Add parallel Print Page Options

Rồi CHÚA phán cùng tôi, “Hỡi con người [a], hãy ăn vật ngươi thấy; hãy ăn cuộn sách nầy. Rồi hãy đi ra nói cùng dân Ít-ra-en.” Vậy tôi mở miệng và Ngài trao cho tôi cuộn sách để ăn.

Ngài bảo tôi, “Hỡi con người, hãy ăn cuộn sách mà ta trao cho ngươi, cho thật đầy bụng. Vậy tôi ăn cuộn sách đó thì tôi thấy thật ngọt như mật ong trong miệng.”

Rồi Ngài bảo tôi, “Hỡi con người, hãy đi đến cùng dân Ít-ra-en và thuật lại lời ta cho chúng. Ta không sai ngươi đến cùng một dân nói thứ tiếng mà ngươi không hiểu. Ngươi được sai đến cùng dân Ít-ra-en. Ta không sai ngươi đến nhiều dân tộc nói thứ tiếng mà ngươi không hiểu, chữ nghĩa ngươi không biết. Nếu ta sai ngươi đến các dân ấy, chắc chúng nó sẽ nghe ngươi. Nhưng dân Ít-ra-en sẽ không chịu nghe ngươi vì chúng không chịu nghe ta. Thật vậy, tất cả dân Ít-ra-en đều ương ngạnh không vâng lời. Thấy không, nay ta khiến ngươi trở nên ương ngạnh như chúng vậy. Ta làm cho ngươi cứng như kim cương, cứng hơn đá. Đừng sợ cũng đừng kinh hãi chúng dù chúng là dân chống nghịch ta.”

10 Ngài cũng phán cùng tôi, “Hỡi con người, hãy tin mọi lời ta phán cùng ngươi, nghe cho thật cẩn thận. 11 Rồi hãy đi đến dân bị tù đày, tức dân tộc ngươi, bảo chúng rằng, ‘CHÚA là Thượng Đế phán thế nầy. Dù chúng nghe hay không, cứ bảo cho chúng biết.’”

12 Sau đó Thần Linh [b] nhấc tôi lên, tôi nghe có tiếng vang động phía sau tôi và sự vinh hiển của CHÚA cất lên từ nơi ấy. [c] 13 Tôi nghe tiếng đập cánh của các con thú và tiếng bánh xe chạy kế bên chúng. Đó là tiếng vang động. 14 Rồi thần linh nhấc tôi lên mang tôi đi. Tôi buồn bực trong lòng, rồi tôi cảm biết quyền lực lớn lao của CHÚA. 15 Tôi đi đến chỗ các tù binh bị đày của Giu-đa đang sống bên bờ sông Kê-ba ở Tên-A-bíp [d]. Tôi ngồi ở đó với họ bảy ngày, trong lòng hoang mang.

Lời cảnh cáo Ít-ra-en

16 Sau bảy ngày CHÚA lại phán cùng tôi như sau: 17 “Hỡi con người, nay ta đặt ngươi làm lính tuần canh cho Ít-ra-en. Hễ khi ngươi nghe lời nào từ miệng ta thì hãy cảnh cáo chúng nó. 18 Khi ta bảo kẻ ác rằng, ‘Ngươi chắc sẽ chết,’ thì ngươi phải cảnh cáo chúng để chúng sống. Còn nếu ngươi không cảnh cáo kẻ ác để chúng bỏ lối ác thì chúng sẽ chết trong tội lỗi mình nhưng ta sẽ bắt ngươi chịu trách nhiệm về cái chết của chúng. 19 Nhưng nếu ngươi cảnh cáo kẻ ác mà chúng không từ bỏ điều ác hay lối ác của chúng thì chúng sẽ chết trong tội lỗi chúng nhưng ngươi cứu được mạng mình.

20 Ngoài ra, kẻ làm điều phải có thể lìa bỏ lẽ phải và làm điều ác. Nếu ta giáng điều chẳng lành đến cho chúng, chúng sẽ chết. Vì ngươi không cảnh cáo chúng, chúng sẽ chết trong tội lỗi mình, những điều lành mà chúng làm sẽ không được nhớ đến nữa. Nhưng ta bắt ngươi chịu trách nhiệm về cái chết của chúng. 21 Nhưng nếu ngươi đã cảnh cáo những người tốt ấy đừng phạm tội, rồi họ không phạm tội, thì họ được sống vì tin lời cảnh cáo của ngươi. Như thế ngươi sẽ cứu được mạng mình.”

