Add parallel Print Page Options

Bài ca của Đa-vít

22 [a] Đa-vít ca bày nầy cho CHÚA sau khi Ngài đã giải cứu ông khỏi Sau-lơ và các thù nghịch khác.

Ông nói:
“CHÚA là tảng đá, nguồn che chở tôi,
    Đấng Cứu Rỗi tôi.
CHÚA là khối đá, nơi tôi chạy đến ẩn núp.
    Ngài là cái thuẫn và là sức mạnh cứu tôi, [b]
Đấng bênh vực và là nơi trú ẩn tôi.
    CHÚA cứu tôi khỏi mọi kẻ muốn làm hại tôi.
Tôi kêu cầu cùng CHÚA,
    Ngài là Đấng đáng được ca ngợi.
Tôi sẽ được giải thoát khỏi tay kẻ thù.

Các làn sóng chết vây quanh tôi;
    sông sự chết bao phủ tôi.
Các dây sự chết quấn chặt tôi.
    Bẫy sự chết ở trước tôi.
Trong cảnh khốn cùng, tôi kêu xin cùng CHÚA.
    Tôi van xin Ngài giúp đỡ.
Từ đền thờ Ngài, CHÚA nghe tiếng tôi;
    Lời kêu cứu tôi thấu đến tai CHÚA.
Đất rung chuyển mạnh.
    Các nền trời bị lay động.
Chúng rung chuyển vì CHÚA nổi giận.
Khói xịt ra từ lỗ mũi Ngài,
    miệng Ngài phát ra ngọn lửa hừng,
    than cháy đỏ đi trước mặt Ngài.
10 CHÚA xé toạc các từng trời và ngự xuống,
trong đám mây đen kịt dưới chân.
11 Ngài cỡi thú có cánh và bay.
Ngài lượn trên cánh gió.
12 CHÚA dùng bóng tối che phủ mình,
    nơi ở Ngài có mây mù vây kín.
13 Từ sự hiện diện rực rỡ của Ngài
phát ra sấm sét.
14 CHÚA làm sấm rền từ trời;
    Đấng Tối Cao gầm lên,
15 Ngài bắn tên làm quân thù chạy tán loạn.
    Sấm chớp khiến chúng lúng túng
    và kinh hãi.
16 CHÚA nạt một tiếng.
    Gió thổi ra từ lỗ mũi Ngài.
Các đáy biển sâu lộ ra,
và các nền lục địa phơi bày.

17 Từ trên cao CHÚA với tay đỡ tôi;
    Ngài kéo tôi lên khỏi đáy nước sâu.
18 Ngài cứu tôi khỏi tay kẻ thù mạnh hơn tôi,
    khỏi tay kẻ ghét tôi,
    vì chúng nó mạnh hơn tôi.
19 Trong cơn khốn khó chúng tấn công tôi,
    nhưng CHÚA nâng đỡ tôi.
20 Ngài đưa tôi đến chỗ an toàn.
    Vì ưa thích tôi nên Ngài cứu tôi.

21 Ngài để tôi sống vì tôi làm điều ngay thẳng.
    Ngài ban thưởng tôi vì tôi không làm điều gian ác.
22 Tôi đã đi theo đường lối CHÚA dạy;
    Tôi không làm điều ác bằng cách quay khỏi CHÚA.
23 Tôi không quên luật lệ CHÚA,
    không vi phạm qui tắc của Ngài.
24 Tôi trong sạch trước mặt CHÚA;
    tôi tránh không làm điều ác.
25 CHÚA thưởng tôi vì tôi làm điều ngay thẳng,
    vì tôi làm điều đẹp ý CHÚA.

26 Lạy CHÚA, người nào trung kiên,
    thì Ngài cũng trung kiên lại,
    người nào chính trực
    thì Ngài cũng tỏ lòng chính trực lại.
27 CHÚA thánh sạch đối với kẻ thánh sạch,
    nhưng Ngài nghịch lại kẻ gian ác.
28 Ngài cứu người khiêm nhường,
    nhưng hạ kẻ tự phụ xuống.
29 Lạy CHÚA, Ngài ban ánh sáng cho ngọn đèn của tôi.
    Thượng Đế chiếu sáng chỗ tối quanh tôi.
30 Nhờ Ngài giúp đỡ, tôi có thể tấn công cả đạo binh.
    Nhờ Ngài yễm trợ, tôi có thể nhảy qua tường thành.

31 Đường lối Thượng Đế vô cùng hoàn hảo.
    Lời CHÚA rất tinh sạch.
    Ngài là thuẫn đỡ cho kẻ nào tin cậy nơi Ngài.
32 Ai là Thượng Đế? Chỉ một mình CHÚA thôi.
    Ai là Khối Đá? Chỉ một mình Thượng Đế của chúng ta thôi.
33 Thượng Đế là nơi bảo vệ tôi.
    Ngài khiến các lối đi của tôi không vấp ngã.
34 Ngài khiến tôi chạy nhanh như nai
    mà không vấp ngã;
    Ngài giúp tôi đứng trên các núi cao.
35 Ngài luyện tay tôi chiến đấu
    cho nên cánh tay tôi
    có thể giương nổi cung đồng.

