng đai của doanh trại. 12 Cho nên Chúa Giê-xu cũng đã chịu khổ bên ngoài thành để thánh hóa dân Ngài bằng chính huyết Ngài. 13 Chúng ta cũng hãy đi ra ngoài vòng đai của doanh trại đến cùng Chúa Giê-xu để cùng chịu sỉ nhục như Ngài. 14 Trên đất nầy chúng ta không có thành còn muôn đời nhưng chúng ta trông đợi một thành chúng ta sẽ có trong tương lai. 15 Cho nên, qua Chúa Giê-xu chúng ta hãy luôn luôn dâng lên Thượng Đế sinh tế của chúng ta bằng lời ca ngợi từ môi miệng xưng nhận Ngài. 16 Hãy luôn đối xử tốt với kẻ khác, chia xẻ của cải với họ vì những sự hi sinh như thế đẹp lòng Thượng Đế.

17 Hãy vâng lời các bậc lãnh đạo và phục tùng quyền hành của họ. Họ chăm sóc linh hồn anh chị em vì họ chịu trách nhiệm trước mặt Chúa về anh chị em. Hãy vâng lời họ để họ thi hành nhiệm vụ một cách vui vẻ chứ không buồn rầu. Đừng gây khó khăn cho công việc của họ vì chẳng ích gì cho anh chị em.

18 Hãy cầu nguyện cho chúng tôi. Chúng tôi biết chắc mình có lương tâm trong sạch vì chúng tôi luôn muốn làm điều phải. 19 Đặc biệt, tôi nài xin anh chị em cầu nguyện để Thượng Đế sẽ sớm sai tôi đến cùng anh chị em.

20-21 Tôi cầu Thượng Đế hòa bình ban cho anh chị em đủ mọi điều tốt lành để làm theo ý Ngài. Thượng Đế đã khiến Chúa Giê-xu chúng ta sống lại từ trong kẻ chết, Ngài là Đấng Chăn Chiên Cao Cả do huyết Ngài đã đổ ra. Huyết Ngài khởi đầu giao ước muôn đời mà Thượng Đế đã lập với dân Ngài. Tôi cầu xin Thượng Đế thực hiện trong chúng ta điều đẹp lòng Ngài, qua Chúa Cứu Thế Giê-xu. Nguyền vinh hiển thuộc về Ngài đời đời. A-men.

22 Thưa anh chị em, tôi nài xin anh chị em hãy nhẫn nhục vâng theo lời tôi viết đây vì thư nầy không dài lắm đâu. 23 Tôi muốn anh chị em biết rằng anh em chúng ta là Ti-mô-thê đã được thả. Nếu anh ấy sớm đến với anh chị em thì cả hai chúng tôi sẽ gặp lại anh chị em.

24 Hãy chào hết các bậc lãnh đạo của anh chị em và các con dân Thượng Đế. Những anh em từ nước Ý chào thăm anh chị em.

25 Nguyền xin ân phúc ở với tất cả anh chị em.

Footnotes

  1. Hê-bơ-rơ 13:10 sinh tế Nguyên văn, “bàn thờ.” Đây có nghĩa là sự hi sinh của Chúa Giê-xu. Ngài chịu chết để chuộc tội lỗi của con người.
  2. Hê-bơ-rơ 13:11 Nơi Chí Thánh Nguyên văn, “nơi cực thánh,” một chỗ trong Đền Tạm Do-thái hay đền thờ nơi Thượng Đế gặp thầy tế lễ tối cao.

Những Lời Khuyên Nhủ Chung

13 Hãy duy trì tình thương giữa anh chị em với nhau. Ðừng xao lãng lòng hiếu khách đối với những người lạ, vì làm như thế có người đã tiếp đãi thiên sứ mà không biết. Hãy nhớ đến những người đang ở trong vòng lao lý như thể anh chị em cũng bị tù với họ. Hãy nhớ đến những người bị tra tấn hành hạ như thể chính thân thể anh chị em cũng bị tra tấn hành hạ.

Mọi người phải tôn trọng hôn nhân. Chớ biến chốn loan phòng ra ô uế, vì Ðức Chúa Trời sẽ đoán phạt kẻ gian dâm và kẻ ngoại tình.