22 Rồi tôi cảm biết quyền năng của CHÚA tại đó. Ngài phán cùng tôi, “Hãy đứng dậy đi ra thung lũng [e]. Ta sẽ phán cùng ngươi ở đó.” 23 Vậy tôi đứng dậy đi ra đồng trống. Tôi thấy vinh quang CHÚA ở đó, giống như vinh quang tôi đã thấy bên bờ sông Kê-ba. Tôi liền sấp mặt xuống đất.

24 Rồi Thần Linh nhập vào tôi, khiến tôi đứng lên. Ngài phán cùng tôi, “Hãy đi giam mình trong nhà ngươi. 25 Về phần ngươi, hỡi con người, họ sẽ lấy dây thừng trói ngươi lại để ngươi không có thể đi ra cùng chúng được. 26 Ngoài ra ta sẽ khiến cho lưỡi ngươi dính nơi vòm họng để ngươi không nói được. Ngươi sẽ không thể biện bác với chúng, mặc dù chúng chống nghịch ta. 27 Nhưng khi ta phán cùng ngươi, ta sẽ mở miệng ngươi ra, rồi ngươi sẽ bảo chúng rằng, ‘CHÚA là Thượng Đế phán thế nầy.’ Ai muốn nghe thì nghe. Ai không nghe thì mặc kệ vì chúng là dân chống nghịch ta.”

Bản đồ thành Giê-ru-sa-lem

“Bây giờ, hỡi con người, hãy lấy một viên gạch đặt trước mặt ngươi và vẽ bản đồ Giê-ru-sa-lem lên đó. Rồi dùng một đạo quân vây nó. Hãy xây hào lũy chống nó và đắp một con đường đất lên đến chóp vách thành. Hãy dựng trại quân quanh nó và đặt các khúc cây phá vách [f] để phá sập các vách nó. Rồi ngươi hãy lấy một miếng sắt dựng đứng lên như một vách giữa ngươi và thành. Hãy quay mặt ngươi về hướng thành phố làm như thể sắp tấn công xong rồi tấn công thật. Đó sẽ là dấu hiệu cho dân Ít-ra-en.

Rồi hãy nằm nghiêng bên trái và chất tội lỗi Ít-ra-en trên mình. Ngươi nằm bao lâu thì sẽ mang tội của chúng trên mình ngươi bấy lâu. Ta ban cho ngươi số ngày bằng với số năm phạm tội của dân chúng. Vậy ngươi sẽ mang tội lỗi của Ít-ra-en trong 390 ngày [g].

Mãn 390 ngày thì hãy nằm xuống nghiêng bên phải. Ngươi sẽ mang tội lỗi của Giu-đa. Ta sẽ cho ngươi 40 ngày, mỗi ngày bằng một năm cho tội lỗi chúng. Rồi ngươi sẽ hướng về Giê-ru-sa-lem là thành đang bị tấn công. Ngươi sẽ để trần tay áo và nói tiên tri nghịch cùng Giê-ru-sa-lem. Ta sẽ buộc dây thừng quanh ngươi để ngươi không quay sang phía kia được cho đến khi ngươi đã hoàn tất xong số ngày ngươi tấn công Giê-ru-sa-lem [h].

Hãy lấy lúa mì, lúa mạch, đậu trái, đậu hột, và lúa đại mạch bỏ trong cối giã thành bột làm bánh mì cho ngươi. Ngươi sẽ ăn như thế trong ba trăm chín mươi ngày tức là thời gian mà ngươi phải nằm nghiêng một bên. 10 Ngươi sẽ ăn nửa cân [i] thực phẩm mỗi ngày theo giờ định sẵn. 11 Ngươi sẽ uống khoảng nửa lít [j] nước mỗi ngày vào giờ định sẵn. 12 Ăn thức đó như ăn bánh lúa mạch, nướng trên phân người để cho dân chúng đều thấy.” 13 Rồi CHÚA bảo, “Cũng vậy, dân Ít-ra-en sẽ ăn thức ăn không tinh sạch [k] giữa các dân tức những nơi ta đày chúng đến.”

14 Nhưng tôi phản đối, “Không được, thưa CHÚA! Tôi chưa bao giờ tự làm cho mình ô dơ. Từ lúc tôi còn trẻ đến nay tôi chưa hề ăn món gì chết tự nhiên hay bị thú xé. Chưa hề có món ăn nào không sạch vào miệng tôi.”