36 Ngài che chở tôi bằng cái thuẫn cứu rỗi của Ngài.
    Ngài cúi xuống để đỡ tôi lên, khiến tôi trở nên mạnh mẽ.
37 Ngài mở rộng đường tôi đi,
    để tôi không bước lảo đảo.
38 Tôi rượt đuổi theo kẻ thù và tiêu diệt chúng.
    Tôi không ngưng tay cho đến khi
    chúng nó hoàn toàn bị tiêu diệt.
39 Tôi chà đạp chúng đến nỗi
    chúng không ngóc đầu dậy được.
    Chúng nằm mọp dưới chân tôi.
40 Ngài thêm sức cho tôi trong chiến trận.
    Ngài khiến kẻ thù phải quì lạy trước mặt tôi.
41 Ngài khiến kẻ thù lui bước,
    tôi tiêu diệt những kẻ ghét tôi.
42 Chúng kêu cứu nhưng không ai đến giúp.
    Chúng kêu cầu CHÚA nhưng Ngài chẳng thèm trả lời.
43 Tôi đánh tan nát các kẻ thù tôi,
    giống như bụi bị gió thổi.
Tôi trút chúng ra và dẫm lên chúng
    như bùn trên đường.

44 Khi người ta tấn công tôi thì Ngài đến cứu tôi.
    Ngài lập tôi làm lãnh tụ các quốc gia.
    Những dân tôi chưa hề biết sẽ thần phục tôi.
45 Các người ngoại quốc cũng sẽ vâng theo tôi.
    Khi nghe đến tôi, họ tuân phục tôi.
46 Chúng vô cùng sợ hãi
    và run rẩy trong nơi trú ẩn của mình.

47 CHÚA muôn năm!
    Khối Đá tôi đáng được ca ngợi.
    Đáng ca ngợi Thượng Đế là Đấng cứu tôi!
48 Thượng Đế giúp tôi đắc thắng kẻ thù tôi,
    Ngài đặt mọi dân dưới quyền tôi.
49 Ngài cứu tôi khỏi tay kẻ thù.
    Ngài đặt tôi lên trên kẻ ghét tôi.
    Ngài cứu tôi khỏi kẻ hung ác.
50 Cho nên, CHÚA ôi, tôi sẽ ca ngợi Ngài
    giữa các dân.
    Tôi sẽ hát khen danh Ngài.
51 CHÚA ban chiến thắng cho vua của Ngài.
    Ngài thành tín đối với vua mà Ngài đã lập [c],
    với Đa-vít và dòng dõi người
    cho đến mãi mãi.”

Lời từ giã của Đa-vít

23 Sau đây là những lời từ giã của Đa-vít.

Đây là tuyên ngôn của Đa-vít,
    con trai Gie-xê.
    Người được Đấng Tối Cao nâng lên bậc vĩ đại lên tiếng.
Người là vua được Thượng Đế của Gia-cốp chỉ định;
    người là ca sĩ dịu dàng trong Ít-ra-en [d]:
“Thần linh CHÚA phán qua ta,
    đặt lời Ngài trên lưỡi ta.
Thượng Đế của Ít-ra-en phán;
    Khối Đá của Ít-ra-en bảo ta:
Ai cai trị công minh trên dân ta,
    ai cai trị trong sự kính sợ Thượng Đế,
giống như ánh sáng bình minh,
    như buổi sáng trời trong, quang đãng.
    Người như tia sáng mặt trời sau cơn mưa,
    khiến cỏ non mọc lên từ đất.

Thượng Đế chăm nom gia đình ta như thế nầy.
    Ngài lập giao ước đời đời với ta, giao ước phải lẽ và vững chắc mọi mặt. [e]
    Ngài sẽ hoàn tất sự cứu rỗi cho ta, thỏa mãn mọi ước vọng ta.

Nhưng những kẻ ác sẽ bị ném đi
    như gai gốc
    không ai dám nắm trong tay.
Không ai đám đụng đến
    nếu không dùng kềm sắt hay kẹp gỗ.
    Chúng sẽ bị ném vào lửa và cháy phừng trong đó.”

Ba chiến sĩ anh dũng

Sau đây là tên của những chiến sĩ của Đa-vít:

Giô-sép Bát-sê-bết, người Ta-kê-mô-nít [f] là trưởng toán đặc biệt của vua [g]. Trong một cuộc chạm trán anh ta giết tám trăm người. [h]

Kế đến là Ê-lê-a-xa, con Đô-đai [i], người A-hô-hít. Ê-lê-a-xa là một trong ba chiến sĩ đi với Đa-vít khi ông thách thức người Phi-li-tin. Người Phi-li-tin dàn trận ra còn quân Ít-ra-en rút lui. 10 Nhưng Ê-lê-a-xa ở lại chiến đấu chống dân Phi-li-tin cho đến khi tay rã rời dính chặt vào gươm. Trong ngày đó CHÚA ban chiến thắng lớn cho dân Ít-ra-en. Quân sĩ quay lại sau khi Ê-lê-a-xa đã thắng để cướp lấy vũ khí và áo giáp quân thù.

