Add parallel Print Page Options

36 Vậy hỡi Bê-xanh-ên, Ô-hô-li-áp, và mọi người tài giỏi được Chúa phú cho khôn ngoan và thông sáng để biết làm sao xây dựng Nơi Thánh, hãy cùng nhau thực hiện mọi việc như Chúa đã truyền.”

Ngưng Việc Quyên Góp

Môi-se gọi Bê-xanh-ên, Ô-hô-li-áp, và mọi người có tài mà Chúa đã phú cho kỹ năng, những người được thúc giục trong lòng đến bắt tay vào việc. Họ nhận từ Môi-se tất cả những món đồ dân I-sơ-ra-ên đã tự nguyện đem đến dâng để dùng xây dựng lều thánh. Sáng nào họ cũng tự nguyện mang các món đồ đến dâng, đến nỗi tất cả các thợ tài giỏi đang làm các công việc xây dựng lều thánh phải tạm ngưng công tác. Họ đến nói với Môi-se, “Người ta đã đem đến nhiều hơn những gì chúng tôi cần để thực hiện công việc Chúa truyền cho chúng tôi làm.” Vì thế Môi-se truyền lịnh, bảo rao ra khắp doanh trại rằng, “Xin đừng ai, bất kỳ nam hay nữ, dâng món gì nữa để làm lều thánh.” Vậy mọi người đã bị cản lại, không cho mang đồ đến dâng nữa, vì những gì họ mang đến dâng đã nhiều hơn số vật liệu cần thiết cho công việc.

Xây Dựng Ðền Tạm

(Xuất 26:1-37)

Tất cả những người có tài trong số những người đến làm việc đã cùng nhau xây dựng Ðền Tạm; họ làm đền ấy bằng mười tấm màn dệt bằng vải gai mịn, chỉ xanh dương, chỉ tím, và chỉ đỏ thắm, có hình các chê-ru-bim thêu rất mỹ thuật trên các màn ấy. Chiều dài mỗi màn mười bốn mét, chiều rộng mỗi màn hai mét.[a] Tất cả các tấm màn đều có kích thước như nhau.

10 Ông cho kết năm tấm màn nầy lại với nhau, và năm tấm màn kia kết lại với nhau. 11 Ông làm những khoen bằng chỉ xanh dương gắn dọc theo mép tấm màn ngoài cùng của bộ màn thứ nhất. Tương tự như vậy, ông cũng làm những khoen bằng chỉ xanh dương gắn dọc theo mép tấm màn ngoài cùng của bộ màn thứ nhì. 12 Ông làm năm mươi khoen cho một bộ màn, và làm năm mươi khoen gắn vào mép của bộ màn thứ nhì. Các khoen của hai bộ màn đối nhau. 13 Ông cũng làm năm mươi móc khóa bằng vàng, rồi dùng năm mươi móc khóa đó kết hai bộ màn lại với nhau; và như thế Ðền Tạm đã thành hình do hai bộ màn được kết lại với nhau thành một.

14 Ông cũng làm những tấm màn bằng lông dê để kết lại làm thành mái lều che trên Ðền Tạm. Ông làm mười một tấm màn như thế. 15 Chiều dài mỗi tấm màn mười lăm mét; chiều rộng mỗi tấm màn hai mét.[b] Mười một tấm màn đều có kích thước bằng nhau. 16 Ông kết năm tấm màn lại với nhau thành một mái; rồi ông kết sáu tấm màn kia lại với nhau thành một mái khác. 17 Ông làm năm mươi khoen gắn nơi mép của mái nầy, và năm mươi khoen gắn nơi mép của mái kia. 18 Ông làm năm mươi móc khóa bằng đồng, rồi móc các khoen lại với nhau để có nguyên một bộ mái lều. 19 Ông cũng làm một tấm bạt che lều bằng da chiên nhuộm đỏ, và một tấm bạt khác bằng da thượng hạng[c] để phủ lên trên tấm bạt ấy.

