Add parallel Print Page Options

Chữ viết trên tường

Vua Bên-sát-xa mở một đại tiệc thết đãi một ngàn quan khách và uống rượu với họ. Trong khi đang uống rượu thì vua Bên-sát-xa ra lệnh mang các ly chén bằng vàng và bạc mà cha ông [a] mình là Nê-bu-cát-nết-xa đã lấy từ đền thờ tại Giê-ru-sa-lem để vua, các quan khách, các bà vợ và các hầu thiếp dùng uống rượu. Cho nên họ mang các ly chén bằng vàng đã lấy từ trong đền thờ Thượng Đế ở Giê-ru-sa-lem. Vua, các quan khách hoàng gia, các bà vợ, và các hầu thiếp dùng các ly chén đó để uống rượu. Trong khi đang uống thì họ ca ngợi các thần của mình là các thần bằng vàng, bạc, đồng, sắt, gỗ, và đá.

Bỗng nhiên có các ngón tay của bàn tay người xuất hiện viết trên vách tường, gần chân đèn trong cung điện. Nhà vua chăm chú nhìn bàn tay đang viết.

Vua Bên-sát-xa đâm ra kinh hoàng. Mặt vua tái xanh, các đầu gối chạm vào nhau, vua đứng lên không nổi vì hai chân đã bủn rủn. Vua gọi các thuật sĩ, học giả, các phù thủy của Ba-by-lôn lại bảo, “Ai có thể đọc và giải thích những chữ nầy sẽ được mặc áo vải tím [b] dành cho vua và được mang vòng vàng vào cổ. Ta sẽ phong cho người đó làm quan lớn thứ ba trong nước.”

Các nhà thông thái của vua vào nhưng họ không thể đọc được hay giải nghĩa dòng chữ đó. Vua Bên-sát-xa càng đâm ra sợ hãi, mặt vua càng biến sắc. Các quan khách của hoàng gia cũng hoang mang.

10 Lúc đó bà thái hậu tức mẹ vua nghe tiếng của vua và các khách hoàng gia nên bước vào phòng tiệc. Bà bảo, “Vua vạn tuế! Đừng sợ, xin đừng tái mặt vì hoảng hốt! 11 Có một người trong nước vua đầy dẫy linh của các thánh thần. Trong thời cha vua, người nầy tỏ ra thông sáng, hiểu biết, và khôn ngoan như các thần. Cha vua, tức Nê-bu-cát-nết-xa, đã đặt người cai quản các nhà thông thái, tướng số, thuật sĩ, và phù thủy. 12 Người mà tôi nói là Đa-niên mà vua cha đặt cho tên Bên-tơ-sát-xa. Người rất thông minh, đầy hiểu biết và thông sáng. Người có thể giải thích chiêm bao cùng các điều huyền bí đồng thời có thể trả lời những vấn đề giải. Hãy gọi Đa-niên, người sẽ giải thích cho vua ý nghĩa của dòng chữ trên vách.”

13 Vậy người ta đưa Đa-niên vào gặp nhà vua. Vua hỏi, “Ngươi có phải là Đa-niên không? Ngươi có phải là một trong những tù binh mà cha ta mang từ xứ Giu-đa không? 14 Ta đã nghe rằng linh của các thần ở trong ngươi và rằng ngươi rất thông minh, đầy hiểu biết và thông sáng phi thường. 15 Các nhà thông thái và thuật sĩ được đưa vào đây để đọc dòng chữ nầy và giải thích ý nghĩa nhưng họ không giải nghĩa được. 16 Ta nghe rằng ngươi có thể giải nghĩa mọi điều và biết giải pháp cho các vấn đề khó khăn. Hãy đọc dòng chữ nầy và giải nghĩa cho ta. Nếu làm được, ta sẽ ban cho ngươi áo tím dành cho vua, và vòng vàng đeo cổ. Ngươi sẽ trở thành quan lớn thứ ba trong triều.”

17 Đa-niên tâu với vua, “Xin vua hãy giữ các phần thưởng đó cho mình hay cho người khác. Nhưng tôi sẽ đọc và giải nghĩa hàng chữ viết trên tường cho vua biết.