11 Kế đến là Sam-ma, con A-ghi, người Ha-ra-rít. Quân Phi-li-tin đến đánh nhau trong vườn rau [j]. Quân Ít-ra-en chạy trốn khỏi người Phi-li-tin, 12 Nhưng Sam-ma đứng giữa ruộng đánh nhau dành miếng ruộng đó và giết người Phi-li-tin. CHÚA ban đắc thắng lớn.

13 Có lần, ba trong số ba mươi chiến sĩ cận vệ [k] Đa-vít đi xuống gặp ông ở hang A-đu-lam nhằm lúc mùa gặt. Người Phi-li-tin đóng quân trong thung lũng Rê-pha-im [l]. 14 Lúc đó Đa-vít đang ở trong mật khu, và một số người Phi-li-tin đang ở Bết-lê-hem.

15 Đa-vít rất muốn uống nước. Ông nói, “Ôi, ước gì có ai lấy nước cho ta nơi giếng gần cổng thành Bết-lê-hem!” 16 Vậy ba chiến sĩ [m] đó xông qua hàng rào quân Phi-li-tin và lấy nước nơi giếng gần cổng thành Bết-lê-hem. Khi họ mang nước về cho Đa-vít thì ông không chịu uống. Ông đổ nước ra trước mặt CHÚA 17 và nói rằng, “Nguyện CHÚA chớ để tôi uống nước nầy! Như thế chẳng khác nào uống máu của những người vì đi lấy nước mà liều chết!” Đa-vít không chịu uống nước đó. Đó là những hành vi dũng cảm mà ba chiến sĩ đó làm.

Các chiến sĩ anh dũng khác

18 A-bi-sai, em Giô-áp, con Xê-ru-gia chỉ huy đám cận vệ. A-bi-sai dùng giáo đánh giết ba trăm lính. Ông nổi danh như ba người kia 19 nhưng được tôn trọng hơn họ. Ông làm chỉ huy họ nhưng không thuộc trong đám họ.

20 Bê-na-gia, con Giê-hô-gia-đa từ Cáp-xi-ên là một chiến sĩ gan dạ [n] đã thực hiện nhiều kỳ công. Ông giết hai trong số những lính thiện chiến nhất của Mô-áp. Ông cũng đi xuống hố và giết một con sư tử trong lúc tuyết đang rơi. 21 Bê-na-gia cũng giết một người Ai-cập đang cầm cây giáo trong tay. Bê-na-gia chỉ có một cây dùi cui nhưng ông giựt cây giáo khỏi tay người Ai-cập và giết hắn bằng chính cây giáo của hắn. 22 Đó là những điều Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa làm. Ông cũng nổi danh như ba người kia. 23 Ông nhận nhiều vinh dự hơn ba mươi người kia nhưng ông không thuộc vào nhóm Ba Người thân cận. Đa-vít cử ông làm chỉ huy toán hộ vệ mình.

Ba mươi chiến sĩ dũng cảm

24 Các người sau đây thuộc vào nhóm Ba Mươi người: A-sa-ên, em Giô-áp; Ên-ha-nan, con Đô-đô ở Bết-lê-hem; 25 Sam-ma người Ha-rô-đít; Ê-li-ca người Ha-rô-đít; 26 Hê-lê người Ban-thít; Y-ra, con Ích-kê miền Tê-cô-a; 27 A-bi-ê-xe người A-na-thốt; Mê-bun-nai người Hu-sa-thít; 28 Xanh-môn, người A-lô-hít; Ma-ha-rai người Nê-tô-pha-thít; 29 Hê-lết con Ba-a-na, người Nê-tô-pha-thít; Y-tai con Ri-bai miền Ghi-bê-a thuộc xứ Bên-gia-min; 30 Bê-na-gia người Bi-ra-thô-nít; Hích-đai từ vùng hố của Ga-ách; 31 A-bi Anh-bôn người Ác-ba-thít; Ách-ma-vết người Ba-hu-mít; 32 Ê-li-a-ba người Sanh-bô-nít; các con trai của Gia-sen; Giô-na-than 33 con trai của Sam-ma người Ha-ra-rít; A-hi-am con Sa-ra người Ha-ra-rít; 34 Ê-li-phê-lết con A-hát-bai, người Ma-a-ca-thít; Ê-li-am con A-hi-tô-phên, người Ghi-lôn; 35 Hết-rô người Cạt-mên; Ba-a-rai người Ạc-bít; 36 Y-ganh con Na-than ở Xô-ba; con của Hát-ri; 37 Xê-léc người Am-môn; Na-ha-rai người Bê-e-rô-thít, vác áo giáp cho Giô-áp, con trai Xê-ru-gia; 38 Y-ra người Ít-rít; Ga-rép người Ít-rít, 39 và U-ri người Hê-tít. Tất cả là ba mươi bảy người.