15 CHÚA đáp, “Thôi được. Ta cho phép ngươi dùng phân bò thay vì phân người để làm lửa nướng bánh.”

16 Ngài cũng bảo tôi, “Hỡi con người, ta sẽ cắt đứt nguồn thực phẩm của Giê-ru-sa-lem. Chúng sẽ ăn bánh mì được người ta lường cho và sẽ vừa ăn vừa lo lắng. Chúng cũng sẽ lường nước mà uống và sẽ kinh hoàng khi uống. 17 Vì bánh và nước sẽ rất hiếm hoi. Dân chúng sẽ kinh hoàng khi nhìn nhau và sẽ trở nên yếu ớt vì tội lỗi mình.”

Footnotes

  1. Ê-xê-ki-ên 3:1 con người Từ ngữ nầy thường dùng để nói về “một người” hay “một con người.” Ở đây là cách gọi Ê-xê-chiên. Xem các câu 3, 4, 10, 17, 25.
  2. Ê-xê-ki-ên 3:12 Thần Linh Hay “gió.” Xem câu 24.
  3. Ê-xê-ki-ên 3:12 vang động … từ nơi ấy Hay “vang rầm phía sau tôi rằng: Hãy ca ngợi sự vinh hiển của Chúa trên trời.”
  4. Ê-xê-ki-ên 3:15 Tên-A-bíp Bây giờ là Tel Aviv. Lúc ấy thành phố nầy nằm bên ngoài xứ Ít-ra-en. Tên thành phố nầy có nghĩa là “Đồi Xuân.”
  5. Ê-xê-ki-ên 3:22 thung lũng Có lẽ là thung lũng Ghít-rê-ên, một vùng phì nhiêu đã là nơi xảy ra nhiều trận đánh. Thường thì người ta chỉ gọi nơi nầy là “Thung lũng.”
  6. Ê-xê-ki-ên 4:2 khúc cây phá vách Những khúc cây lớn mà binh sĩ dùng để chọc thủng vách thành.
  7. Ê-xê-ki-ên 4:5 390 ngày Bản cổ Hi-lạp ghi “190 ngày.”
  8. Ê-xê-ki-ên 4:8 ngươi tấn công Giê-ru-sa-lem Hay “ngươi tấn công thành phố.” Đây là một lối chơi chữ. Tiếng Hê-bơ-rơ có nghĩa là “đói kém,” “thời kỳ khó khăn,” hay “tấn công thành phố.”
  9. Ê-xê-ki-ên 4:10 nửa cân Nguyên văn, “20 sê-ken” (khoảng 240 gờ ram).
  10. Ê-xê-ki-ên 4:11 nửa lít Nguyên văn, “một phần sáu hin.”
  11. Ê-xê-ki-ên 4:13 thức ăn không tinh sạch Những thức ăn mà dân Ít-ra-en bị cấm dùng hay là những thức ăn không được nấu đúng cách theo luật lệ qui định.

Ngài phán với tôi, “Hãy ăn những gì Ta ban cho ngươi. Hãy ăn cuộn sách nầy, rồi đi, và nói cho nhà I-sơ-ra-ên biết.” Vậy tôi mở miệng ra, Ngài ban cho tôi cuộn sách để tôi ăn. Ngài phán với tôi, “Hỡi con người, hãy ăn cuộn sách Ta ban cho ngươi và hãy làm cho nó đầy bụng ngươi.” Tôi ăn nó, và nó ngọt như mật trong miệng tôi.

Ngài phán với tôi, “Hỡi con người, hãy đi đến nhà I-sơ-ra-ên và nói với chúng những lời Ta. Ta không sai ngươi đến với một dân nói một thứ tiếng lạ và một ngôn ngữ khó hiểu, nhưng đến với nhà I-sơ-ra-ên, không phải đến với những dân nói các thứ tiếng lạ và những ngôn ngữ khó hiểu, mà tiếng nói của chúng ngươi không hiểu được. Nếu Ta sai ngươi đến với chúng, ắt chúng sẽ nghe ngươi. Nhưng nhà I-sơ-ra-ên sẽ không nghe ngươi đâu, vì chúng chẳng muốn nghe Ta, vì cả nhà I-sơ-ra-ên đều cứng trán và cứng lòng. Này, Ta sẽ làm cho mặt ngươi chai cứng để có thể đối phó với mặt chúng, và Ta làm cho trán ngươi thật cứng để có thể đương đầu với trán chúng. Ta sẽ làm cho trán ngươi cứng hơn đá hoa cương, cứng hơn đá lửa. Ðừng sợ chúng và chớ kinh hãi khi chúng trừng ngó ngươi, vì chúng là nhà phản loạn.”