20 Sau đó ông làm những tấm ván bằng gỗ si-tim để làm vách Ðền Tạm. 21 Mỗi tấm dài năm mét và rộng bảy tấc rưỡi.[d] 22 Mỗi tấm có hai cái mộng để ghép lại với nhau. Ông làm như vậy cho tất cả các tấm ván của Ðền Tạm. 23 Ông lấy các tấm ván ấy và dựng lên như thế nầy: hai mươi tấm về hướng nam. 24 Ông làm bốn mươi cái đế bằng bạc để đặt bên dưới các tấm ván. Dưới tấm ván thứ nhất ông đặt hai đế ráp vào hai cái mộng, và hai đế dưới mỗi tấm ván kế tiếp ráp vào hai cái mộng của tấm ván ấy. 25 Còn phía bên kia Ðền Tạm, tức hướng bắc, ông cũng dựng hai mươi tấm vách ván, 26 và bốn mươi cái đế bằng bạc, hai đế dưới tấm thứ nhất, và hai đế cho mỗi tấm kế tiếp. 27 Ðầu trong cùng của Ðền Tạm, tức về hướng tây, ông làm sáu tấm vách ván. 28 Ông làm hai tấm ở hai góc trong cùng của Ðền Tạm. 29 Hai tấm ván góc ấy ghép lại với nhau từ dưới lên trên, cho đến khoen thứ nhất.[e] Ông làm hai bộ như vậy cho hai góc. 30 Như vậy có tám tấm ván với các đế bạc, tức mười sáu cái đế; cứ dưới mỗi tấm có hai cái đế.

31 Ông làm các thanh ngang bằng gỗ si-tim: năm thanh cho các tấm ván bên nầy của Ðền Tạm, 32 năm thanh cho các tấm ván bên kia của Ðền Tạm, và năm thanh cho các tấm ván trong cùng của Ðền Tạm, tức về hướng tây. 33 Ông làm thanh ngang giữa, dài từ đầu nầy đến đầu kia, nằm giữa độ cao của vách ván. 34 Ông cho bọc các tấm ván ấy bằng vàng, rồi làm các khoen bằng vàng để xỏ các thanh ngang vào. Ông cũng cho bọc các thanh ngang ấy bằng vàng.

35 Ông cho làm một bức màn bằng chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn, có thêu hình các chê-ru-bim rất mỹ thuật. 36 Ông cho làm bốn cây trụ bằng gỗ si-tim, rồi bọc vàng lại. Các móc cũng làm bằng vàng. Ông cho đúc bốn cái đế trụ bằng bạc.

37 Ông cũng cho làm một tấm màn che cửa vào lều bằng chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn, do tay những thợ đan tài khéo thực hiện. 38 Ông cho làm năm cây trụ có móc để treo màn. Ông cho bọc vàng các đầu trụ và thân trụ, nhưng các đế trụ thì làm bằng đồng.

Làm Rương Giao Ước

(Xuất 25:10-12)

37 Bê-xanh-ên làm một cái rương bằng gỗ si-tim. Rương ấy dài một mét hai mươi lăm, rộng bảy tấc rưỡi, và cao bảy tấc rưỡi.[f] Ông bọc vàng cả bên trong lẫn bên ngoài, rồi làm một đường viền bằng vàng chung quanh rương. Ông đúc bốn cái khoen bằng vàng gắn ở bốn chân, hai khoen bên nầy và hai khoen bên kia. Ông làm các đòn khiêng bằng gỗ si-tim, và lấy vàng bọc lại, rồi xỏ các đòn khiêng ấy vào các khoen ở hai bên rương để khiêng. Ông làm một Nắp Thi Ân bằng vàng ròng, dài một mét hai mươi lăm, và rộng bảy tấc rưỡi.[g] Ông cũng làm hai chê-ru-bim bằng vàng dát mỏng, rồi gắn vào hai đầu nắp; một chê-rúp[h] ở đầu nầy và một chê-rúp ở đầu kia. Ông gắn hai chê-ru-bim đó vào hai đầu nắp, để dính làm một với nắp. Hai chê-ru-bim dang cánh ra, dùng các cánh mình che trên Nắp Thi Ân. Hai chê-ru-bim quay mặt vào nhau, nhưng đều cúi nhìn vào Nắp Thi Ân.

Làm Bàn Ðể Bánh Hằng Hiến

(Xuất 25:23-30)

10 Ông làm một bàn bằng gỗ si-tim, dài một mét, rộng nửa mét, và cao bảy tấc rưỡi.[i] 11 Ông lấy vàng ròng bọc bàn lại, rồi làm một đường viền bằng vàng quanh bàn ấy. 12 Ông làm một cái khung quanh bàn, bề ngang thành khung rộng một bàn tay, rồi làm một đường viền quanh khung bằng vàng. 13 Ông đúc bốn cái khoen bằng vàng, rồi gắn bốn khoen ấy vào bốn chân ở bốn góc bàn. 14 Các khoen ấy ở sát với cái khung và được dùng để xỏ các đòn khiêng vào để khiêng bàn. 15 Ông làm các đòn khiêng để khiêng bàn bằng gỗ si-tim, rồi lấy vàng bọc lại. 16 Ông cũng lấy vàng ròng làm các khí dụng để trên bàn: các khay, các đĩa đựng hương, các chén, và các bình để dùng cho việc dâng lễ quán.