Footnotes

  1. II Sa-mu-ên 22:1 Chương 22 Bài ca nầy cũng có trong Thi 18.
  2. II Sa-mu-ên 22:3 sức mạnh cứu tôi Nguyên văn, “Ngài là sừng cứu rỗi của tôi.”
  3. II Sa-mu-ên 22:51 vua mà Ngài đã lập Nguyên văn, “Người chịu xức dầu của Ngài.”
  4. II Sa-mu-ên 23:1 ca sĩ dịu dàng trong Ít-ra-en Hay “bài ca hay nhất của Ít-ra-en.”
  5. II Sa-mu-ên 23:5 Ngài lập … mọi mặt Hay “Có phải Ngài làm cho gia đình tôi vững chắc không?”
  6. II Sa-mu-ên 23:8 Giô-sép Bát-sê-bết, người Ta-kê-mô-nít Hay “Gia-hô-bim người Hạc-mô-nít.” Xem thêm I Sử 11:11.
  7. II Sa-mu-ên 23:8 toán đặc biệt của vua Một toán binh sĩ đặc biệt gồm ba người để thi hành những nhiệm vụ đặc biệt mà vua giao phó.
  8. II Sa-mu-ên 23:8 Giô-sép … tám trăm người Bản Hê-bơ-rơ ở chỗ nầy không rõ nghĩa. Câu nầy được dịch theo I Sử 11:11 và bản cổ Hi-lạp.
  9. II Sa-mu-ên 23:9 Ê-lê-a-xa, con Đô-đai Hay “Ê-lê-a-xa, bà con của anh ta.”
  10. II Sa-mu-ên 23:11 vườn rau Hay “vườn đậu.”
  11. II Sa-mu-ên 23:13 ba mươi chiến sĩ cận vệ Hay “lực lượng đặc biệt của vua.” Đây là những người thuộc toán chiến sĩ anh dũng của Đa-vít. Xem câu 23, 24.
  12. II Sa-mu-ên 23:13 ba trong số … Rê-pha-im Bản Hê-bơ-rơ hơi khó hiểu ở chỗ nầy. Xem I Sử 11:15.
  13. II Sa-mu-ên 23:16 ba chiến sĩ Đây là ba chiến sĩ gan dạ nhất của Đa-vít. Xem câu 18, 22.
  14. II Sa-mu-ên 23:20 chiến sĩ gan dạ Nghĩa là ông thuộc vào hàng chiến sĩ sẵn sàng bảo vệ dân tộc trong chiến tranh.

Bài Ca Tạ Ơn Chúa Giải Cứu

22 Bấy giờ Ða-vít dâng lên Chúa những lời ca ngợi nầy, sau ngày Chúa giải cứu ông khỏi tay mọi kẻ thù và khỏi tay của Sau-lơ. Ông nói,[a]

Chúa là vầng đá của tôi,
Ðồn lũy của tôi, và Ðấng Giải Cứu của tôi.
Ðức Chúa Trời là vầng đá của tôi; tôi nương náu nơi Ngài.
Ngài là thuẫn khiên của tôi và là sừng cứu rỗi của tôi;
Ngài là thành trì của tôi và là nơi tôi ẩn náu.
‘Lạy Ðấng Giải Cứu của con,
Ngài cứu con khỏi quân cường bạo.’
Tôi sẽ kêu cầu Chúa, Ðấng đáng được ca ngợi,
Ðể tôi sẽ được cứu khỏi những kẻ thù ghét mình.
Khi những đợt sóng của tử thần bao phủ tôi;
Những dòng nước lũ của phường gian ác làm tôi kinh hãi;
Các dây của âm phủ trói cột tôi;
Các bẫy của tử thần sập xuống bắt lấy tôi.
Trong cảnh nguy nan tôi kêu cầu Chúa;
Tôi kêu van với Ðức Chúa Trời của tôi.
Từ đền thánh Ngài, Ngài đã nghe tiếng tôi;
Tiếng cầu xin của tôi đã thấu đến tai Ngài.
Bấy giờ đất rúng động và rung chuyển;
Các nền trời chấn động và rung rinh;
Vì Ngài đã nổi giận.
Khói bay ra từ lỗ mũi Ngài;
Lửa hừng thiêu đốt thoát ra từ miệng Ngài;
Làm bùng cháy các than.
10 Ngài nghiêng các từng trời và ngự xuống;
Một áng mây đen che dưới chân Ngài;
11 Ngài ngự trên một thiên thần phục vụ[b] và bay đi;
Ngài được trông thấy trên cánh gió.
12 Ngài khiến bóng tối làm màn trướng che quanh Ngài,
Tức bóng tối của nước mưa và mây đen mù mịt.
13 Do ánh hào quang rực rỡ trước mặt Ngài,
Các viên than đã bùng cháy.
14 Từ trời cao Chúa phát ra sấm sét;
Ðấng Tối Cao cất tiếng, âm thanh vang dội khắp trời.
15 Ngài bắn tên ra, quân thù chạy tán loạn;
Ngài phát chớp nhoáng ra, chúng nó bị tiêu tan.
16 Chúa quở một tiếng, các đáy biển liền lộ ra;
Ngài hắt hơi, các nền địa cầu liền bày rõ.

