Add parallel Print Page Options

Bài ca của Đa-vít

22 [a] Đa-vít ca bày nầy cho CHÚA sau khi Ngài đã giải cứu ông khỏi Sau-lơ và các thù nghịch khác.

Ông nói:
“CHÚA là tảng đá, nguồn che chở tôi,
    Đấng Cứu Rỗi tôi.
CHÚA là khối đá, nơi tôi chạy đến ẩn núp.
    Ngài là cái thuẫn và là sức mạnh cứu tôi, [b]
Đấng bênh vực và là nơi trú ẩn tôi.
    CHÚA cứu tôi khỏi mọi kẻ muốn làm hại tôi.
Tôi kêu cầu cùng CHÚA,
    Ngài là Đấng đáng được ca ngợi.
Tôi sẽ được giải thoát khỏi tay kẻ thù.

Các làn sóng chết vây quanh tôi;
    sông sự chết bao phủ tôi.
Các dây sự chết quấn chặt tôi.
    Bẫy sự chết ở trước tôi.
Trong cảnh khốn cùng, tôi kêu xin cùng CHÚA.
    Tôi van xin Ngài giúp đỡ.
Từ đền thờ Ngài, CHÚA nghe tiếng tôi;
    Lời kêu cứu tôi thấu đến tai CHÚA.
Đất rung chuyển mạnh.
    Các nền trời bị lay động.
Chúng rung chuyển vì CHÚA nổi giận.
Khói xịt ra từ lỗ mũi Ngài,
    miệng Ngài phát ra ngọn lửa hừng,
    than cháy đỏ đi trước mặt Ngài.
10 CHÚA xé toạc các từng trời và ngự xuống,
trong đám mây đen kịt dưới chân.
11 Ngài cỡi thú có cánh và bay.
Ngài lượn trên cánh gió.
12 CHÚA dùng bóng tối che phủ mình,
    nơi ở Ngài có mây mù vây kín.
13 Từ sự hiện diện rực rỡ của Ngài
phát ra sấm sét.
14 CHÚA làm sấm rền từ trời;
    Đấng Tối Cao gầm lên,
15 Ngài bắn tên làm quân thù chạy tán loạn.
    Sấm chớp khiến chúng lúng túng
    và kinh hãi.
16 CHÚA nạt một tiếng.
    Gió thổi ra từ lỗ mũi Ngài.
Các đáy biển sâu lộ ra,
và các nền lục địa phơi bày.

17 Từ trên cao CHÚA với tay đỡ tôi;
    Ngài kéo tôi lên khỏi đáy nước sâu.
18 Ngài cứu tôi khỏi tay kẻ thù mạnh hơn tôi,
    khỏi tay kẻ ghét tôi,
    vì chúng nó mạnh hơn tôi.
19 Trong cơn khốn khó chúng tấn công tôi,
    nhưng CHÚA nâng đỡ tôi.
20 Ngài đưa tôi đến chỗ an toàn.
    Vì ưa thích tôi nên Ngài cứu tôi.

21 Ngài để tôi sống vì tôi làm điều ngay thẳng.
    Ngài ban thưởng tôi vì tôi không làm điều gian ác.
22 Tôi đã đi theo đường lối CHÚA dạy;
    Tôi không làm điều ác bằng cách quay khỏi CHÚA.
23 Tôi không quên luật lệ CHÚA,
    không vi phạm qui tắc của Ngài.
24 Tôi trong sạch trước mặt CHÚA;
    tôi tránh không làm điều ác.
25 CHÚA thưởng tôi vì tôi làm điều ngay thẳng,
    vì tôi làm điều đẹp ý CHÚA.