Hãy có nếp sống không tham tiền; hãy thỏa lòng về những gì mình có; vì chính Ngài đã phán,

“Ta sẽ không bao giờ lìa ngươi,
Và không bao giờ bỏ ngươi.”Phục 31:6, 8

Do đó chúng ta có thể nói mạnh dạn,

“Chúa là Ðấng giúp đỡ tôi,
Tôi sẽ không sợ,
Loài người làm gì được tôi?”Thi 118:6

Khuyên Phải Trung Thành

Hãy nhớ đến những người lãnh đạo của anh chị em, tức những người giảng dạy lời Ðức Chúa Trời cho anh chị em. Hãy nghĩ đến kết quả của cuộc đời họ, và hãy noi theo đức tin họ.

Ðức Chúa Jesus Christ hôm qua, ngày nay, và cho đến đời đời không bao giờ thay đổi.

Anh chị em đừng để các tín lý khác và lạ lôi cuốn mình đi sai lạc. Vì lòng được vững mạnh nhờ ân sủng mới tốt, chứ không phải thực phẩm, là thứ không ích lợi gì cho những ai giữ theo quy luật. 10 Chúng ta có một bàn thờ mà những người phục vụ trong Lều Tạm không được phép ăn những gì dâng trên đó, 11 vì huyết các thú vật hiến tế đã được vị thượng tế mang vào Các Nơi Thánh để chuộc tội, còn xác chúng thì bị thiêu đốt bên ngoài doanh trại. 12 Vì thế Ðức Chúa Jesus cũng đã chịu đau đớn bên ngoài cổng thành, để dùng chính huyết Ngài thánh hóa cho dân. 13 Vậy chúng ta hãy ra với Ngài bên ngoài doanh trại để mang sỉ nhục với Ngài. 14 Vì ở thế gian này chúng ta không có thành nào bền vững, nhưng chúng ta đang tìm một thành sẽ đến. 15 Vậy nhờ Ngài chúng ta hãy dâng của lễ bằng sự ca ngợi không ngừng lên Ðức Chúa Trời, tức dùng bông trái của môi miệng mình xưng tụng danh Ngài. 16 Xin anh chị em đừng quên làm việc từ thiện và chia sẻ cho người khác, vì đó là những của lễ đẹp lòng Ðức Chúa Trời.

Khuyên Phải Vâng Phục Những Người Lãnh Ðạo Thuộc Linh

17 Hãy vâng lời những người lãnh đạo anh chị em và thuận phục họ, vì họ canh chừng linh hồn anh chị em như những người phải khai trình. Hãy để họ vui vẻ thi hành chức vụ mình và không phải than thở gì, vì điều đó không ích lợi gì cho anh chị em.

18 Xin cầu nguyện cho chúng tôi, vì chúng tôi tin chắc rằng chúng tôi có lương tâm tốt và muốn cư xử tốt đẹp trong mọi sự. 19 Tôi tha thiết nài xin anh chị em làm điều này càng hơn, để tôi sớm được trở về[a] với anh chị em.

Lời Chào Cuối Thư

20 Nguyện xin Ðức Chúa Trời bình an, Ðấng đem Ðấng Chăn Chiên lớn ra từ cõi chết, dùng huyết của giao ước đời đời của Chúa chúng ta, là Ðức Chúa Jesus, 21 trang bị anh chị em bằng mọi điều tốt đẹp để làm theo ý muốn Ngài, và thực hiện trong chúng ta những điều đẹp lòng trước thánh nhan Ngài qua Ðức Chúa Jesus Christ. Nguyện vinh hiển thuộc về Ngài đời đời vô cùng. A-men.

22 Thưa anh chị em, tôi xin anh chị em ráng nhẫn nại để nghe tin đáng khích lệ này. Tôi viết vắn tắt cho anh chị em thôi. 23 Xin anh chị em biết rằng anh em chúng ta là Ti-mô-thê đã được thả ra rồi; nếu anh ấy đến sớm, tôi sẽ cùng anh ấy đến thăm anh chị em.

24 Xin kính chào tất cả những vị lãnh đạo của anh chị em và tất cả các thánh đồ. Những anh chị em đến từ I-ta-ly gởi lời chào thăm anh chị em.

25 Nguyện xin ân sủng ở cùng tất cả anh chị em. A-men.

Footnotes

  1. Hê-bơ-rơ 13:19 nt: tái lập