17 Từ trời cao Ngài vói tay xuống nắm lấy tôi;
Ngài kéo tôi lên khỏi những dòng nước mạnh.
18 Ngài giải thoát tôi khỏi quân thù hung bạo;
Ngài cứu tôi thoát khỏi những kẻ ghét tôi;
Vì đối với tôi chúng thật là mạnh mẽ.
19 Chúng đối đầu với tôi giữa lúc tôi lâm cảnh nguy nan,
Nhưng Chúa đã giúp đỡ tôi.
20 Ngài đã đem tôi ra một nơi an toàn thoải mái;
Ngài đã giải cứu tôi, vì Ngài thấy tôi đẹp lòng Ngài.
21 Chúa đã ban thưởng cho tôi tùy theo lòng ngay lành của tôi;
Ngài đã đền bù cho tôi, tùy theo sự thanh sạch của tay tôi.
22 Vì tôi đã gìn giữ các đường lối Chúa;
Tôi đã không làm gì xấu xa gian ác nghịch lại Ðức Chúa Trời của mình.
23 Vì các mạng lịnh Ngài hằng ở trước mặt tôi;
Còn các luật lệ Ngài tôi không bao giờ từ bỏ.
24 Tôi luôn giữ mình cho trọn vẹn trước mặt Ngài;
Tôi gìn giữ chính mình khỏi những gì tội lỗi.
25 Vì thế Chúa đã ban thưởng cho tôi tùy theo lòng ngay lành của tôi,
Tùy theo sự trong sạch của tôi ở trước thánh nhan Ngài.
26 Ðối với người có lòng thương xót, Ngài lấy ơn thương xót mà đối với họ;[c]
Ðối với người trọn vẹn, Ngài bày tỏ cho họ thế nào là trọn vẹn theo tiêu chuẩn của Ngài;
27 Ðối với người trong sạch,
Ngài cho họ biết sự trong sạch theo chuẩn mực của Ngài phải ra sao;
Ðối với những kẻ gian manh,
Ngài cho chúng biết chúng không thể qua mặt được Ngài.[d]
28 Ngài sẽ cứu giúp những người khốn khổ;
Nhưng mắt Ngài sẽ theo dõi những kẻ kiêu ngạo, để hạ chúng xuống.

29 Lạy Chúa, vì Ngài là ngọn đèn của con;
Chúa biến hoàn cảnh tối tăm của con trở nên sáng sủa.
30 Vì nhờ Chúa, con có thể xông qua một đạo quân;
Nhờ Ðức Chúa Trời của con, con có thể vượt qua được tường thành.
31 Lạy Ðức Chúa Trời, đường lối Ngài thật là toàn hảo;
Lời Chúa thật linh nghiệm vô cùng.
Ngài là thuẫn khiên cho những ai tin cậy Ngài.

32 Vì ngoài Chúa ra, ai là Ðức Chúa Trời?
Ngoài Ðức Chúa Trời ra, ai là Vầng Ðá của chúng ta?
33 Ðức Chúa Trời là thành trì và sức mạnh của tôi.
Ngài làm cho đường lối tôi trở nên trọn vẹn.
34 Ngài làm cho chân tôi nhanh nhẹn tựa chân nai.
Ngài lập cho tôi được vững vàng trên những nơi cao.
35 Ngài luyện tập tay tôi cho ngày chiến trận,
Ðể đôi tay tôi có thể giương nổi một cây cung đồng.

36 Ngài đã ban cho con ơn cứu rỗi của Ngài, để làm thuẫn khiên che chở;
Cách Ngài đối xử dịu dàng với con đã làm cho con được tôn trọng.
37 Ðường con đi Ngài mở toang rộng rãi;
Nên chân con chẳng trợt ngã bao giờ.
38 Con đuổi theo những kẻ thù của con và tiêu diệt chúng;
Con không quay trở về cho đến khi chúng bị tiêu diệt hoàn toàn.
39 Con đã tiêu diệt chúng và đập tan chúng, khiến chúng không ngóc dậy được nữa;
Chúng đã bị ngã gục dưới chân con.
40 Vì Ngài đã nai nịt cho con bằng sức mạnh để ra trận;
Ngài đã làm cho những kẻ nổi dậy chống con phải quỳ lạy dưới chân con.
41 Ngài khiến quân thù của con phải quay lưng bỏ chạy;
Và cho con tiêu diệt những kẻ ghét con.
42 Chúng trông ngóng, nhưng chẳng ai cứu giúp;
Chúng cũng kêu cầu Chúa, nhưng Ngài chẳng đáp lời.
43 Bấy giờ con đánh chúng tan tành như bụi đất;
Con giày đạp chúng và rải chúng ra như bùn ở ngoài đường.
44 Ngài đã giải thoát con khỏi các cuộc chống đối của dân con;
Ngài đã giữ con làm thủ lãnh của các quốc gia;
Một dân con chưa biết sẽ phục vụ con.
45 Những người ngoại quốc thuận phục con;
Vừa khi nghe đến con, họ liền vâng phục.
46 Quân ngoại bang đều hồn phi phách tán;
Từ trong các chiến lũy chúng run rẩy kéo ra hàng.

