Add parallel Print Page Options

Bài Ca Tạ Ơn Chúa Giải Cứu

22 Bấy giờ Ða-vít dâng lên Chúa những lời ca ngợi nầy, sau ngày Chúa giải cứu ông khỏi tay mọi kẻ thù và khỏi tay của Sau-lơ. Ông nói,[a]

Chúa là vầng đá của tôi,
Ðồn lũy của tôi, và Ðấng Giải Cứu của tôi.
Ðức Chúa Trời là vầng đá của tôi; tôi nương náu nơi Ngài.
Ngài là thuẫn khiên của tôi và là sừng cứu rỗi của tôi;
Ngài là thành trì của tôi và là nơi tôi ẩn náu.
‘Lạy Ðấng Giải Cứu của con,
Ngài cứu con khỏi quân cường bạo.’
Tôi sẽ kêu cầu Chúa, Ðấng đáng được ca ngợi,
Ðể tôi sẽ được cứu khỏi những kẻ thù ghét mình.
Khi những đợt sóng của tử thần bao phủ tôi;
Những dòng nước lũ của phường gian ác làm tôi kinh hãi;
Các dây của âm phủ trói cột tôi;
Các bẫy của tử thần sập xuống bắt lấy tôi.
Trong cảnh nguy nan tôi kêu cầu Chúa;
Tôi kêu van với Ðức Chúa Trời của tôi.
Từ đền thánh Ngài, Ngài đã nghe tiếng tôi;
Tiếng cầu xin của tôi đã thấu đến tai Ngài.
Bấy giờ đất rúng động và rung chuyển;
Các nền trời chấn động và rung rinh;
Vì Ngài đã nổi giận.
Khói bay ra từ lỗ mũi Ngài;
Lửa hừng thiêu đốt thoát ra từ miệng Ngài;
Làm bùng cháy các than.
10 Ngài nghiêng các từng trời và ngự xuống;
Một áng mây đen che dưới chân Ngài;
11 Ngài ngự trên một thiên thần phục vụ[b] và bay đi;
Ngài được trông thấy trên cánh gió.
12 Ngài khiến bóng tối làm màn trướng che quanh Ngài,
Tức bóng tối của nước mưa và mây đen mù mịt.
13 Do ánh hào quang rực rỡ trước mặt Ngài,
Các viên than đã bùng cháy.
14 Từ trời cao Chúa phát ra sấm sét;
Ðấng Tối Cao cất tiếng, âm thanh vang dội khắp trời.
15 Ngài bắn tên ra, quân thù chạy tán loạn;
Ngài phát chớp nhoáng ra, chúng nó bị tiêu tan.
16 Chúa quở một tiếng, các đáy biển liền lộ ra;
Ngài hắt hơi, các nền địa cầu liền bày rõ.

17 Từ trời cao Ngài vói tay xuống nắm lấy tôi;
Ngài kéo tôi lên khỏi những dòng nước mạnh.
18 Ngài giải thoát tôi khỏi quân thù hung bạo;
Ngài cứu tôi thoát khỏi những kẻ ghét tôi;
Vì đối với tôi chúng thật là mạnh mẽ.
19 Chúng đối đầu với tôi giữa lúc tôi lâm cảnh nguy nan,
Nhưng Chúa đã giúp đỡ tôi.
20 Ngài đã đem tôi ra một nơi an toàn thoải mái;
Ngài đã giải cứu tôi, vì Ngài thấy tôi đẹp lòng Ngài.
21 Chúa đã ban thưởng cho tôi tùy theo lòng ngay lành của tôi;
Ngài đã đền bù cho tôi, tùy theo sự thanh sạch của tay tôi.
22 Vì tôi đã gìn giữ các đường lối Chúa;
Tôi đã không làm gì xấu xa gian ác nghịch lại Ðức Chúa Trời của mình.
23 Vì các mạng lịnh Ngài hằng ở trước mặt tôi;
Còn các luật lệ Ngài tôi không bao giờ từ bỏ.
24 Tôi luôn giữ mình cho trọn vẹn trước mặt Ngài;
Tôi gìn giữ chính mình khỏi những gì tội lỗi.
25 Vì thế Chúa đã ban thưởng cho tôi tùy theo lòng ngay lành của tôi,
Tùy theo sự trong sạch của tôi ở trước thánh nhan Ngài.
26 Ðối với người có lòng thương xót, Ngài lấy ơn thương xót mà đối với họ;[c]
Ðối với người trọn vẹn, Ngài bày tỏ cho họ thế nào là trọn vẹn theo tiêu chuẩn của Ngài;
27 Ðối với người trong sạch,
Ngài cho họ biết sự trong sạch theo chuẩn mực của Ngài phải ra sao;
Ðối với những kẻ gian manh,
Ngài cho chúng biết chúng không thể qua mặt được Ngài.[d]
28 Ngài sẽ cứu giúp những người khốn khổ;
Nhưng mắt Ngài sẽ theo dõi những kẻ kiêu ngạo, để hạ chúng xuống.