26 Lạy CHÚA, người nào trung kiên,
    thì Ngài cũng trung kiên lại,
    người nào chính trực
    thì Ngài cũng tỏ lòng chính trực lại.
27 CHÚA thánh sạch đối với kẻ thánh sạch,
    nhưng Ngài nghịch lại kẻ gian ác.
28 Ngài cứu người khiêm nhường,
    nhưng hạ kẻ tự phụ xuống.
29 Lạy CHÚA, Ngài ban ánh sáng cho ngọn đèn của tôi.
    Thượng Đế chiếu sáng chỗ tối quanh tôi.
30 Nhờ Ngài giúp đỡ, tôi có thể tấn công cả đạo binh.
    Nhờ Ngài yễm trợ, tôi có thể nhảy qua tường thành.

31 Đường lối Thượng Đế vô cùng hoàn hảo.
    Lời CHÚA rất tinh sạch.
    Ngài là thuẫn đỡ cho kẻ nào tin cậy nơi Ngài.
32 Ai là Thượng Đế? Chỉ một mình CHÚA thôi.
    Ai là Khối Đá? Chỉ một mình Thượng Đế của chúng ta thôi.
33 Thượng Đế là nơi bảo vệ tôi.
    Ngài khiến các lối đi của tôi không vấp ngã.
34 Ngài khiến tôi chạy nhanh như nai
    mà không vấp ngã;
    Ngài giúp tôi đứng trên các núi cao.
35 Ngài luyện tay tôi chiến đấu
    cho nên cánh tay tôi
    có thể giương nổi cung đồng.

36 Ngài che chở tôi bằng cái thuẫn cứu rỗi của Ngài.
    Ngài cúi xuống để đỡ tôi lên, khiến tôi trở nên mạnh mẽ.
37 Ngài mở rộng đường tôi đi,
    để tôi không bước lảo đảo.
38 Tôi rượt đuổi theo kẻ thù và tiêu diệt chúng.
    Tôi không ngưng tay cho đến khi
    chúng nó hoàn toàn bị tiêu diệt.
39 Tôi chà đạp chúng đến nỗi
    chúng không ngóc đầu dậy được.
    Chúng nằm mọp dưới chân tôi.
40 Ngài thêm sức cho tôi trong chiến trận.
    Ngài khiến kẻ thù phải quì lạy trước mặt tôi.
41 Ngài khiến kẻ thù lui bước,
    tôi tiêu diệt những kẻ ghét tôi.
42 Chúng kêu cứu nhưng không ai đến giúp.
    Chúng kêu cầu CHÚA nhưng Ngài chẳng thèm trả lời.
43 Tôi đánh tan nát các kẻ thù tôi,
    giống như bụi bị gió thổi.
Tôi trút chúng ra và dẫm lên chúng
    như bùn trên đường.

44 Khi người ta tấn công tôi thì Ngài đến cứu tôi.
    Ngài lập tôi làm lãnh tụ các quốc gia.
    Những dân tôi chưa hề biết sẽ thần phục tôi.
45 Các người ngoại quốc cũng sẽ vâng theo tôi.
    Khi nghe đến tôi, họ tuân phục tôi.
46 Chúng vô cùng sợ hãi
    và run rẩy trong nơi trú ẩn của mình.

47 CHÚA muôn năm!
    Khối Đá tôi đáng được ca ngợi.
    Đáng ca ngợi Thượng Đế là Đấng cứu tôi!
48 Thượng Đế giúp tôi đắc thắng kẻ thù tôi,
    Ngài đặt mọi dân dưới quyền tôi.
49 Ngài cứu tôi khỏi tay kẻ thù.
    Ngài đặt tôi lên trên kẻ ghét tôi.
    Ngài cứu tôi khỏi kẻ hung ác.
50 Cho nên, CHÚA ôi, tôi sẽ ca ngợi Ngài
    giữa các dân.
    Tôi sẽ hát khen danh Ngài.
51 CHÚA ban chiến thắng cho vua của Ngài.
    Ngài thành tín đối với vua mà Ngài đã lập [c],
    với Đa-vít và dòng dõi người
    cho đến mãi mãi.”