10 Ngài phán với tôi, “Hỡi con người, tất cả những lời Ta phán với ngươi, ngươi hãy nghe cho kỹ và ghi lòng tạc dạ. 11 Sau đó ngươi hãy đến với những kẻ bị lưu đày, đến với đồng bào ngươi, và nói lại với chúng. Hãy bảo chúng rằng, ‘Chúa Hằng Hữu phán thế nầy,’ bất kể chúng nghe hay không nghe cũng mặc.”

Ê-xê-chi-ên Bên Bờ Sông Kê-ba

12 Bấy giờ Thần cất tôi lên, và tôi nghe đằng sau tôi có một tiếng lớn như sấm nổ vang rền –Tôn ngợi vinh hiển của Chúa trong nơi Ngài ngự– 13 đồng thời có tiếng của cánh các sinh vật đập vào nhau, tiếng của các bánh xe quay bên cạnh các sinh vật ấy, và một tiếng lớn như sấm nổ vang rền. 14 Thần cất tôi lên và đem tôi đi. Tôi đi trong cay đắng, và tâm linh tôi nóng nảy, nhưng tay Chúa đè mạnh trên tôi. 15 Tôi đã đến Tên A-bíp, nơi những người bị lưu đày đang sống bên bờ Sông Kê-ba. Tôi ngồi tại đó giữa họ và bàng hoàng trong bảy ngày.

16 Cuối bảy ngày, lời của Chúa đến với tôi, 17 “Hỡi con người, Ta lập ngươi làm người canh gác nhà I-sơ-ra-ên. Mỗi khi ngươi nghe lời nào từ miệng Ta phán ra, ngươi phải cảnh cáo chúng cho Ta. 18 Nếu Ta bảo kẻ gian ác rằng, ‘Ngươi chắc chắn phải chết,’ và nếu ngươi không cảnh cáo nó hay lên tiếng khuyến cáo kẻ gian ác phải lìa bỏ đường lối ác của nó để cứu mạng nó, kẻ gian ác đó ắt sẽ chết trong tội lỗi nó, nhưng Ta sẽ đòi máu nó nơi tay ngươi. 19 Nhưng nếu ngươi cảnh cáo kẻ gian ác, và nó không lìa bỏ việc gian ác của nó, hay lìa bỏ đường lối ác của nó, nó sẽ chết trong tội lỗi nó, nhưng ngươi sẽ cứu được mạng sống mình. 20 Nếu người ngay lành lìa bỏ việc ngay lành của nó mà phạm tội, Ta sẽ đặt một vật làm vấp ngã trước mặt nó, nó sẽ chết, bởi vì ngươi không cảnh cáo nó, nó sẽ chết trong tội lỗi nó, và việc ngay lành của nó sẽ không còn được nhớ đến nữa, nhưng Ta sẽ đòi máu nó nơi tay ngươi. 21 Tuy nhiên, nếu ngươi cảnh cáo người ngay lành, khuyến cáo nó đừng phạm tội, và nó không phạm tội, nó chắc chắn sẽ được sống, bởi vì nó nghe theo lời cảnh cáo, và ngươi sẽ cứu được mạng sống mình.”

Ê-xê-chi-ên Bị Cô Lập

22 Tay Chúa đặt trên tôi tại đó. Ngài phán với tôi, “Hãy đứng dậy và đi vào thung lũng, rồi Ta sẽ phán với ngươi tại đó.” 23 Vậy tôi đứng dậy và đi vào thung lũng. Kìa, vinh quang của Chúa đang đứng tại đó, giống như vinh quang tôi đã thấy bên bờ Sông Kê-ba. Thấy vậy tôi liền sấp mặt xuống đất. 24 Thần nhập vào tôi, làm cho tôi đứng dậy trên chân mình. Ngài phán với tôi và bảo tôi, “Hãy đi về, giam mình trong nhà ngươi. 25 Về phần ngươi, hỡi con người, người ta sẽ lấy dây thừng trói ngươi lại, và ngươi sẽ bị chúng trói lại để không thể đi ra gặp đồng bào ngươi được. 26 Ta sẽ làm cho lưỡi ngươi dính nơi hốc miệng ngươi, để ngươi không thể nói được, hầu ngươi không thể khiển trách chúng, vì chúng là nhà phản loạn. 27 Nhưng khi nào Ta phán với ngươi, Ta sẽ mở miệng ngươi, bấy giờ ngươi sẽ nói với chúng, ‘Chúa Hằng Hữu phán thế nầy.’ Hễ ai muốn nghe thì nghe, còn ai không muốn nghe cứ để chúng từ chối lắng nghe, vì chúng là nhà phản loạn.”