29 Lạy Chúa, vì Ngài là ngọn đèn của con;
Chúa biến hoàn cảnh tối tăm của con trở nên sáng sủa.
30 Vì nhờ Chúa, con có thể xông qua một đạo quân;
Nhờ Ðức Chúa Trời của con, con có thể vượt qua được tường thành.
31 Lạy Ðức Chúa Trời, đường lối Ngài thật là toàn hảo;
Lời Chúa thật linh nghiệm vô cùng.
Ngài là thuẫn khiên cho những ai tin cậy Ngài.

32 Vì ngoài Chúa ra, ai là Ðức Chúa Trời?
Ngoài Ðức Chúa Trời ra, ai là Vầng Ðá của chúng ta?
33 Ðức Chúa Trời là thành trì và sức mạnh của tôi.
Ngài làm cho đường lối tôi trở nên trọn vẹn.
34 Ngài làm cho chân tôi nhanh nhẹn tựa chân nai.
Ngài lập cho tôi được vững vàng trên những nơi cao.
35 Ngài luyện tập tay tôi cho ngày chiến trận,
Ðể đôi tay tôi có thể giương nổi một cây cung đồng.

36 Ngài đã ban cho con ơn cứu rỗi của Ngài, để làm thuẫn khiên che chở;
Cách Ngài đối xử dịu dàng với con đã làm cho con được tôn trọng.
37 Ðường con đi Ngài mở toang rộng rãi;
Nên chân con chẳng trợt ngã bao giờ.
38 Con đuổi theo những kẻ thù của con và tiêu diệt chúng;
Con không quay trở về cho đến khi chúng bị tiêu diệt hoàn toàn.
39 Con đã tiêu diệt chúng và đập tan chúng, khiến chúng không ngóc dậy được nữa;
Chúng đã bị ngã gục dưới chân con.
40 Vì Ngài đã nai nịt cho con bằng sức mạnh để ra trận;
Ngài đã làm cho những kẻ nổi dậy chống con phải quỳ lạy dưới chân con.
41 Ngài khiến quân thù của con phải quay lưng bỏ chạy;
Và cho con tiêu diệt những kẻ ghét con.
42 Chúng trông ngóng, nhưng chẳng ai cứu giúp;
Chúng cũng kêu cầu Chúa, nhưng Ngài chẳng đáp lời.
43 Bấy giờ con đánh chúng tan tành như bụi đất;
Con giày đạp chúng và rải chúng ra như bùn ở ngoài đường.
44 Ngài đã giải thoát con khỏi các cuộc chống đối của dân con;
Ngài đã giữ con làm thủ lãnh của các quốc gia;
Một dân con chưa biết sẽ phục vụ con.
45 Những người ngoại quốc thuận phục con;
Vừa khi nghe đến con, họ liền vâng phục.
46 Quân ngoại bang đều hồn phi phách tán;
Từ trong các chiến lũy chúng run rẩy kéo ra hàng.

47 Chúa là Ðấng hằng sống!
Chúc tụng Vầng Ðá của tôi!
Nguyện Ðức Chúa Trời, Vầng Ðá cứu rỗi của tôi, được tôn cao!
48 Chính Ðức Chúa Trời đã báo thù cho tôi;
Ngài đã bắt thiên hạ phục dưới quyền tôi.

49 Lạy Ðấng giải cứu con khỏi những kẻ thù của con,
Thật vậy Ngài đã nâng con lên trên những kẻ nổi lên chống lại con;
Ngài đã giải cứu con khỏi kẻ bạo tàn.
50 Vì thế, lạy Chúa, con sẽ chúc tạ Ngài ở giữa các dân;
Con sẽ hát ca chúc tụng danh Ngài.
51 Ngài là tháp cứu rỗi[e] cho người Ngài lập làm vua;
Ngài bày tỏ lòng thương xót đối với người được xức dầu của Ngài,
Tức với Ða-vít và dòng dõi của người ấy đến đời đời.”