Lời từ giã của Đa-vít

23 Sau đây là những lời từ giã của Đa-vít.

Đây là tuyên ngôn của Đa-vít,
    con trai Gie-xê.
    Người được Đấng Tối Cao nâng lên bậc vĩ đại lên tiếng.
Người là vua được Thượng Đế của Gia-cốp chỉ định;
    người là ca sĩ dịu dàng trong Ít-ra-en [d]:
“Thần linh CHÚA phán qua ta,
    đặt lời Ngài trên lưỡi ta.
Thượng Đế của Ít-ra-en phán;
    Khối Đá của Ít-ra-en bảo ta:
Ai cai trị công minh trên dân ta,
    ai cai trị trong sự kính sợ Thượng Đế,
giống như ánh sáng bình minh,
    như buổi sáng trời trong, quang đãng.
    Người như tia sáng mặt trời sau cơn mưa,
    khiến cỏ non mọc lên từ đất.

Thượng Đế chăm nom gia đình ta như thế nầy.
    Ngài lập giao ước đời đời với ta, giao ước phải lẽ và vững chắc mọi mặt. [e]
    Ngài sẽ hoàn tất sự cứu rỗi cho ta, thỏa mãn mọi ước vọng ta.

Nhưng những kẻ ác sẽ bị ném đi
    như gai gốc
    không ai dám nắm trong tay.
Không ai đám đụng đến
    nếu không dùng kềm sắt hay kẹp gỗ.
    Chúng sẽ bị ném vào lửa và cháy phừng trong đó.”

Ba chiến sĩ anh dũng

Sau đây là tên của những chiến sĩ của Đa-vít:

Giô-sép Bát-sê-bết, người Ta-kê-mô-nít [f] là trưởng toán đặc biệt của vua [g]. Trong một cuộc chạm trán anh ta giết tám trăm người. [h]

Kế đến là Ê-lê-a-xa, con Đô-đai [i], người A-hô-hít. Ê-lê-a-xa là một trong ba chiến sĩ đi với Đa-vít khi ông thách thức người Phi-li-tin. Người Phi-li-tin dàn trận ra còn quân Ít-ra-en rút lui. 10 Nhưng Ê-lê-a-xa ở lại chiến đấu chống dân Phi-li-tin cho đến khi tay rã rời dính chặt vào gươm. Trong ngày đó CHÚA ban chiến thắng lớn cho dân Ít-ra-en. Quân sĩ quay lại sau khi Ê-lê-a-xa đã thắng để cướp lấy vũ khí và áo giáp quân thù.

11 Kế đến là Sam-ma, con A-ghi, người Ha-ra-rít. Quân Phi-li-tin đến đánh nhau trong vườn rau [j]. Quân Ít-ra-en chạy trốn khỏi người Phi-li-tin, 12 Nhưng Sam-ma đứng giữa ruộng đánh nhau dành miếng ruộng đó và giết người Phi-li-tin. CHÚA ban đắc thắng lớn.

13 Có lần, ba trong số ba mươi chiến sĩ cận vệ [k] Đa-vít đi xuống gặp ông ở hang A-đu-lam nhằm lúc mùa gặt. Người Phi-li-tin đóng quân trong thung lũng Rê-pha-im [l]. 14 Lúc đó Đa-vít đang ở trong mật khu, và một số người Phi-li-tin đang ở Bết-lê-hem.

15 Đa-vít rất muốn uống nước. Ông nói, “Ôi, ước gì có ai lấy nước cho ta nơi giếng gần cổng thành Bết-lê-hem!” 16 Vậy ba chiến sĩ [m] đó xông qua hàng rào quân Phi-li-tin và lấy nước nơi giếng gần cổng thành Bết-lê-hem. Khi họ mang nước về cho Đa-vít thì ông không chịu uống. Ông đổ nước ra trước mặt CHÚA 17 và nói rằng, “Nguyện CHÚA chớ để tôi uống nước nầy! Như thế chẳng khác nào uống máu của những người vì đi lấy nước mà liều chết!” Đa-vít không chịu uống nước đó. Đó là những hành vi dũng cảm mà ba chiến sĩ đó làm.