Làm Cây Ðèn

(Xuất 25:31-40)

17 Ông làm một cây đèn bằng vàng ròng. Cái đế và thân cây đèn được làm bằng vàng dát mỏng. Các đài hoa, các nụ hoa, và các cánh hoa đều dính với cây đèn thành một khối. 18 Cây đèn có sáu nhánh tẻ ra hai bên. Ba nhánh của cây đèn tẻ ra bên nầy, và ba nhánh của cây đèn tẻ ra bên kia. 19 Trên mỗi nhánh bên nầy có ba đài hoa giống hình hoa hạnh nhân, với các nụ hoa và các cánh hoa. Trên mỗi nhánh bên kia cũng có ba đài hoa giống hình hoa hạnh nhân, với các nụ hoa và các cánh hoa. Cả sáu nhánh tẻ ra hai bên cây đèn đều giống nhau như thế. 20 Còn trên chính thân cây đèn có bốn đài hoa giống hình hoa hạnh nhân, với các nụ hoa và các cánh hoa. 21 Phía dưới, nơi hai nhánh dưới cùng đâu lại với nhau, có một nụ hoa; phía dưới, nơi hai nhánh giữa đâu lại với nhau, có một nụ hoa; và phía dưới, nơi hai nhánh trên cùng đâu lại với nhau, có một nụ hoa. 22 Các nụ hoa và các nhánh đèn được đúc chung với nhau thành một khối. Toàn thể cây đèn được làm bằng vàng ròng dát mỏng liền với nhau thành một khối. 23 Ông làm bảy đèn vàng, các kéo cắt tim đèn, và các đĩa đựng tàn đèn bằng vàng ròng. 24 Ông làm cây đèn và mọi khí dụng cho cây đèn bằng ba mươi bốn ký vàng ròng.[j]

Làm Bàn Thờ Dâng Hương

(Xuất 30:1-5)

25 Ông làm bàn thờ dâng hương bằng gỗ si-tim, bề ngang nửa mét, bề dọc nửa mét, tức hình vuông, và cao một mét.[k] Các sừng của bàn thờ dính liền với bàn thờ thành một khối. 26 Ông lấy vàng ròng bọc bàn thờ lại, gồm mặt bàn, chung quanh bàn, và các sừng của bàn. Kế đó ông làm một đường viền quanh bàn thờ bằng vàng. 27 Ông làm hai khoen bằng vàng, rồi gắn vào bên hông bàn, phía dưới đường viền. Ông làm như thế cho cả hai bên hông bàn, để người ta xỏ các đòn khiêng vào khiêng bàn. 28 Ông lấy gỗ si-tim làm các đòn khiêng, rồi lấy vàng bọc chúng lại.

Chế Dầu Dùng cho Phép Xức Dầu và Hương Thơm Thánh

(Xuất 30:22-38)

29 Ông cũng chế dầu thánh dùng cho phép xức dầu và hương thơm thánh tinh khiết, theo cách chế biến của thợ chế hương.

Làm Bàn Thờ Dâng Của Lễ Thiêu

(Xuất 27:1-8)

38 Ông làm bàn thờ dâng của lễ thiêu bằng gỗ si-tim. Bàn thờ ấy có chiều dọc hai mét rưỡi, chiều ngang hai mét rưỡi, và chiều cao một mét rưỡi;[l] như vậy mặt bàn thờ có hình vuông. Ông làm bốn cái sừng ở bốn góc bàn thờ. Các sừng của bàn thờ dính với bàn thờ thành một khối, rồi ông lấy đồng bọc cả bàn thờ lại. Ông làm tất cả các dụng cụ cho bàn thờ, gồm các thùng đựng tro, các xẻng, các thùng nước, các chĩa, và các khay. Ông làm tất cả các dụng cụ cho bàn thờ đều bằng đồng. Ông cũng làm cho bàn thờ một cái rá lưới bằng đồng, treo trong bốn chân, bên dưới đường viền quanh bàn thờ, nằm sâu ở khoảng giữa chiều cao của bàn thờ. Ông đúc bốn khoen để xỏ đòn khiêng gắn vào bốn góc của rá lưới. Ông làm các đòn khiêng bằng gỗ si-tim, rồi lấy đồng bọc chúng lại. Ông cho xỏ các đòn khiêng vào các khoen gắn ở hai bên hông bàn thờ để người ta khiêng bàn thờ. Ông làm bàn thờ rỗng bên trong, bằng những tấm ván đóng lại.