Bài Ca Cuối Cùng của Ða-vít

23 Ðây là những lời cuối cùng của Ða-vít:

“Ða-vít con của Giê-se nói,
Người đã được cất nhắc lên cao nói,
Tức người đã được Ðức Chúa Trời của Gia-cốp xức dầu,
Người đã viết ra những bản thánh thi được yêu chuộng trong I-sơ-ra-ên:
Thần của Chúa phán với tôi,
Lời của Ngài ở trên lưỡi tôi.
Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên phán,
Vầng Ðá của I-sơ-ra-ên nói với tôi,
‘Người nào trị vì trên người ta cách công chính,
Tức người trị vì với lòng kính sợ Ðức Chúa Trời,
Người ấy sẽ rực rỡ như ánh bình minh khi mặt trời ló dạng,
Như buổi sáng nắng đẹp không một gợn mây;
Như cỏ non mọc lên từ lòng đất,
Trong một ngày nắng ráo sau cơn mưa.’

Gia đình tôi dù không được ngay lành trước mặt Ðức Chúa Trời,
Dù vậy Ngài đã lập với tôi một giao ước đời đời;
Mọi sự đã được Ngài an bài và làm cho ổn định.
Ðây là tất cả những gì tôi mong được hưởng trong ơn cứu rỗi,
Và là tất cả những gì tôi hằng ao ước;
Ngài sẽ chẳng làm cho điều ấy cứ tăng lên sao?
Nhưng quân phản bội sẽ như những nhánh gai bị vứt bỏ,
Vì không ai có thể dùng tay trần nắm chúng được;
Nhưng ai muốn đụng đến chúng,
Người ấy phải có dụng cụ bằng sắt hoặc cầm nơi cán giáo mới được an toàn.
Bọn ấy sẽ hoàn toàn bị thiêu rụi trong lửa ngay tại chỗ của chúng.”

Những Dũng Sĩ của Ða-vít

(1Sử 11:10-41)

Ba Dũng Sĩ Hàng Ðầu

Ðây là tên các dũng sĩ của Ða-vít: Giô-sép Ba-sê-bết người Ta-kê-mô-ni. Ông chỉ huy Ba Dũng Sĩ. Chính ông là người đã dùng cây giáo đánh hạ tám trăm quân thù trong một trận đánh.

Sau ông có Ê-lê-a-xa con trai của Ðô-đô[f] người A-hô-hi. Ông là một trong ba dũng sĩ. Có lần ông đi với Ða-vít đến nơi quân Phi-li-tin tụ lại dàn trận để giao tranh. Quân I-sơ-ra-ên đã rút lui, 10 nhưng ông cứ ở lại mà đánh quân Phi-li-tin cho đến khi cánh tay ông đuối sức, và bàn tay ông dính chặt vào cán gươm. Ngày hôm đó Chúa đã ban cho họ một chiến thắng lớn. Quân I-sơ-ra-ên quay trở lại, nhưng chỉ để thu lượm chiến lợi phẩm.

11 Kế sau ông là Sam-ma con của A-ghi, người Ha-ra-ri. Dân Phi-li-tin tập họp với nhau thành một đạo quân trong một cánh đồng trồng đậu. Quân I-sơ-ra-ên bỏ chạy trước mặt quân Phi-li-tin, 12 nhưng một mình ông cứ đứng trụ ngay giữa cánh đồng mà chống cự và đánh giết quân Phi-li-tin. Nhờ thế Chúa đã ban cho họ một chiến thắng lớn.

Ba Dũng Sĩ Ðặc Biệt

13 Vào đầu một mùa gặt kia, ba người trong Nhóm Ba Mươi Dũng Sĩ đi xuống gặp Ða-vít ở hang A-đu-lam, giữa lúc quân Phi-li-tin đang hạ trại trong thung lũng ở Rê-pha-im. 14 Ða-vít đang ở trong chiến lũy, còn quân Phi-li-tin thì đóng đồn ngay tại Bết-lê-hem. 15 Bấy giờ Ða-vít ước ao và nói, “Ôi, ước gì có ai cho tôi uống nước giếng ở cổng thành Bết-lê-hem!” 16 Ba dũng sĩ ấy bèn xông qua trại của quân Phi-li-tin, đến giếng nơi cổng thành Bết-lê-hem, lấy nước, và đem về cho Ða-vít. Tuy nhiên Ða-vít không uống nước ấy, nhưng đổ nó ra, dâng lên Chúa, 17 và nói, “Lạy Chúa, xin đừng để con làm điều nầy nữa. Ðây há chẳng phải là máu của những người đã liều mạng đi lấy nó về sao?” Vì thế Ða-vít không uống nước ấy. Ðó là việc ba dũng sĩ ấy đã làm.