Các chiến sĩ anh dũng khác

18 A-bi-sai, em Giô-áp, con Xê-ru-gia chỉ huy đám cận vệ. A-bi-sai dùng giáo đánh giết ba trăm lính. Ông nổi danh như ba người kia 19 nhưng được tôn trọng hơn họ. Ông làm chỉ huy họ nhưng không thuộc trong đám họ.

20 Bê-na-gia, con Giê-hô-gia-đa từ Cáp-xi-ên là một chiến sĩ gan dạ [n] đã thực hiện nhiều kỳ công. Ông giết hai trong số những lính thiện chiến nhất của Mô-áp. Ông cũng đi xuống hố và giết một con sư tử trong lúc tuyết đang rơi. 21 Bê-na-gia cũng giết một người Ai-cập đang cầm cây giáo trong tay. Bê-na-gia chỉ có một cây dùi cui nhưng ông giựt cây giáo khỏi tay người Ai-cập và giết hắn bằng chính cây giáo của hắn. 22 Đó là những điều Bê-na-gia, con trai Giê-hô-gia-đa làm. Ông cũng nổi danh như ba người kia. 23 Ông nhận nhiều vinh dự hơn ba mươi người kia nhưng ông không thuộc vào nhóm Ba Người thân cận. Đa-vít cử ông làm chỉ huy toán hộ vệ mình.

Ba mươi chiến sĩ dũng cảm

24 Các người sau đây thuộc vào nhóm Ba Mươi người: A-sa-ên, em Giô-áp; Ên-ha-nan, con Đô-đô ở Bết-lê-hem; 25 Sam-ma người Ha-rô-đít; Ê-li-ca người Ha-rô-đít; 26 Hê-lê người Ban-thít; Y-ra, con Ích-kê miền Tê-cô-a; 27 A-bi-ê-xe người A-na-thốt; Mê-bun-nai người Hu-sa-thít; 28 Xanh-môn, người A-lô-hít; Ma-ha-rai người Nê-tô-pha-thít; 29 Hê-lết con Ba-a-na, người Nê-tô-pha-thít; Y-tai con Ri-bai miền Ghi-bê-a thuộc xứ Bên-gia-min; 30 Bê-na-gia người Bi-ra-thô-nít; Hích-đai từ vùng hố của Ga-ách; 31 A-bi Anh-bôn người Ác-ba-thít; Ách-ma-vết người Ba-hu-mít; 32 Ê-li-a-ba người Sanh-bô-nít; các con trai của Gia-sen; Giô-na-than 33 con trai của Sam-ma người Ha-ra-rít; A-hi-am con Sa-ra người Ha-ra-rít; 34 Ê-li-phê-lết con A-hát-bai, người Ma-a-ca-thít; Ê-li-am con A-hi-tô-phên, người Ghi-lôn; 35 Hết-rô người Cạt-mên; Ba-a-rai người Ạc-bít; 36 Y-ganh con Na-than ở Xô-ba; con của Hát-ri; 37 Xê-léc người Am-môn; Na-ha-rai người Bê-e-rô-thít, vác áo giáp cho Giô-áp, con trai Xê-ru-gia; 38 Y-ra người Ít-rít; Ga-rép người Ít-rít, 39 và U-ri người Hê-tít. Tất cả là ba mươi bảy người.