18 Tâu vua, Thượng Đế Chí Cao đã khiến Nê-bu-cát-nết-xa, cha vua thành một hoàng đế cao cả, oai nghi và hùng cường. 19 Vì Thượng Đế đã khiến người cao trọng nên các dân tộc, các quốc gia, các người nói mọi thứ tiếng đều sợ Nê-bu-cát-nết-xa. Người muốn giết ai thì giết, muốn để ai sống thì để. Người muốn tiến cử ai thì tiến cử, muốn hạ bệ ai thì hạ bệ.

20 Nhưng vua Nê-bu-cát-nết-xa đâm ra quá tự phụ và ương ngạnh cho nên người bị tước ngôi báu. Sự vinh hiển của người bị lấy đi. 21 Người bị đuổi khỏi loài người, trí khôn người trở nên như trí loài vật. Người sống giữa các con lừa hoang và ăn cỏ như bò và thân bị dầm sương. Người ở trong trạng thái đó cho đến khi hiểu ra rằng: Thượng Đế Chí Cao cai trị mọi nước trên đất, và Ngài muốn đặt để ai cai trị các nước theo ý mình.

22 Tâu vua Bên-sát-xa, vua đã biết những chuyện ấy vì vua là con cháu [c] Nê-bu-cát-nết-xa nhưng vua không chịu khiêm nhường và hạ mình. 23 Trái lại vua đã chống nghịch CHÚA trên trời. Vua ra lệnh mang các ly chén lấy từ đền thờ của CHÚA đến cho vua. Rồi vua, các quan khách hoàng gia, các bà vợ và các hầu thiếp dùng để uống. Vua ca ngợi các thần bằng bạc, vàng, đồng, sắt, gỗ, và đá là những thần không phải là thần; chúng không thấy, không nghe, không hiểu biết gì cả. Vua không tôn trọng Thượng Đế là Đấng có quyền trên mạng sống và mọi hành động của vua. 24 Cho nên Thượng Đế đã sai bàn tay viết trên vách. 25 Những chữ viết trên vách như sau:

mê-nê, mê-nê, tê-ken, và u-phác-xin.’

26 Ý nghĩa như sau:

Mê-nê [d]: Thượng Đế đã đếm các ngày cho đến điểm kết thúc của nước vua.

27 Tê-ken [e]: Vua được để trên cân và thấy quá nhẹ.

28 U-phác-xin [f]: Nước vua đang bị lấy đi và sẽ bị chia ra và trao cho người Mê-đi và người Ba-tư.”

29 Vua Bên-sát-xa liền ra lệnh mặc áo tím cho Đa-niên, mang vòng vàng vào cổ và tuyên bố rằng Đa-niên được thăng làm quan lớn thứ ba trong triều đình. 30 Đêm ấy Bên-sát-xa, vua Ba-by-lôn bị giết. 31 Đa-ri-út người Mê-đi lên ngôi vua lúc được sáu mươi hai tuổi.

Đa-niên trong hang sư tử

Vua Đa-ri-út nghĩ nên chọn một trăm hai mươi thống đốc để cai trị toàn vương quốc mình. Vua chọn ba quan để giám sát các thống đốc, và Đa-niên là một trong ba quan đó. Nhiệm vụ của quan giám sát là để cho các thống đốc không lường gạt nhà vua. Đa-niên chứng tỏ mình có thể làm hơn các quan giám sát và thống đốc cho nên vua dự định đề cử Đa-niên cai quản cả xứ. Vì thế các quan giám sát và thống đốc kia tìm cách tố cáo Đa-niên trong công vụ nhưng họ không tìm được khuyết điểm hay lý do gì để tố cáo ông vì Đa-niên rất đáng tin, không lười biếng hay bất lương. Sau cùng họ bảo nhau, “Chúng ta sẽ không bao giờ tìm được lý do gì để tố cáo Đa-niên ngoại trừ lý do liên quan đến luật lệ của Thượng Đế nó.”

Nên các quan giám sát và thống đốc họp nhau đi đến yết kiến vua và tâu: “Chúc vua Đa-ri-út vạn tuế! Các quan giám sát, phụ tá thống đốc, các thống đốc, cố vấn vua, và sĩ quan chỉ huy quân đội đều đồng ý rằng vua nên ra một luật mới cho mọi người tuân theo: Trong vòng ba mươi ngày tới đây không ai được phép cầu nguyện cùng thần nào khác ngoài vua. Ai vi phạm sẽ bị ném vào hang sư tử. Bây giờ xin vua ra luật đó và ký vào để không thể thay đổi được vì là luật của người Mê-đi và Ba-tư, không thể hủy bỏ.” Thế là vua Đa-ri-út ký đạo luật ấy.