Các Dũng Sĩ Khác

18 A-bi-sai em Giô-áp, con của bà Xê-ru-gia, chỉ huy Nhóm Ba Mươi[g] Dũng Sĩ. Ông lấy cây giáo của ông đánh ba trăm quân thù và giết chết chúng. Vì thế danh ông được liệt vào hàng của Ba Mươi[h] Dũng Sĩ hàng đầu. 19 Ông há không đáng được tôn trọng nhất trong Nhóm Ba Mươi dũng sĩ sao? Vì thế ông đã được đặt làm người chỉ huy của họ. Tuy nhiên ông không được vào nhóm ba dũng sĩ kia.

20 Bê-na-gia con trai của Giê-hô-gia-đa là một người dũng mãnh quê ở Cáp-xê-ên. Ông được nổi tiếng vì có nhiều thành tích. Ông đã đánh hạ hai tay anh hùng dữ tợn như sư tử của dân Mô-áp. Ngoài ra một ngày tuyết rơi nọ, ông đi xuống hố lấy nước, không ngờ tại đó đã có một con sư tử. Nó nhảy đến vồ ông, nhưng ông đã đánh nó chết. 21 Ông cũng đánh hạ một tên Ai-cập có tướng mạo to lớn dị thường. Tên Ai-cập ấy cầm cây giáo trong tay, còn ông chỉ có một cây gậy. Ông giật lấy cây giáo khỏi tay tên Ai-cập, rồi dùng cây giáo ấy giết hắn. 22 Ðó là các thành tích mà Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa đã làm, nên danh ông không kém gì ba dũng sĩ kia. 23 Trong nhóm Ba Mươi Dũng Sĩ, ông được tôn trọng hơn nhiều người, nhưng không bằng ba dũng sĩ hàng đầu. Ða-vít đặt ông chỉ huy các cận vệ của mình.

24 Trong nhóm Ba Mươi Dũng Sĩ còn có A-sa-ên em Giô-áp, Ên-ha-nan con của Ðô-đô người Bết-lê-hem, 25 Sam-ma người Ha-rốt, Ê-li-ca người Ha-rốt, 26 Hê-lê người Pan-ti, I-ra con của Ích-kết người Tê-cô-a, 27 A-bi-ê-xe người A-na-thốt, Mê-bun-nai người Hu-sa-thi, 28 Xanh-môn người A-hô-hi, Ma-ha-rai người Nê-tô-pha-thi, 29 Hê-lét con của Ba-a-na người Nê-tô-pha-thi, Ít-tai con của Ri-bai người Ghi-bê-a, dòng dõi Bên-gia-min, 30 Bê-na-gia người Pi-ra-thô-ni, Hi-đai quê ở các suối vùng Ga-ách, 31 A-bi Anh-bôn người Ạc-ba-thi, A-ma-vét người Ba-hu-rim,[i] 32 Ên-gia-ba người Sa-anh-bô-ni, các con trai của Gia-sên, Giô-na-than con của 33 Sam-ma người Ha-ra-ri, A-hi-am con của Sa-ra người Ha-ra-ri, 34 Ê-li-phê-lét con của A-hát-bai dòng dõi của Ma-a-ca-thi, Ê-li-am con của A-hi-thô-phên người Ghi-lô-ni, 35 Hê-xơ-rô người Cạt-mên-li, Pa-a-rai người Ạc-bi, 36 I-ganh con của Na-than người Xô-ba, Ba-ni người Gát, 37 Xê-léc người Am-môn, Na-ha-rai người Bê-ê-rô-thi – ông là người vác binh khí cho Giô-áp con trai bà Xê-ru-gia – 38 I-ra người I-thơ-ri, Ga-rếp người I-thơ-ri, 39 và U-ri-a người Hít-ti. Tất cả là ba mươi bảy người.