Footnotes

  1. II Sa-mu-ên 22:1 Chương 22 Bài ca nầy cũng có trong Thi 18.
  2. II Sa-mu-ên 22:3 sức mạnh cứu tôi Nguyên văn, “Ngài là sừng cứu rỗi của tôi.”
  3. II Sa-mu-ên 22:51 vua mà Ngài đã lập Nguyên văn, “Người chịu xức dầu của Ngài.”
  4. II Sa-mu-ên 23:1 ca sĩ dịu dàng trong Ít-ra-en Hay “bài ca hay nhất của Ít-ra-en.”
  5. II Sa-mu-ên 23:5 Ngài lập … mọi mặt Hay “Có phải Ngài làm cho gia đình tôi vững chắc không?”
  6. II Sa-mu-ên 23:8 Giô-sép Bát-sê-bết, người Ta-kê-mô-nít Hay “Gia-hô-bim người Hạc-mô-nít.” Xem thêm I Sử 11:11.
  7. II Sa-mu-ên 23:8 toán đặc biệt của vua Một toán binh sĩ đặc biệt gồm ba người để thi hành những nhiệm vụ đặc biệt mà vua giao phó.
  8. II Sa-mu-ên 23:8 Giô-sép … tám trăm người Bản Hê-bơ-rơ ở chỗ nầy không rõ nghĩa. Câu nầy được dịch theo I Sử 11:11 và bản cổ Hi-lạp.
  9. II Sa-mu-ên 23:9 Ê-lê-a-xa, con Đô-đai Hay “Ê-lê-a-xa, bà con của anh ta.”
  10. II Sa-mu-ên 23:11 vườn rau Hay “vườn đậu.”
  11. II Sa-mu-ên 23:13 ba mươi chiến sĩ cận vệ Hay “lực lượng đặc biệt của vua.” Đây là những người thuộc toán chiến sĩ anh dũng của Đa-vít. Xem câu 23, 24.
  12. II Sa-mu-ên 23:13 ba trong số … Rê-pha-im Bản Hê-bơ-rơ hơi khó hiểu ở chỗ nầy. Xem I Sử 11:15.
  13. II Sa-mu-ên 23:16 ba chiến sĩ Đây là ba chiến sĩ gan dạ nhất của Đa-vít. Xem câu 18, 22.
  14. II Sa-mu-ên 23:20 chiến sĩ gan dạ Nghĩa là ông thuộc vào hàng chiến sĩ sẵn sàng bảo vệ dân tộc trong chiến tranh.

Vua Đa-vít Ca Ngợi CHÚA

22 Vua Đa-vít dâng lên CHÚA những lời của bài ca này, sau khi CHÚA giải cứu vua khỏi tay mọi kẻ thù và khỏi tay vua Sau-lơ. Vua ca:

“Lạy CHÚA là núi đá, là thành lũy, là Đấng giải cứu con!
    Lạy Đức Chúa Trời là núi đá cho con nương náu,
    Ngài là thuẫn khiên che chở con,
Là Đấng quyền năng cứu chuộc con,[a] Là tháp cao kiên cố, là nơi con trú ẩn,
    Là Đấng giải cứu, Ngài cứu con thoát khỏi kẻ bạo hành!
Lạy CHÚA, con ca ngợi Ngài! Khi con kêu cầu CHÚA,
    Ngài giải thoát con khỏi kẻ thù nghịch con.
Sóng tử thần vây lượn chung quanh,
    Thác diệt vong cuộn xoay chực sẵn,
Dây Âm phủ vương vấn bao quanh,
    Bẫy tử thần đón chờ con sập.
Phút gian nguy con kêu cầu CHÚA,
    Kêu xin Ngài là Đức Chúa Trời của con,
Từ đền thánh Ngài nghe tiếng con,
    Ngài lắng tai nghe tiếng con kêu cứu.
Bấy giờ, đất chuyển mình rúng động,
    Nền móng các tầng trời rung chuyển lung lay,
    Vì Chúa nổi giận.
Khói bốc lên từ mũi Ngài,
    Miệng Ngài phát ra ngọn lửa thiêu nuốt
    Và than hồng cháy rực.
10 Chúa xé các tầng trời, ngự xuống,
    Chân đạp lớp mây dày đen nghịt.
11 Chúa cưỡi thần hộ giá, vụt bay,
    Và xuất hiện trên cánh gió.
12 Trướng rủ quanh Ngài là bóng tối,
    Khối mây dày đọng nước.
13 Than hồng cháy rực
    Chói sáng trước mặt Ngài.
14 CHÚA cho sấm nổ rền trời,
    Đấng Tối Cao lên tiếng vang dội.
15 Ngài bắn tên, khiến quân thù tán loạn,
    Phát chớp nhoáng, chúng bỏ chạy tan hàng.
16 CHÚA quở một tiếng,
    Đáy biển xuất hiện;
Ngài nổi giận,
    Nền móng trái đất phơi trần.
17 Từ trời cao Chúa đưa tay nắm lấy con,
    Vớt con lên khỏi nước sâu thăm thẳm.
18 Ngài cứu con thoát khỏi kẻ thù cường bạo,
    Khỏi những kẻ ghét con, và mạnh thế hơn con.
19 Chúng tấn công con ngày con lâm nạn,
    Nhưng CHÚA phù hộ con.
20 Ngài đưa con ra khỏi cảnh nguy nan,
    Ngài giải cứu con vì Ngài thương con.
21 CHÚA ban thưởng con vì con vâng lời Ngài,
    Ngài ban phước cho con vì tay con trong sạch.
22 Con giữ theo các đường lối CHÚA dạy,
    Không làm ác xây bỏ Đức Chúa Trời con tôn thờ.
23 Con vâng theo mọi mạng lệnh Ngài truyền,
    Không lìa bỏ một điều răn nào.
24 Chúa biết con hoàn toàn vâng theo Ngài,
    Và giữ mình, không làm điều ác.
25 Vậy, CHÚA ban phước cho con vì con vâng lời Ngài,
    Vì Chúa biết con trong sạch.
26 Chúa bền lòng thương xót người nào trung thành vâng lời Ngài,
    Chúa đối xử trọn vẹn với người hoàn toàn vâng theo Ngài.
27 Chúa đối xử ngay thẳng với người chân thật thanh liêm,
    Nhưng Ngài trừng phạt kẻ gian xảo xứng đáng với việc làm của chúng.
28 Chúa giải cứu người khiêm nhu hạ mình,
    Nhưng mắt Ngài thấy kẻ kiêu ngạo, Ngài hạ họ xuống.
29 Lạy CHÚA, Ngài là ngọn đèn của con,
    CHÚA soi chiếu vào đời con, xua tan bóng tối tử vong và tội lỗi.
30 Nhờ sức Ngài, con tấn công quân thù,
    Cậy ơn Đức Chúa Trời, con phóng qua tường thành.
31 Lạy Đức Chúa Trời, đường lối Ngài trọn vẹn;
    Lời CHÚA hứa đáng tin cậy hoàn toàn.
Ngài là thuẫn khiên che chở
    Mọi người ẩn náu bên Ngài.
32 Ngoài CHÚA ra, ai là Đức Chúa Trời?
    Ai là núi đá an toàn, ngoài Đức Chúa Trời chúng con tôn thờ?
33 Lạy Đức Chúa Trời, Ngài là nơi trú ẩn vững chắc của con,
    Ngài giữ cho con đi lại an toàn.
34 Ngài cho chân con nhanh nhẹn như chân nai,
    Ngài đặt con đứng vững vàng trên đỉnh núi.
35 Chúa luyện tay con thạo việc chinh chiến,
    Cánh tay con giương nổi cung đồng.
36 Chúa che chở và giải cứu con,
    Chúa hạ mình xuống để nâng con lên.
37 Chúa mở rộng đường cho con bước đi,
    Nên con không vấp ngã.
38 Con đuổi theo, hủy diệt quân thù,
    Chỉ trở về sau khi tận diệt chúng.
39 Con tận diệt chúng, con đập tan chúng,
    Chúng không đứng dậy nổi, chúng ngã gục dưới chân con.
40 Chúa ban cho con sức mạnh để chiến đấu,
    Chúa khiến đối phương quỳ mọp dưới chân con.
41 Chúa bắt kẻ thù quay lưng chạy trốn,
    Con tiêu diệt những kẻ oán thù con.
42 Chúng kêu cứu nhưng không ai cứu giúp,
    Chúng kêu cầu CHÚA, nhưng Ngài không đáp lời.
43 Con nghiền tan chúng như bụi đất,
    Con giẫm nát chúng, chà đạp chúng như bùn ngoài đường.
44 Dân con phản loạn, Chúa cứu con thoát khỏi;
    Ngài giữ con làm đầu các nước,
Dân xa lạ phải thần phục con.
45     Người nước ngoài cúi mọp trước mặt con,
    Nghe đến con, tức khắc tuân theo.
46 Người nước ngoài tiêu tan khí phách,
    Từ trong đồn lũy, run rẩy bước ra.
47 Lạy CHÚA Hằng Sống! Con ca ngợi Ngài là núi đá cho con nương náu!
    Con tôn vinh Đức Chúa Trời, Ngài là núi đá che chở con, Ngài cứu con thoát khỏi hiểm nguy!
48 Lạy Đức Chúa Trời, Ngài là Đấng báo thù cho con,
    Ngài bắt các dân thần phục con,
49     Ngài giải cứu con khỏi kẻ thù,
Cho con chiến thắng đối phương,
    Cứu con thoát khỏi kẻ bạo tàn.
50 Vì thế, lạy CHÚA, con xin tôn vinh Ngài giữa muôn dân,
    Và ca hát ngợi khen danh Ngài.
51 Chúa ban chiến thắng vẻ vang cho vua Ngài chọn,
    Chúa yêu thương người được Chúa xức dầu với tình yêu bền bỉ, không dời đổi.
    Chúa yêu thương Đa-vít và dòng dõi người đến muôn đời.”