Mô Hình Giê-ru-sa-lem Bị Vây

“Còn ngươi, hỡi con người, hãy lấy một tấm đất sét nung, đặt nó trước mặt ngươi, rồi hãy lập trên đó sơ đồ một cái thành, Thành Giê-ru-sa-lem. Sau đó hãy tạo những mô hình về một cuộc bao vây thành ấy, xây chiến lũy để bao vây nó, đắp ụ để tấn công nó, dựng các doanh trại để tiến đánh nó, đặt các phiến gỗ nặng để công phá chung quanh nó. Sau đó hãy lấy một chảo sắt đặt ở giữa ngươi và thành để làm một bức tường sắt; rồi hãy quay mặt ngươi hướng về nó để chống lại nó, đặt nó ở trong tình trạng bị bao vây, và ngươi sẽ bao vây nó. Ðó là dấu chỉ về nhà I-sơ-ra-ên.

Sau đó ngươi sẽ nằm nghiêng bên trái, và gánh lấy hình phạt của nhà I-sơ-ra-ên trên mình ngươi. Ngươi mang lấy hình phạt của nó theo số ngày ngươi nằm nghiêng ở đó, vì Ta đã định cho ngươi số ngày tương đương với số năm tội lỗi của chúng – ba trăm chín mươi ngày. Ðó là thời gian ngươi sẽ mang lấy tội lỗi của nhà I-sơ-ra-ên. Khi ngươi làm xong việc đó, ngươi phải nằm xuống nữa, lần nầy ngươi sẽ nằm nghiêng bên phải, để gánh lấy tội lỗi của nhà Giu-đa. Ta đã định cho ngươi bốn mươi ngày, mỗi ngày cho một năm. Ngươi sẽ xây mặt hướng về Giê-ru-sa-lem đang bị bao vây, đưa cánh tay trần ra, và nói tiên tri chống lại nó. Này, Ta sẽ lấy dây thừng trói ngươi lại, để ngươi không thể trở mình qua lại, cho đến khi ngươi nằm đủ số ngày ngươi phải nằm nghiêng một bên.

Ngươi hãy lấy lúa mì, lúa mạch, đậu trắng, đậu đỏ, hạt kê, và bột mì, đem bỏ tất cả vào một cái vò, rồi lấy ra làm bánh mà ăn. Trong suốt thời gian ngươi nằm nghiêng một bên, ba trăm chín mươi ngày, ngươi sẽ ăn bánh ấy. 10 Lương thực ngươi ăn sẽ được tính theo cân lượng, hai trăm ba mươi gờ-ram[a] mỗi ngày, và phải ăn đúng các giờ giấc quy định. 11 Ngươi sẽ uống nước cũng theo cân lượng, hai phần ba lít[b] mỗi ngày, và phải uống theo giờ giấc đã quy định. 12 Ngươi sẽ ăn bánh tráng làm bằng bột lúa mạch nướng trên phân người trước mặt người ta.” 13 Chúa phán, “Dân I-sơ-ra-ên sẽ ăn bánh ô uế như thế giữa các nước Ta xua chúng đến.”

14 Bấy giờ tôi nói, “Ôi, lạy Chúa Hằng Hữu! Con chưa bao giờ làm cho mình bị ô uế. Từ nhỏ đến giờ con chưa bao giờ ăn thịt một con vật bị chết hoặc bị thú dữ cắn xé; ngay cả thịt có chút mùi hôi cũng không bao giờ vào miệng con.”