47 Chúa là Ðấng hằng sống!
Chúc tụng Vầng Ðá của tôi!
Nguyện Ðức Chúa Trời, Vầng Ðá cứu rỗi của tôi, được tôn cao!
48 Chính Ðức Chúa Trời đã báo thù cho tôi;
Ngài đã bắt thiên hạ phục dưới quyền tôi.

49 Lạy Ðấng giải cứu con khỏi những kẻ thù của con,
Thật vậy Ngài đã nâng con lên trên những kẻ nổi lên chống lại con;
Ngài đã giải cứu con khỏi kẻ bạo tàn.
50 Vì thế, lạy Chúa, con sẽ chúc tạ Ngài ở giữa các dân;
Con sẽ hát ca chúc tụng danh Ngài.
51 Ngài là tháp cứu rỗi[e] cho người Ngài lập làm vua;
Ngài bày tỏ lòng thương xót đối với người được xức dầu của Ngài,
Tức với Ða-vít và dòng dõi của người ấy đến đời đời.”

Bài Ca Cuối Cùng của Ða-vít

23 Ðây là những lời cuối cùng của Ða-vít:

“Ða-vít con của Giê-se nói,
Người đã được cất nhắc lên cao nói,
Tức người đã được Ðức Chúa Trời của Gia-cốp xức dầu,
Người đã viết ra những bản thánh thi được yêu chuộng trong I-sơ-ra-ên:
Thần của Chúa phán với tôi,
Lời của Ngài ở trên lưỡi tôi.
Ðức Chúa Trời của I-sơ-ra-ên phán,
Vầng Ðá của I-sơ-ra-ên nói với tôi,
‘Người nào trị vì trên người ta cách công chính,
Tức người trị vì với lòng kính sợ Ðức Chúa Trời,
Người ấy sẽ rực rỡ như ánh bình minh khi mặt trời ló dạng,
Như buổi sáng nắng đẹp không một gợn mây;
Như cỏ non mọc lên từ lòng đất,
Trong một ngày nắng ráo sau cơn mưa.’

Gia đình tôi dù không được ngay lành trước mặt Ðức Chúa Trời,
Dù vậy Ngài đã lập với tôi một giao ước đời đời;
Mọi sự đã được Ngài an bài và làm cho ổn định.
Ðây là tất cả những gì tôi mong được hưởng trong ơn cứu rỗi,
Và là tất cả những gì tôi hằng ao ước;
Ngài sẽ chẳng làm cho điều ấy cứ tăng lên sao?
Nhưng quân phản bội sẽ như những nhánh gai bị vứt bỏ,
Vì không ai có thể dùng tay trần nắm chúng được;
Nhưng ai muốn đụng đến chúng,
Người ấy phải có dụng cụ bằng sắt hoặc cầm nơi cán giáo mới được an toàn.
Bọn ấy sẽ hoàn toàn bị thiêu rụi trong lửa ngay tại chỗ của chúng.”

Những Dũng Sĩ của Ða-vít

(1Sử 11:10-41)

Ba Dũng Sĩ Hàng Ðầu

Ðây là tên các dũng sĩ của Ða-vít: Giô-sép Ba-sê-bết người Ta-kê-mô-ni. Ông chỉ huy Ba Dũng Sĩ. Chính ông là người đã dùng cây giáo đánh hạ tám trăm quân thù trong một trận đánh.

Sau ông có Ê-lê-a-xa con trai của Ðô-đô[f] người A-hô-hi. Ông là một trong ba dũng sĩ. Có lần ông đi với Ða-vít đến nơi quân Phi-li-tin tụ lại dàn trận để giao tranh. Quân I-sơ-ra-ên đã rút lui, 10 nhưng ông cứ ở lại mà đánh quân Phi-li-tin cho đến khi cánh tay ông đuối sức, và bàn tay ông dính chặt vào cán gươm. Ngày hôm đó Chúa đã ban cho họ một chiến thắng lớn. Quân I-sơ-ra-ên quay trở lại, nhưng chỉ để thu lượm chiến lợi phẩm.

11 Kế sau ông là Sam-ma con của A-ghi, người Ha-ra-ri. Dân Phi-li-tin tập họp với nhau thành một đạo quân trong một cánh đồng trồng đậu. Quân I-sơ-ra-ên bỏ chạy trước mặt quân Phi-li-tin, 12 nhưng một mình ông cứ đứng trụ ngay giữa cánh đồng mà chống cự và đánh giết quân Phi-li-tin. Nhờ thế Chúa đã ban cho họ một chiến thắng lớn.

Ba Dũng Sĩ Ðặc Biệt

13 Vào đầu một mùa gặt kia, ba người trong Nhóm Ba Mươi Dũng Sĩ đi xuống gặp Ða-vít ở hang A-đu-lam, giữa lúc quân Phi-li-tin đang hạ trại trong thung lũng ở Rê-pha-im. 14 Ða-vít đang ở trong chiến lũy, còn quân Phi-li-tin thì đóng đồn ngay tại Bết-lê-hem. 15 Bấy giờ Ða-vít ước ao và nói, “Ôi, ước gì có ai cho tôi uống nước giếng ở cổng thành Bết-lê-hem!” 16 Ba dũng sĩ ấy bèn xông qua trại của quân Phi-li-tin, đến giếng nơi cổng thành Bết-lê-hem, lấy nước, và đem về cho Ða-vít. Tuy nhiên Ða-vít không uống nước ấy, nhưng đổ nó ra, dâng lên Chúa, 17 và nói, “Lạy Chúa, xin đừng để con làm điều nầy nữa. Ðây há chẳng phải là máu của những người đã liều mạng đi lấy nó về sao?” Vì thế Ða-vít không uống nước ấy. Ðó là việc ba dũng sĩ ấy đã làm.