10 Sau khi Đa-niên biết rằng luật mới đã ký, ông vẫn lên lầu nhà mình cầu nguyện, các cửa sổ lầu mở về hướng Giê-ru-sa-lem. Mỗi ngày ba lần Đa-niên quì gối xuống cầu nguyện và cảm tạ Thượng Đế như vẫn làm từ trước.

11 Bọn đó thấy Đa-niên cầu nguyện xin Thượng Đế giúp đỡ. 12 Chúng liền đến trình với vua về luật mới mà vua ban hành. Chúng tâu, “Thưa vua, có phải vua ban hành luật qui định rằng không ai được phép cầu nguyện với thần hay người nào khác ngoài vua không? Có phải luật đó nói rằng trong ba mươi ngày sắp đến ai bất tuân sẽ bị ném vào hang sư tử không?”

Vua đáp, “Đúng, đó là luật của người Mê-đi và Ba-tư không thể hủy bỏ được.”

13 Bọn chúng liền tâu với vua, “Thưa vua, Đa-niên, một trong những tù binh Giu-đa, không thèm đếm xỉa đến vua hay luật vua đã ký. Nó vẫn cứ cầu nguyện cùng Thượng Đế mỗi ngày ba lần.” 14 Khi nghe vậy vua rất lấy làm bực dọc. Vua muốn cứu Đa-niên nên cố gắng cho đến chiều tối tìm mọi cách cứu ông.

15 Bọn chúng họp lại cùng đi gặp vua. Chúng bảo, “Xin vua nhớ cho rằng luật của người Mê-đi và Ba-tư qui định rằng một khi luật hay mệnh lệnh vua ban ra thì không thể thay đổi được.”

16 Nên vua Đa-ri-út buộc lòng ra lệnh bắt Đa-niên ném vào hang sư tử. Vua bảo Đa-niên, “Nguyện Thượng Đế mà ngươi hằng phục vụ giải cứu ngươi!” 17 Người ta lấy một tảng đá lớn chận miệng hang. Rồi vua đóng ấn và ấn của các sĩ quan hoàng gia trên tảng đá để không ai có thể dời tảng đá mà mang Đa-niên ra. 18 Sau đó vua Đa-ri-út trở về cung. Đêm đó vua không ăn cũng không cho ban nhạc đến giải trí. Vua cũng không ngủ được.

19 Sáng hôm sau vua Đa-ri-út dậy sớm vội vàng đi đến hang sư tử. 20 Khi đến gần hang, vua rất lo ngại. Vua kêu lớn cùng Đa-niên, “Đa-niên, tôi tớ của Thượng Đế hằng sống ơi! Thượng Đế mà ngươi luôn luôn thờ phụng có giải cứu ngươi khỏi sư tử không?”

21 Đa-niên đáp, “Vua vạn tuế! 22 Thượng Đế tôi đã sai thiên sứ Ngài bịt mồm sư tử cho nên chúng nó không làm hại tôi vì Ngài biết tôi vô tội. Thưa vua, tôi không có làm gì thiệt hại cho vua.”

23 Vua Đa-ri-út vô cùng mừng rỡ và ra lệnh cho các tôi tớ đưa Đa-niên ra khỏi hang. Họ mang ông ra khỏi hang và nhận thấy ông không bị thương tích gì vì Đa-niên tin cậy Thượng Đế mình.

24 Rồi vua liền truyền lệnh ném những kẻ đã tố cáo Đa-niên vào hang sư tử. Bọn đó, vợ con chúng đều bị ném vào hang. Trước khi chúng rơi đến đáy hang thì sư tử vồ lấy xé nát xương chúng.

25 Rồi Đa-ri-út viết một văn thư gởi các dân tộc, các quốc gia, các người nói mọi thứ ngôn ngữ trên thế giới:

“Ta chúc bình an và thịnh vượng cho các ngươi.

26 Ta nay ban hành một luật mới cho các dân sống trong vương quốc ta. Tất cả các ngươi phải kính sợ Thượng Đế của Đa-niên.