15 Ngài phán với tôi, “Này, Ta cho ngươi được dùng phân bò thay cho phân người để nướng bánh ăn.”

16 Ngài lại phán với tôi, “Hỡi con người, Ta sẽ cắt đứt nguồn cung cấp thực phẩm của Giê-ru-sa-lem. Chúng sẽ ăn bánh theo phân lượng từng khẩu phần và sống trong phập phồng lo sợ. Chúng sẽ uống nước theo phân lượng và cứ mãi hồi hộp lo âu. 17 Vì thiếu bánh ăn và nước uống, chúng sẽ nhìn nhau trong kinh hãi và chết dần chết mòn vì tội lỗi của chúng.”

Footnotes

  1. Ê-xê-chi-ên 4:10 nt: 20 sê-ken
  2. Ê-xê-chi-ên 4:11 nt: 1/6 hin

20 Nhờ đức tin, Y-sác chúc phước cho tương lai của Gia-cốp và Ê-sau. 21 Cũng nhờ đức tin, Gia-cốp lúc sắp qua đời chúc phước cho các con trai của Gia-cốp. Rồi ông cúi mình bái lạy đang khi tì trên cây gậy.

22 Cũng nhờ đức tin, Giô-xép lúc sắp chết, nói đến việc dân Ít-ra-en ra khỏi nước Ai-cập và dặn dò về thân xác mình.

23 Nhờ đức tin, khi mới sinh, Mô-se được cha mẹ đem giấu trong ba tháng. Hai ông bà thấy con mình ngộ nghĩnh cho nên không sợ trái lệnh vua.

24 Nhờ đức tin, khi khôn lớn thì Mô-se từ bỏ danh hiệu là con trai của công chúa vua Ai-cập. 25 Ông chọn phần chịu khổ với dân của Thượng Đế thay vì tạm hưởng sự vui sướng nhất thời của tội lỗi. 26 Ông cho rằng chẳng thà chịu khổ vì Chúa Cứu Thế còn hơn là hưởng châu báu xứ Ai-cập vì ông trông mong phần thưởng từ Thượng Đế. 27 Cũng nhờ đức tin cho nên Mô-se rời bỏ xứ Ai-cập mà không sợ vua nổi giận. Mô-se đứng vững vàng như nhìn thấy Thượng Đế là Đấng không ai thấy được. 28 Qua đức tin Mô-se chuẩn bị lễ Vượt Qua và bôi huyết trên khung cửa để thiên sứ hủy diệt [a] không giết con trai đầu lòng của dân Ít-ra-en.

29 Nhờ đức tin mà dân chúng băng qua Hồng hải như đi trên đất khô. Nhưng khi người Ai-cập thử băng qua thì đều bị chết đuối hết.

30 Nhờ đức tin mà các tường thành Giê-ri-cô sập xuống sau khi dân chúng đi vòng quanh bảy ngày.

31 Nhờ đức tin mà Ra-háp, một cô gái làng chơi, đón tiếp các gián điệp cho nên cô không bị giết cùng với những kẻ không tin Thượng Đế.

32 Tôi có cần đưa thêm dẫn chứng nào khác nữa không? Tôi không đủ thì giờ để thuật cho anh chị em nghe về Ghi-đê-ôn, Ba-rác, Sam-sôn, Giép-thê, Đa-vít, Sa-mu-ên và các nhà tiên tri. 33 Nhờ đức tin họ chiến thắng các vương quốc. Họ làm điều phải. Họ nhận lời hứa từ Thượng Đế và bịt mồm sư tử, 34 dập tắt ngọn lửa hừng và được cứu khỏi lưỡi gươm. Họ tuy yếu đuối nhưng lại mạnh mẽ. Họ can đảm trong chiến trận nên đánh bại các đạo quân thù. 35 Nhiều người đàn bà nhận thân nhân sống lại từ kẻ chết. Những người khác thà chịu bị hành hạ chứ không đổi lấy tự do để được sống lại vào một đời tốt đẹp hơn. 36 Một số bị nhạo cười, đánh đập. Kẻ khác bị xiềng xích và bị tống giam vào ngục tối. 37 Họ bị ném đá chết, bị cưa xẻ làm đôi, bị gươm giết. Người thì lang thang rày đây mai đó, phải che thân bằng da cừu, da dê. Họ khốn khổ, bị hành hạ và ngược đãi. 38 Thế gian nầy không xứng đáng cho họ! Họ lưu lạc trong sa mạc, rừng núi, sống trong hang hốc dưới đất.

39 Tất cả những người ấy đều được nổi danh vì đức tin, nhưng chưa ai trong họ nhận được điều Thượng Đế đã hứa. 40 Thượng Đế đã dự liệu cho chúng ta một điều tốt hơn để cho họ chỉ trở trên toàn thiện cùng với chúng ta mà thôi.