Làm Ðỉnh Ðồng

(Xuất 30:18)

Ông làm cái đỉnh đồng với đế đỉnh cũng bằng đồng. Ông lấy đồng từ những tấm gương đồng của các phụ nữ phục vụ nơi cửa Lều Hội Kiến soi làm nên hai vật ấy.

Làm Màn Che Quanh Sân Ðền

(Xuất 27:9-19)

Ông làm sân đền. Về phía nam, ông cho treo những tấm màn dệt bằng sợi gai mịn, chiều dài phía đó là năm mươi mét.[m] 10 Hai mươi cây cột treo màn và hai mươi đế cột đều làm bằng đồng, nhưng các móc cột và các thanh ngang được làm bằng bạc. 11 Về phía bắc, các tấm màn nối lại dài năm mươi mét.[n] Hai mươi cây cột treo màn và hai mươi đế cột đều làm bằng đồng, nhưng các móc cột và các thanh ngang được làm bằng bạc. 12 Về phía tây, các tấm màn nối lại dài hai mươi lăm mét,[o] với mười cây cột treo màn và mười đế cột; các móc cột và các thanh ngang đều làm bằng bạc. 13 Về mặt tiền, tức phía đông, chiều rộng là hai mươi lăm mét.[p] 14 Các tấm màn nối lại ở bên nầy cổng đền dài bảy mét rưỡi,[q] với ba cây cột treo màn và ba đế cột. 15 Phía bên kia cổng đền cũng vậy. Mỗi bên cổng đền đều treo các tấm màn, nối lại dài bảy mét rưỡi,[r] với ba cây cột treo màn và ba đế cột. 16 Tất cả các màn treo quanh sân đều làm bằng sợi gai mịn dệt thành. 17 Các đế của các cột treo màn đều làm bằng đồng, nhưng các móc cột và các thanh ngang thì làm bằng bạc. Các đầu cột đều được bọc bạc. Như vậy tất cả các cột treo màn của sân đền đều được nối lại với nhau bằng những thanh ngang làm bằng bạc.

18 Tấm màn chắn ở cổng vào sân đền được dệt rất mỹ thuật bằng chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải dệt bằng sợi gai mịn. Tấm màn ấy dài mười mét và rộng, tức chiều cao, hai mét rưỡi,[s] theo chiều cao các tấm màn treo quanh sân đền. 19 Bốn cột treo màn có bốn đế bằng đồng. Các móc bằng bạc, các đầu cột được bọc bạc, còn các thanh ngang cũng bằng bạc. 20 Tất cả các cọc để căng Ðền Tạm và các cọc để căng những tấm màn quanh sân đền đều làm bằng đồng.

Tổng Kết Số Vật Liệu Xây Dựng Ðền Tạm

21 Ðây là bảng kết toán công trình xây dựng Ðền Tạm, tức Ðền Tạm của Giao Ước, để cho những người Lê-vi phục vụ, dưới sự chỉ huy của I-tha-ma con trai Tư Tế A-rôn, theo lịnh của Môi-se. 22 Bê-xanh-ên con trai U-ri, cháu Hu-rơ, trong chi tộc Giu-đa đã hoàn tất mọi việc Chúa đã truyền cho Môi-se. 23 Cùng cộng tác với ông có Ô-hô-li-áp con trai A-hi-sa-mách, thuộc chi tộc Ðan. Ông ấy là thợ chạm khắc, người vẽ kiểu, và thợ thêu chỉ xanh dương, chỉ tím, chỉ đỏ thắm, và vải gai mịn.