Những Lời Cuối Cùng Của Vua Đa-vít

23 Đây là những lời cuối cùng của vua Đa-vít:

Lời của Đa-vít, con ông Y-sai,
    Lời của người được nhấc lên cao,[b]
Người được Đức Chúa Trời của nhà Gia-cốp xức dầu tấn phong;
    Người sáng tác những bài ca được dân Y-sơ-ra-ên ưa chuộng:
Thần Linh CHÚA dùng ta phán dạy,
    Sứ điệp Ngài ở nơi lưỡi ta.
Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên truyền dạy,
    Núi Đá của dân Y-sơ-ra-ên phán với ta:
“Người nào cai trị nhân loại cách công minh,
    Người nào cai trị với lòng kính sợ Đức Chúa Trời,
Sẽ như ánh sáng ban mai, lúc mặt trời mọc
    Vào một buổi sáng trời quang mây tạnh,
Ánh hào quang rực rỡ sau cơn mưa,
    Làm cây cỏ xanh tươi mọc lên từ lòng đất.”
Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ ban phước cho dòng dõi ta như vậy!
    Vì Ngài đã lập với ta một giao ước đời đời,
    Có quy định đầy đủ, không đổi dời.
Mọi thành công, mọi điều ta ao ước,
    Ngài sẽ cho nẩy mầm.
Nhưng phường gian ác, hết thảy chúng đều bị nhổ bỏ như gai gốc.
    Không ai dám nắm chúng trong tay.
Người nào đụng đến chúng,
    Phải có dụng cụ bằng sắt, hoặc gỗ, cây giáo.
    Chúng bị đốt cháy rụi trong lửa, ngay tại chỗ.