Ða-vít Lập Thống Kê Dân Số

(1 Sử 21:1-27)

24 Chúa lại nổi giận với I-sơ-ra-ên một lần nữa. Ngài xui khiến Ða-vít gây họa cho họ khi ra lịnh rằng, “Hãy đi, lập cuộc thống kê dân số I-sơ-ra-ên và Giu-đa.” Vua nói với Giô-áp, tướng chỉ huy quân đội,[j] đang có mặt lúc đó với vua, “Hãy đi khắp các chi tộc I-sơ-ra-ên, từ Ðan cho đến Bê-e Sê-ba, thực hiện cuộc kiểm tra dân số, để ta biết dân số trong nước được bao nhiêu.”

Giô-áp thưa với vua, “Cầu xin Chúa, Ðức Chúa Trời của ngài, làm gia tăng gấp trăm lần số người chúng ta đang có, và cầu xin chính mắt vua, chúa thượng của tôi, sẽ chứng kiến được điều ấy. Nhưng tại sao vua, chúa thượng của tôi, lại muốn thực hiện điều ấy?”

Tuy nhiên lời của vua thắng hơn lời bàn của Giô-áp và các vị tướng lãnh quân đội. Vậy Giô-áp và các vị tướng lãnh quân đội rời khỏi mặt vua và ra đi thực hiện cuộc thống kê dân số I-sơ-ra-ên. Họ vượt qua Sông Giô-đanh và đến A-rô-e. Họ hạ trại về phía nam của thành, vào khoảng giữa thung lũng, rồi từ đó họ đi về hướng Gia-xe, vào địa phận của Gát. Kế đó họ đi khắp miền Ghi-lê-át, rồi đến miền Ta-tim Hốt-si.[k] Từ đó họ đến Ðan,[l] rồi từ Ðan họ đến các miền xung quanh Si-đôn. Họ cũng đến thành trì kiên cố tại Ty-rơ và tất cả các thành của người Hi-vi và người Ca-na-an. Sau đó họ đến tận Bê-e Sê-ba, thuộc miền nam của Giu-đa. Vậy sau khi họ đã đi qua khắp lãnh thổ, mất chín tháng hai mươi ngày, họ trở về Giê-ru-sa-lem. Giô-áp báo cáo cho vua kết quả của cuộc thống kê dân số: Ở I-sơ-ra-ên có tám trăm ngàn chiến sĩ sử dụng gươm, còn ở Giu-đa năm trăm ngàn.

Bệnh Dịch

10 Bấy giờ Ða-vít cảm thấy bứt rứt trong lòng sau khi đã ra lịnh thống kê dân số. Ða-vít thưa với Chúa, “Con đã phạm trọng tội về việc con đã làm. Nhưng bây giờ, Chúa ôi, cầu xin Ngài cất bỏ tội lỗi của tôi tớ Ngài, vì con đã hành động cách dại dột.”

11 Sáng hôm sau khi Ða-vít thức dậy, có lời của Chúa đến với Gát, vị tiên kiến của Ða-vít, 12 “Hãy đi và nói với Ða-vít. Chúa phán thế nầy: Ta cho ngươi ba điều, ngươi hãy chọn một trong ba điều ấy, rồi ta sẽ thực hiện đối với ngươi.”

13 Vậy Gát đến gặp Ða-vít và nói với ông, “Ðây là những điều có thể xảy đến với ngài: ba[m] năm đói kém trong toàn lãnh thổ của ngài, hoặc ba tháng chạy trốn trước mặt quân thù của ngài và bị chúng truy kích, hoặc ba ngày bị bịnh dịch hoành hành khắp nước của ngài. Xin ngài suy nghĩ kỹ, rồi cho tôi biết, để tôi thưa lại với Ðấng đã sai tôi.”

14 Ða-vít nói với Gát, “Tôi bị khốn đốn thật quá lớn! Thà chúng ta rơi vào tay Chúa vì lòng thương xót của Ngài rất lớn, nhưng xin đừng để tôi rơi vào tay loài người.”