Thượng Đế của Đa-niên là Thượng Đế hằng sống;
    Ngài sống mãi mãi.
Nước Ngài không bao giờ bị tiêu diệt,
    quyền cai trị của Ngài không bao giờ chấm dứt.
27 Ngài giải cứu mọi dân và làm nhiều phép lạ
    lớn lao trên trời và dưới đất.
Ngài là Đấng giải cứu Đa-niên
    khỏi mãnh lực sư tử.”

28 Đa-niên được trọng vọng suốt triều đại Đa-ri-út và Xi-ru của Ba-tư.

Chiêm bao của Đa-niên về bốn con thú

Trong năm đầu tiên của triều đại Bên-sát-xa [g], vua Ba-by-lôn, Đa-niên nằm chiêm bao. Đang khi nằm trên giường ông thấy một dị tượng và ghi lại điều mình thấy.

Đa-niên thuật, “Ban đêm tôi thấy một dị tượng. Trong đó tôi thấy gió thổi từ bốn phía khiến biển động mạnh. Tôi thấy bốn con thú khổng lồ từ dưới biển lên, không con nào giống con nào.

Con thú thứ nhất giống như sư tử nhưng có cánh như chim ưng. Tôi nhìn nó cho đến khi cánh nó bị rớt ra. Nó được nhấc bổng lên khỏi đất và đứng hai chân như người, rồi nó được ban cho trí óc con người.

Rồi tôi thấy con thú thứ hai đứng trước mặt tôi, trông giống như con gấu. Nó được dựng đứng một bên và trong miệng nó, giữa các răng có ba cái xương sườn. Có tiếng bảo nó, ‘Hãy ngồi dậy muốn ăn thịt bao nhiều mặc ý!’

Sau đó, tôi nhìn, trước mặt tôi có một con thú khác. Con nầy giống như con beo, có bốn cánh trên lưng như cánh chim. Nó có bốn đầu và được ban cho quyền cai trị.

Sau đó, trong dị tượng ban đêm tôi thấy con thú thứ tư trước mặt tôi. Nó trông hung hăng, dữ tợn, và dũng mãnh. Nó có răng bằng sắt rất to. Nó nghiền nát và ăn những gì nó giết được và dẫm lên trên vật gì còn lại. Con thú thứ tư nầy khác hẳn với mấy con thú mà tôi thấy trước, nó có mười sừng.

Trong khi tôi đang suy nghĩ về các sừng thì có một sừng khác mọc lên giữa các sừng trước. Sừng mới nầy nhỏ nhưng có con mắt giống mắt người. Nó cũng có miệng khoe khoang khoác lác. Sừng nhỏ đó nhổ ba cái sừng kia.

Đang khi tôi nhìn, thì thấy các ngôi
    đặt nơi chúng nó đứng,
và Thượng Đế là Đấng Thượng Cổ [h],
    ngồi trên ngôi Ngài.
Áo Ngài trắng như tuyết,
    tóc trên đầu Ngài trắng như lông chiên.
Ngôi Ngài làm bằng lửa,
    và các bánh xe của ngôi có lửa sáng rực.
10 Một dòng sông lửa chảy ra từ trước mặt Ngài.
    Hàng ngàn thiên sứ phục vụ Ngài,
hàng triệu thiên sứ khác đứng trước mặt Ngài.
Phiên tòa sắp khai mạc, các sách đều mở ra.

11 Tôi mải nhìn vì cái sừng nhỏ đang khoe khoang. Tôi nhìn cho đến khi con thú thứ tư bị giết. Thân nó bị tiêu hủy và bị ném vào trong lửa cháy bừng. 12 Quyền thế của các con thú kia cũng bị tước đoạt khỏi chúng nhưng chúng được phép sống thêm một thời gian nữa.

13 Trong dị tượng ban đêm tôi thấy trước mặt tôi có ai giống như con người [i] đang từ trên mây đi xuống. Người đó đến gần Thượng Đế là Đấng Thượng Cổ, và được đưa đến cùng Thượng Đế. 14 Người được ban cho quyền thế, vinh hiển, và quyền lực của vua. Dân chúng từ các chi tộc, các quốc gia, các ngôn ngữ sẽ phục vụ người. Quyền cai trị của người sẽ còn đến mãi mãi, nước người không bao giờ bị tiêu diệt.

Ý nghĩa của chiêm bao

15 Tôi, Đa-niên, rất băn khoăn. Sự hiện thấy đi qua trí tôi khiến tôi lo sợ. 16 Tôi đến gần một trong những vị đứng đó và hỏi thăm về ý nghĩa của hiện tượng.