24 Tổng số vàng đã sử dụng để thực hiện mọi công trình xây dựng Ðền Tạm, tức số vàng do dân dâng hiến, là một ngàn ký,[t] tính theo cân lượng[u] của Nơi Thánh. 25 Số bạc do hội chúng đóng góp tính được ba ngàn bốn trăm ba mươi ký,[v] tính theo cân lượng của Nơi Thánh. 26 Mỗi đầu người, tức mỗi người nam đã đăng bạ trong cuộc thống kê dân số, đóng góp năm gờ-ram rưỡi,[w] tức nửa sê-ken, tính theo cân lượng của Nơi Thánh. Có cả thảy sáu trăm lẻ ba ngàn năm trăm năm mươi người nam từ hai mươi tuổi trở lên đã đăng bạ. 27 Số bạc ba ngàn bốn trăm ba mươi ký[x] đó đã được dùng để đúc các đế[y] cho Ðền Tạm, các đế cho bức màn.[z] Một trăm cái đế cần đến ba ngàn bốn trăm ký,[aa] tức ba mươi bốn ký[ab] cho một đế. 28 Số bạc ba mươi ký[ac] còn lại ông dùng làm các móc cột, bọc các đầu cột, và làm các thanh ngang. 29 Số đồng người ta đem đến dâng là hai ngàn bốn trăm hai mươi lăm ký.[ad] 30 Ông dùng số đồng đó làm các đế cho cửa vào Lều Hội Kiến, bàn thờ bằng đồng, rá lưới đồng, các dụng cụ cho bàn thờ, 31 các đế chung quanh sân đền, các đế cho cổng vào sân đền, tất cả các cọc để căng Ðền Tạm, và tất cả các cọc để căng các tấm màn che quanh sân đền.

Footnotes

  1. Xuất Hành 36:9 nt: dài 28 cubits, rộng 4 cubits
  2. Xuất Hành 36:15 nt: dài 30 cubits, rộng 4 cubits
  3. Xuất Hành 36:19 ctd: da dê hay da cá heo
  4. Xuất Hành 36:21 nt: dài 10 cubits, rộng một cubit rưỡi
  5. Xuất Hành 36:29 ctd: Hai tấm ván góc ghép lại với nhau thì để hở ra bên dưới, nhưng trên đầu phải đâu lại với nhau ở khoen thứ nhất
  6. Xuất Hành 37:1 nt: dài 2,5 cubits, rộng 1,5 cubit, cao 1,5 cubit
  7. Xuất Hành 37:6 nt: dài 2,5 cubits, rộng 1,5 cubit
  8. Xuất Hành 37:8 cherub (số ít), cherubim (số nhiều)
  9. Xuất Hành 37:10 nt: dài 2 cubits, rộng 1 cubit, cao 1,5 cubit
  10. Xuất Hành 37:24 nt: một ta-lâng
  11. Xuất Hành 37:25 nt: ngang 1 cubit, dọc 1 cubit, cao 2 cubits
  12. Xuất Hành 38:1 nt: dọc 5 cubits, ngang 5 cubits, cao 3 cubits
  13. Xuất Hành 38:9 nt: 100 cubits
  14. Xuất Hành 38:11 nt: 100 cubits
  15. Xuất Hành 38:12 nt: 50 cubits
  16. Xuất Hành 38:13 nt: 50 cubits
  17. Xuất Hành 38:14 nt: 15 cubits
  18. Xuất Hành 38:15 nt: 15 cubits
  19. Xuất Hành 38:18 nt: dài 20 cubits, cao 5 cubits
  20. Xuất Hành 38:24 nt: 29 talents (ta-lâng) và 730 sê-ken. 29 talents tương đương với 2.175 pounds hay 991 kilograms. 730 sê-ken tương đương với 20 pounds hay 9 kilograms. Tổng cộng là 2.195 pounds hay 1.000 kilograms.
  21. Xuất Hành 38:24 nt: sê-ken
  22. Xuất Hành 38:25 nt: 100 talents và 1.775 sê-ken. 100 talents tương đương với 7.500 pounds hay 3.400 kilograms. 1.775 sê-ken tương đương với 50 pounds hay 30 kilograms. Tổng cộng là 7.550 pounds hay 3.430 kilograms.
  23. Xuất Hành 38:26 nt: 1 beka (bê-ca)
  24. Xuất Hành 38:27 nt: 100 talents
  25. Xuất Hành 38:27 xem 26:19
  26. Xuất Hành 38:27 xem 26:32
  27. Xuất Hành 38:27 nt: 100 talents
  28. Xuất Hành 38:27 nt: 1 talent
  29. Xuất Hành 38:28 nt: 1.775 sê-ken
  30. Xuất Hành 38:29 nt: 75 talents và 2.400 sê-ken. 75 talents tương đương với 5.250 pounds hay 2.397 kilograms. 2.400 sê-ken tương đương với 60 pounds hay 28 kilograms. Tổng cộng là 5.310 pounds hay 2.425 kilograms.