15 Vậy Chúa sai một bệnh dịch đến trên toàn cõi I-sơ-ra-ên, từ sáng hôm đó cho đến thời điểm đã định, khiến cho từ Ðan đến Bê-e Sê-ba có bảy mươi ngàn người qua đời. 16 Khi vị thiên sứ còn đưa tay ra hướng về Giê-ru-sa-lem để hủy diệt nó thì Chúa nguôi giận về tai họa ấy, Ngài phán với vị thiên sứ đang thực hiện cơn hủy diệt dân, “Ðủ rồi. Bây giờ hãy dừng tay.” Lúc ấy vị thiên sứ của Chúa đang ở tại sân đập lúa của A-rau-na người Giê-bu-si. 17 Khi Ða-vít thấy vị thiên sứ đang hủy diệt dân, ông thưa với Chúa, “Chỉ một mình con đã phạm tội, chỉ một mình con là người có lỗi, nhưng đàn chiên nầy, họ đâu có làm gì sai? Cầu xin tay Chúa chỉ phạt con và nhà cha con mà thôi.”

Ða-vít Lập Bàn Thờ Ðể Thờ Phượng CHÚA

(1 Sử 21:18-27)

18 Ngày hôm đó Gát đến gặp Ða-vít và nói với ông, “Xin ngài đi lên và lập một bàn thờ để thờ phượng Chúa tại sân đập lúa của A-rau-na người Giê-bu-si.” 19 Nghe theo lời của Gát, Ða-vít đi lên đó như lịnh Chúa đã truyền. 20 Khi A-rau-na nhìn xuống, ông thấy vua và bầy tôi của vua đang tiến về nhà ông. A-rau-na đi ra và sấp mình xuống đất trước mặt vua. 21 A-rau-na nói, “Có chuyện gì mà đức vua, chúa thượng của tôi, phải đích thân đến nhà của tôi tớ ngài như vậy?”

Ða-vít đáp, “Ta đến để xin mua sân đập lúa của ngươi, để xây một bàn thờ dâng của tế lễ lên Chúa, hầu bệnh dịch sẽ ngưng diệt dân.”

22 A-rau-na nói với Ða-vít, “Xin đức vua, chúa thượng của tôi, lấy những gì ngài thấy là tốt để dâng hiến. Ðây, tôi có mấy con bò có thể dùng làm của lễ thiêu, cũng có các xe đạp lúa và các ách để làm củi. 23 Tâu vua, A-rau-na xin biếu tất cả những thứ ấy cho đức vua.” A-rau-na lại nói với ông, “Cầu xin Chúa, Ðức Chúa Trời của ngài, nhậm lời ngài.”

24 Nhưng Ða-vít nói với A-rau-na, “Không, ta muốn mua và trả tiền sòng phẳng cho ngươi, vì ta không muốn dâng các của lễ thiêu lên Chúa, Ðức Chúa Trời của ta, mà ta không tốn kém gì.”

Vậy Ða-vít mua sân đập lúa và các con bò với giá năm mươi sê-ken bạc.[n] 25 Ða-vít xây tại đó một bàn thờ để thờ phượng Chúa, rồi ông dâng các của lễ thiêu và các của lễ cầu an lên Ngài. Chúa nhậm lời cầu nguyện của ông cho đất nước và bệnh dịch ngưng hủy diệt dân I-sơ-ra-ên.

Footnotes

  1. II Sa-mu-ên 22:2 Xem bài Thánh Thi 18
  2. II Sa-mu-ên 22:11 nt: chê-rúp (số ít của chê-ru-bim)
  3. II Sa-mu-ên 22:26 ctd: Ðối với người trung thành, Ngài chứng tỏ cho họ sự trung thành của Ngài.
  4. II Sa-mu-ên 22:27 nt: Ngài cho chúng biết Ngài khôn ngoan như thế nào.
  5. II Sa-mu-ên 22:51 ctd: Ngài ban chiến thắng lớn
  6. II Sa-mu-ên 23:9 1 Sử 27:4 viết là “Ðô-đai”
  7. II Sa-mu-ên 23:18 nt: “Ba”, nhưng hai bản Hebrew khác và bản Syriac ghi “Ba Mươi”
  8. II Sa-mu-ên 23:18 Có bản ghi, “Ba”
  9. II Sa-mu-ên 23:31 Có bản chép “Ba-hu-mít”
  10. II Sa-mu-ên 24:2 Có bản chép, “và các vị chỉ huy quân đội”
  11. II Sa-mu-ên 24:6 Có bản chép, “rồi đến Ca-đe trong xứ của dân Hít-ti”
  12. II Sa-mu-ên 24:6 nt: Ðan Gia-an
  13. II Sa-mu-ên 24:13 1 Sử 21:12 ghi ba năm; nt: bảy năm
  14. II Sa-mu-ên 24:24 khoảng 15 đến 16 lượng bạc