Người liền giải thích cho tôi như sau: 17 ‘Bốn con thú khổng lồ là bốn đế quốc cai trị trên đất. 18 Nhưng những người thánh thuộc về Thượng Đế Chí Cao sẽ nhận quyền cai trị và sẽ trị vì đời đời, từ nay về sau.’

19 Tuy nhiên tôi muốn biết con thú thứ tư có ý nghĩa gì vì nó không giống các con thú khác. Nó trông rất ghê sợ, có răng bằng sắt, móng bằng đồng. Nó là con thú nghiền và ăn những gì nó giết, rồi chà đạp lên những gì còn lại. 20 Tôi cũng muốn biết về mười cái sừng trên đầu nó và về cái sừng nhỏ mọc ở giữa. Sừng nhỏ đó nhổ ba cái sừng kia và trông oai nghi hơn các cái kia. Nó có mắt và miệng nói những lời huênh hoang. 21 Trong khi tôi đang nhìn thì cái sừng nhỏ bắt đầu gây chiến với dân thánh của Thượng Đế và thắng họ 22 cho tới khi Thượng Đế, Đấng sống đời đời đến. Ngài phân xử phần thắng về dân thánh thuộc về Thượng Đế Chí Cao; rồi đến lúc họ nhận quyền cai trị.

23 Người giải thích cho tôi như sau: ‘Con thú thứ tư là nước thứ tư sẽ đến trên đất. Nước nó không giống các nước khác và sẽ tiêu diệt dân cư khắp thế gian. Nó sẽ dẫm lên và chà đạp cả thế gian. 24 Mười cái sừng là mười vua sẽ đến sau nước thứ tư đó. Sau khi mười vua không còn nữa thì một vua khác sẽ đến. Vua nầy khác hẳn các vua cai trị trước mình, và người sẽ đánh bại ba trong số các vua kia. 25 Vua nầy sẽ nói phạm đến Thượng Đế Chí Cao. Người sẽ giết hại dân thánh của Thượng Đế và tìm cách thay đổi thời kỳ cùng luật lệ đã được qui định. Dân thánh thuộc về Thượng Đế sẽ ở dưới quyền vua đó trong ba năm rưỡi [j].

26 Nhưng toà án sẽ quyết định tình thế. Quyền của vua đó sẽ bị tước đoạt, và nước của người cũng hoàn toàn bị tiêu diệt. 27 Rồi dân thánh của Thượng Đế Chí Cao sẽ nhận quyền cai trị. Họ sẽ cai trị trên mọi nước dưới trời bằng quyền uy và oai nghi [k]. Quyền cai trị của họ sẽ còn đời đời. Dân chúng của các nước kia sẽ kính sợ và thần phục họ.’

28 Đến đó là kết thúc chiêm bao. Tôi, Đa-niên, rất lo sợ. Mặt tôi tái nhợt vì sợ, nhưng tôi giữ các điều ấy trong lòng tôi.”

Footnotes

  1. Ða-ni-ên 5:2 cha ông Hay “cha.” Người ta không rõ là Bên-sát-xa có phải là cháu của Nê-bu-cát-nết-xa hay không. Trong câu nầy chữ “cha ông” ám chỉ vua tiền nhiệm. Xem câu 11, 18.
  2. Ða-ni-ên 5:7 áo vải tím Loại áo mà những người giàu sang và quyền thế mặc, như vua chẳng hạn. Xem câu 16.
  3. Ða-ni-ên 5:22 con cháu Hay “con.” Từ ngữ nầy không có nghĩa là cả hai đều xuất thân cùng một gia đình mà chỉ có nghĩa là Bên-sát-xa nối ngôi Nê-bu-cát-nết-xa.
  4. Ða-ni-ên 5:26 Mê-nê Một quả cân hay trọng lượng, tương tự như chữ “mi-na” trong tiếng Hê-bơ-rơ. Chữ nầy nghe như tiếng “đếm.”
  5. Ða-ni-ên 5:27 Tê-ken Cũng là một trọng lượng hay vật nặng. Tiếng Hê-bơ-rơ là “sê-ken” có nghĩa là “cân.”
  6. Ða-ni-ên 5:28 U-phác-xin Nguyên văn, “Phê-rết” có nghĩa là trọng lượng. Từ ngữ nầy nghe như “chia ra” hay “tách rời.” Đây cũng là tên của xứ Ba-tư.
  7. Ða-ni-ên 7:1 năm đầu tiên của triều đại Bên-sát-xa Khoảng năm 553 trước Công nguyên.
  8. Ða-ni-ên 7:9 Đấng Thượng Cổ Đây muốn nói đến Thượng Đế là vị vua cai trị từ đời xưa. Xem các câu 10, 13, 22.
  9. Ða-ni-ên 7:13 giống như con người Hay “như một con người thật.” Ý muốn nói đây là một con người không phải là thiên sứ hay thú vật.
  10. Ða-ni-ên 7:25 ba năm rưỡi Nguyên văn, “Một thời kỳ, hai thời kỳ, và nửa thời kỳ.”
  11. Ða-ni-ên 7:27 Họ sẽ cai trị … và oai nghi Nguyên văn, “Quyền cai trị, vương quốc và sự oai nghi của các vương quốc dưới trời được trao cho các thánh đồ.”