Chúa Khuyến Cáo Dân Chúng về Những Thầy Dạy Giáo Luật và Những Người Pha-ri-si

(Mác 12:38-39; Lu 11:43-46; 20:45-46)

23 Bấy giờ Ðức Chúa Jesus nói với đám đông và các môn đồ Ngài, “Những thầy dạy giáo luật và những người Pha-ri-si ngồi ở cương vị của Môi-se. Vậy hãy làm và giữ những gì họ dạy các ngươi; nhưng đừng làm theo những gì họ làm, vì họ không thực hành những gì họ dạy. Họ buộc những gánh nặng khó mang, rồi đặt trên vai người khác, nhưng chính họ, họ không muốn động ngón tay vào. Họ làm mọi việc cốt để phô trương cho người ta thấy. Họ mang những hộp đựng kinh luật thật to và làm những tua áo cho dài. Họ thích ngồi bàn danh dự trong các đám tiệc và dành những chỗ ngồi tôn trọng nhất trong các hội đường. Họ muốn được chào hỏi kính cẩn ngoài phố chợ và thích được người ta gọi là thầy.[a] Nhưng các ngươi đừng để người ta gọi mình là thầy, vì các ngươi chỉ có một Thầy, và hết thảy các ngươi đều là bạn học[b] với nhau. Dưới đất này, các ngươi cũng đừng gọi ai là cha, vì các ngươi chỉ có một Cha trên trời. 10 Các ngươi cũng đừng để ai gọi mình là các lãnh tụ, vì chỉ có một Lãnh Tụ, đó là Ðấng Christ. 11 Người lớn nhất trong các ngươi sẽ là người phục vụ các ngươi. 12 Ai đưa mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được đưa lên.”

Chúa Quở Trách Thói Ðạo Ðức Giả

(Mác 12:40; Lu 11:39-42, 44, 52; 20:47)

13 “Khốn cho các ngươi, những thầy dạy giáo luật và những người Pha-ri-si, những kẻ đạo đức giả! Vì các ngươi đóng cửa thiên đàng, không cho người khác vào, vì chính các ngươi không vào, nhưng ai muốn vào các ngươi lại ngăn cản.

14 [ Khốn cho các ngươi, những thầy dạy giáo luật và những người Pha-ri-si, những kẻ đạo đức giả! Vì các ngươi nuốt nhà các bà góa, mà ngoài mặt làm bộ cầu nguyện dài lê thê. Vì thế các ngươi sẽ bị đoán phạt nặng hơn. ][c]

15 Khốn cho các ngươi, những thầy dạy giáo luật và những người Pha-ri-si, những kẻ đạo đức giả! Vì các ngươi vượt biển băng ngàn để đem một người vào đạo, rồi các ngươi làm cho người mới theo đạo thành người của hỏa ngục gấp đôi các ngươi.

16 Khốn cho các ngươi, những kẻ dẫn đường bị mù! Các ngươi dạy rằng, ‘Nếu ai chỉ đền thờ mà thề thì không sao; nhưng nếu ai chỉ vàng của đền thờ mà thề sẽ bị trói buộc.’ 17 Hỡi những kẻ điên rồ và mù quáng, vàng hay đền thờ làm cho vàng ra thánh, cái nào trọng hơn? 18 Các ngươi còn dạy, ‘Người nào chỉ bàn thờ mà thề thì không sao; nhưng ai chỉ của lễ trên bàn thờ mà thề sẽ bị trói buộc.’ 19 Hỡi những kẻ mù quáng, của lễ hay bàn thờ làm cho của lễ ra thánh, cái nào trọng hơn? 20 Thế thì ai chỉ bàn thờ mà thề là chỉ cả bàn thờ và mọi thứ trên đó mà thề. 21 Còn ai chỉ đền thờ mà thề là chỉ đền thờ và Ðấng ngự trong đó mà thề. 22 Còn ai chỉ trời mà thề là chỉ ngai Ðức Chúa Trời và Ðấng ngự trên ngai đó mà thề.

Read full chapter

Footnotes

  1. Ma-thi-ơ 23:7 nt: ra-bi
  2. Ma-thi-ơ 23:8 nt: anh em
  3. Ma-thi-ơ 23:14 Một số bản cổ có thêm câu trong hai móc này.