Read full chapter

Footnotes

  1. Hê-bơ-rơ 11:28 thiên sứ hủy diệt Nguyên văn, “kẻ hủy diệt.” Để trừng phạt người Ai-cập, Thượng Đế sai một thiên sứ đến giết con đầu lòng của mỗi gia đình. Xem Xuất 12:29-32.

20 Bởi đức tin I-sác chúc phước cho Gia-cốp và Ê-sau về những việc tương lai.

21 Bởi đức tin, lúc gần qua đời, Gia-cốp chúc phước cho mỗi con trai của Giô-sép, và ông vịn vào đầu cây gậy của mình mà thờ phượng.

22 Bởi đức tin, lúc gần qua đời, Giô-sép nói trước về cuộc xuất hành của con cháu I-sơ-ra-ên và truyền cho họ phải mang hài cốt ông theo.

23 Bởi đức tin, khi Môi-se sinh ra, cha mẹ ông giấu ông trong ba tháng, vì họ thấy đứa bé xinh đẹp, và họ không sợ sắc lịnh của vua.

24 Bởi đức tin, Môi-se, khi khôn lớn, từ bỏ danh hiệu con trai của công chúa Pha-ra-ôn. 25 Ông thà chọn bị ngược đãi với dân Ðức Chúa Trời hơn là thụ hưởng vui sướng tạm thời của tội lỗi. 26 Ông coi sự chịu nhục của “người được xức dầu để làm người giải cứu và lãnh đạo”[a] cao quý hơn của cải trong các kho tàng của Ai-cập, vì ông trông vào phần thưởng tương lai.

27 Bởi đức tin ông rời Ai-cập mà không sợ cơn giận của vua, vì ông kiên trì như thể thấy Ðấng không thể thấy được.

28 Bởi đức tin ông giữ Lễ Vượt Qua và rảy huyết để Thần Hủy Diệt không đụng đến các con đầu lòng của họ.

29 Bởi đức tin họ vượt qua Hồng Hải như đi trên đất khô; còn người Ai-cập khi cố đi qua thì bị nước biển chôn vùi.

30 Bởi đức tin các tường thành Giê-ri-cô sụp đổ khi dân I-sơ-ra-ên đi vòng quanh bảy ngày.

31 Bởi đức tin Ra-háp, người kỹ nữ, không bị tiêu diệt với những kẻ chẳng vâng phục, vì nàng tiếp đón các thám tử với thành ý bình an.

32 Tôi sẽ nói gì nữa? Tôi sẽ không đủ thì giờ để kể các chuyện của Ghi-đê-ôn, Ba-rác, Sam-sôn, Giép-thê, Ða-vít, Sa-mu-ên, và các vị tiên tri, 33 những người đã nhờ đức tin chinh phục các nước, thực thi công lý, đạt điều được hứa, bịt mồm sư tử, 34 dập tắt lửa hừng, thoát khỏi lưỡi gươm, chuyển yếu thành mạnh, anh dũng trong chiến trận, đẩy lui quân ngoại xâm. 35 Có những phụ nữ nhận lại người thân của mình từ cõi chết sống lại. Có những người thà chịu tra tấn đến chết chứ không chịu chối bỏ đức tin để nhận sự phóng thích, hầu được sự sống lại tốt đẹp hơn. 36 Có những người bị chế nhạo và bị đánh đòn, thậm chí bị xiềng xích và lao tù. 37 Họ bị ném đá, bị cưa hai, bị giết bằng gươm. Họ phải lưu lạc rày đây mai đó với quần áo bằng da chiên, da dê, bị thiếu thốn, bị đàn áp, bị ngược đãi. 38 Thế gian không xứng đáng cho họ ở. Họ sống lang thang trong hoang địa, trên núi đồi, trong các hang động, và trong các hầm hố dưới đất.

39 Tất cả những người ấy nhờ đức tin đều được lời chứng tốt, nhưng chưa nhận được điều đã hứa cho mình, 40 vì Ðức Chúa Trời đã chuẩn bị điều tốt hơn cho chúng ta, để không có chúng ta, họ chưa thể được làm cho trọn vẹn.

Read full chapter

Footnotes

  1. Hê-bơ-rơ 11:26 nt: Christos (Ðấng Christ)