Trưởng lão [a]

Kính gởi chị [b] được Chúa chọn cùng các con của chị:

Tôi yêu tất cả các con trong sự thật [c], không những tôi mà thôi nhưng tất cả mọi người biết sự thật đều yêu mến chị. Vì sự thật đang sống trong chúng ta và sẽ ở mãi trong chúng ta.

Nguyền xin ân phúc, lòng nhân ái và sự bình an từ Thượng Đế là Cha và từ Con Ngài là Chúa Cứu Thế Giê-xu, ở cùng chúng ta trong sự thật và tình yêu.

Tôi rất vui khi nghe một số con cái chị đi theo sự thật như Cha đã truyền dạy cho chúng ta. Chị yêu dấu, đây không phải là mệnh lệnh mới nhưng là mệnh lệnh chúng ta đã nghe từ ban đầu. Tôi khuyên chị là chúng ta hãy yêu nhau. Yêu thương tức là sống theo cách Thượng Đế đã truyền dạy chúng ta. Như chị đã nghe từ ban đầu, mệnh lệnh của Ngài là: Hãy sống một cuộc đời yêu thương.

Nhiều kẻ phỉnh gạt đã xuất hiện khắp thế gian. Chúng không nhìn nhận Chúa Giê-xu Cứu Thế làm người đến thế gian. Ai không nhìn nhận điều nầy đều là kẻ phỉnh gạt và là kẻ thù của Chúa Cứu Thế. Chị và con cái hãy thận trọng, nếu không thì công khó của chị từ trước tới giờ hóa ra vô ích. Nhưng tôi mong chị và các con nhận được phần thưởng xứng đáng với công khó ấy.

Ai đi quá xa lời dạy dỗ về Chúa Cứu Thế và không tin lời dạy dỗ ấy đều không có Thượng Đế. Nhưng ai tin lời dạy dỗ về Ngài thì có được cả Cha và Con. 10 Ai đi đến với các con mà không mang theo lời dạy dỗ nầy thì đừng tiếp họ vào nhà. 11 Nếu các con tiếp họ vào nhà tức các con cũng đồng lõa với việc ác của họ.

12 Tôi còn nhiều điều muốn viết cho các con nhưng không muốn viết qua giấy mực. Tôi mong đến thăm và nói chuyện với các con, mặt đối mặt để chúng ta tràn ngập vui mừng. 13 Con cái của chị được Thượng Đế chọn kính lời thăm chị [d].

Footnotes

  1. II Giăng 1:1 Trưởng lão “Trưởng lão” nghĩa là người cao tuổi. Đây cũng có thể có nghĩa là một người lãnh đạo đặc biệt trong hội thánh (như trong Tít 1:5).
  2. II Giăng 1:1 chị Đây có thể có nghĩa là người đàn bà hoặc theo như trong thư nầy có thể có nghĩa là hội thánh. Nếu là hội thánh thì cụm từ “con cái” có nghĩa là những người trong hội thánh. Xem câu 5.
  3. II Giăng 1:1 sự thật Hay “Tin Mừng” về Chúa Cứu Thế Giê-xu. Tin Mừng đó kết hợp mọi người với nhau.
  4. II Giăng 1:13 chị Hay chị em của “chị” trong câu 1. Đây có thể là một phụ nữ hay một hội thánh khác.