Các Dũng Sĩ Khác

18 A-bi-sai em Giô-áp, con của bà Xê-ru-gia, chỉ huy Nhóm Ba Mươi[g] Dũng Sĩ. Ông lấy cây giáo của ông đánh ba trăm quân thù và giết chết chúng. Vì thế danh ông được liệt vào hàng của Ba Mươi[h] Dũng Sĩ hàng đầu. 19 Ông há không đáng được tôn trọng nhất trong Nhóm Ba Mươi dũng sĩ sao? Vì thế ông đã được đặt làm người chỉ huy của họ. Tuy nhiên ông không được vào nhóm ba dũng sĩ kia.

20 Bê-na-gia con trai của Giê-hô-gia-đa là một người dũng mãnh quê ở Cáp-xê-ên. Ông được nổi tiếng vì có nhiều thành tích. Ông đã đánh hạ hai tay anh hùng dữ tợn như sư tử của dân Mô-áp. Ngoài ra một ngày tuyết rơi nọ, ông đi xuống hố lấy nước, không ngờ tại đó đã có một con sư tử. Nó nhảy đến vồ ông, nhưng ông đã đánh nó chết. 21 Ông cũng đánh hạ một tên Ai-cập có tướng mạo to lớn dị thường. Tên Ai-cập ấy cầm cây giáo trong tay, còn ông chỉ có một cây gậy. Ông giật lấy cây giáo khỏi tay tên Ai-cập, rồi dùng cây giáo ấy giết hắn. 22 Ðó là các thành tích mà Bê-na-gia con trai Giê-hô-gia-đa đã làm, nên danh ông không kém gì ba dũng sĩ kia. 23 Trong nhóm Ba Mươi Dũng Sĩ, ông được tôn trọng hơn nhiều người, nhưng không bằng ba dũng sĩ hàng đầu. Ða-vít đặt ông chỉ huy các cận vệ của mình.

24 Trong nhóm Ba Mươi Dũng Sĩ còn có A-sa-ên em Giô-áp, Ên-ha-nan con của Ðô-đô người Bết-lê-hem, 25 Sam-ma người Ha-rốt, Ê-li-ca người Ha-rốt, 26 Hê-lê người Pan-ti, I-ra con của Ích-kết người Tê-cô-a, 27 A-bi-ê-xe người A-na-thốt, Mê-bun-nai người Hu-sa-thi, 28 Xanh-môn người A-hô-hi, Ma-ha-rai người Nê-tô-pha-thi, 29 Hê-lét con của Ba-a-na người Nê-tô-pha-thi, Ít-tai con của Ri-bai người Ghi-bê-a, dòng dõi Bên-gia-min, 30 Bê-na-gia người Pi-ra-thô-ni, Hi-đai quê ở các suối vùng Ga-ách, 31 A-bi Anh-bôn người Ạc-ba-thi, A-ma-vét người Ba-hu-rim,[i] 32 Ên-gia-ba người Sa-anh-bô-ni, các con trai của Gia-sên, Giô-na-than con của 33 Sam-ma người Ha-ra-ri, A-hi-am con của Sa-ra người Ha-ra-ri, 34 Ê-li-phê-lét con của A-hát-bai dòng dõi của Ma-a-ca-thi, Ê-li-am con của A-hi-thô-phên người Ghi-lô-ni, 35 Hê-xơ-rô người Cạt-mên-li, Pa-a-rai người Ạc-bi, 36 I-ganh con của Na-than người Xô-ba, Ba-ni người Gát, 37 Xê-léc người Am-môn, Na-ha-rai người Bê-ê-rô-thi – ông là người vác binh khí cho Giô-áp con trai bà Xê-ru-gia – 38 I-ra người I-thơ-ri, Ga-rếp người I-thơ-ri, 39 và U-ri-a người Hít-ti. Tất cả là ba mươi bảy người.

Footnotes

  1. II Sa-mu-ên 22:2 Xem bài Thánh Thi 18
  2. II Sa-mu-ên 22:11 nt: chê-rúp (số ít của chê-ru-bim)
  3. II Sa-mu-ên 22:26 ctd: Ðối với người trung thành, Ngài chứng tỏ cho họ sự trung thành của Ngài.
  4. II Sa-mu-ên 22:27 nt: Ngài cho chúng biết Ngài khôn ngoan như thế nào.
  5. II Sa-mu-ên 22:51 ctd: Ngài ban chiến thắng lớn
  6. II Sa-mu-ên 23:9 1 Sử 27:4 viết là “Ðô-đai”
  7. II Sa-mu-ên 23:18 nt: “Ba”, nhưng hai bản Hebrew khác và bản Syriac ghi “Ba Mươi”
  8. II Sa-mu-ên 23:18 Có bản ghi, “Ba”
  9. II Sa-mu-ên 23:31 Có bản chép “Ba-hu-mít”

Lời cầu nguyện trong cơn khốn khó

Soạn cho nhạc trưởng theo điệu “Chớ tiêu hủy.” Bài mịch-tâm Đa-vít làm khi ông trốn trong hang khỏi tay Sau-lơ.

57 Thượng Đế ôi, xin thương xót tôi, đoái đến tôi
    vì tôi chạy đến xin Ngài che chở.
Xin cho tôi núp dưới bóng cánh Chúa
    cho đến lúc tai họa qua đi.
Tôi kêu cầu cùng Thượng Đế Chí Cao,
    Đấng thực hiện mọi điều cho tôi.
Từ thiên đàng Ngài cứu giúp tôi.
Ngài trừng phạt kẻ rượt đuổi tôi. Xê-la
    Sai tình yêu và sự chân thật Ngài đến cùng tôi.

Kẻ thù tôi vây quanh tôi như sư tử.
    Tôi phải nằm giữa đám sư tử.
Răng chúng nó nhọn như lưỡi giáo và mũi tên,
    lưỡi chúng nó sắc bén như gươm.

Thượng Đế cao cả hơn các từng trời;
    sự oai nghiêm Ngài bao trùm cả đất.
Chúng giăng bẫy cho tôi sập.
Chúng đào hố trên lối đi tôi,
    nhưng chính chúng lại té xuống đó. Xê-la

Thượng Đế ôi, tôi đã sẵn sàng cả linh hồn và tấm lòng,
    để hát ca ngợi Ngài.
Linh hồn ơi, hãy thức dậy.
    Tôi sẽ đánh thức bình minh.
    Đờn cầm và đờn sắt ơi, hãy tỉnh giấc!
Lạy Chúa, tôi sẽ ca ngợi Ngài giữa muôn dân;
    Tôi sẽ hát ca ngợi Ngài giữa các nước.
10 Tình yêu cao cả của Chúa vượt trên các từng trời;
    chân lý Ngài vút đến tận mây xanh.
11 Lạy Chúa, Ngài vượt cao hơn các từng trời.
    Nguyện vinh hiển Ngài bao phủ khắp đất.

Xin Chúa Giữ Gìn Ðể Khỏi Bị Bắt

Thơ của Ða-vít

Cảm tác trong ngày ông chạy trốn Sau-lơ và ẩn núp trong hang núi

Cho Trưởng Ban Nhạc

Theo điệu “Xin Ðừng Hủy Diệt”

Xin thương xót con, Ðức Chúa Trời ôi, xin thương xót con,
Vì linh hồn con tin cậy Ngài;
Thật vậy con nương náu mình dưới bóng cánh Ngài cho đến khi những cơn hủy diệt đã qua.
Tôi kêu cầu với Ðức Chúa Trời Tối Cao,[a]
Tôi kêu cầu với Ðức Chúa Trời, Ðấng thực hiện ý định của Ngài cho tôi.
Từ trời Ngài ban ơn và cứu giúp tôi;
Ngài làm cho những kẻ chà đạp tôi phải hổ thẹn. (Sê-la)
Ðức Chúa Trời sẽ thể hiện tình thương và đức thành tín của Ngài.

Linh hồn tôi ở giữa một bầy sư tử;
Tôi nằm giữa những kẻ hung dữ như lửa chực thiêu đốt,
Những kẻ có răng như giáo mác và tên nhọn,
Và lưỡi chúng sắc bén như gươm đao.

Ðức Chúa Trời ôi, nguyện Ngài được tôn cao trên khắp trời!
Nguyện vinh hiển Ngài luôn trỗi cao trên khắp đất!

Chúng đã giăng lưới để đón bắt các bước chân con,
Khiến linh hồn con phải cúi xuống lo âu;
Chúng đã đào hầm đằng trước con,
Nhưng chúng đã bị sa ngay vào giữa hầm đó! (Sê-la)
Lòng con vững rồi, Ðức Chúa Trời ôi, lòng con vững rồi;
Con sẽ ca hát, thật vậy, con sẽ ca hát chúc tụng Ngài.

Hỡi linh hồn ta, hãy thức dậy!
Hỡi đàn lia và hạc cầm, hãy trỗi lên!
Tôi sẽ thức dậy từ lúc bình minh để ca ngợi Ngài!

Chúa ôi, con sẽ cảm tạ Ngài giữa mọi người;
Con sẽ hát ca tôn ngợi Ngài giữa các dân,
10 Vì tình thương của Ngài cao đến tận trời,
Ðức thành tín của Ngài vượt quá các tầng mây.
11 Ðức Chúa Trời ôi, nguyện Ngài được tôn cao trên các tầng trời!
Nguyện vinh hiển Ngài trỗi cao trên khắp đất!

Footnotes

  1. Thánh Thi 57:2 nt: Elyon Elohim