Ba Dũng Sĩ Của Vua Đa-vít

Đây là tên các dũng sĩ của vua Đa-vít: ông Giô-sép Ba-sê-bết,[c] người Tách-kê-môn, đứng đầu các dũng sĩ.[d] Người ta cũng gọi ông là A-đi-nô, người Ê-xen. Ông giết chết tám trăm người cùng một lúc.

Kế đến trong số ba dũng sĩ là ông Ê-lê-a-sa, con ông Đô-đô, người A-hô-hi. Ông theo vua Đa-vít khi họ thách quân Phi-li-tin đã tụ tập về đó để giao chiến. Quân Y-sơ-ra-ên rút lui. 10 Nhưng ông giữ vững vị trí và chém giết quân Phi-li-tin cho đến khi bàn tay ông mệt mỏi dính chặt vào thanh gươm. Quân Y-sơ-ra-ên trở về ủng hộ ông, nhưng chỉ để lột xác chết. Ngày hôm ấy, CHÚA cho dân Y-sơ-ra-ên chiến thắng vẻ vang.

11 Kế đến là ông Sam-ma, con ông A-ghê, người Ha-ra. Quân Phi-li-tin tụ về Lê-hi. Tại đó có một thửa đất trồng đậu lăng. Quân Y-sơ-ra-ên chạy trốn quân Phi-li-tin. 12 Nhưng ông đứng giữa thửa đất, đánh giết quân Phi-li-tin và bảo vệ vườn đậu. CHÚA cho dân Y-sơ-ra-ên chiến thắng vẻ vang.

Thành Tích Của Ba Dũng Sĩ Trong Nhóm Ba Mươi

13 Ba người trong Nhóm Ba Mươi dũng sĩ hàng đầu đi xuống hang đá A-đu-lam vào mùa gặt để gặp vua Đa-vít. Một đạo binh Phi-li-tin đang đóng quân trong thung lũng Rê-pha-im. 14 Chúng đã chiếm đóng thành Bết-lê-hem. Lúc ấy, vua Đa-vít đang ở trong đồn ẩn náu. 15 Vua nhớ nhà và nói: “Ước chi có ai cho ta uống nước lấy ở giếng từ cổng thành Bết-lê-hem!” 16 Vậy ba dũng sĩ đột nhập trại quân Phi-li-tin, lấy nước từ giếng bên cổng thành Bết-lê-hem, đem về cho vua Đa-vít. Nhưng vua từ chối, không uống. Vua đổ nước ra, dâng lên CHÚA. 17 Vua thưa: “Lạy CHÚA, xin đừng cho con uống nước ấy, vì đây là máu của những người đã liều mạng mình đi lấy về cho con.” Vậy vua từ chối, không uống nước. Đó là những thành tích của ba dũng sĩ.

A-bi-sai Và Bê-na-gia

18 Ông A-bi-sai, anh ông Giô-áp, con bà Xê-ru-gia, đứng đầu các dũng sĩ.[e] Ông vung gươm, chém giết 300 người, nên có tên trong nhóm ba dũng sĩ. 19 Ông được tôn trọng hơn Nhóm Ba Mươi[f] và chỉ huy họ, nhưng không được vào Bộ Ba.

20 Ông Bê-na-gia, con ông Giê-hô-gia-đa, ở Cáp-xê-ên, là con một dũng sĩ, đạt được nhiều thành tích. Chính ông đã giết hai con trai của ông A-ri-ên, người Mô-áp. Chính ông cũng đã xuống hầm giết một con sư tử vào một ngày tuyết giá. 21 Chính ông cũng đã giết một tên Ai-cập khổng lồ. Tên Ai-cập cầm giáo, trong khi ông Bê-na-gia chỉ có cây gậy. Ông giật cây giáo khỏi tay tên Ai-cập, và lấy giáo của nó mà giết nó. 22 Ông Bê-na-gia, con ông Giê-hô-gia-đa, đã lập được những thành tích đó nên ông có tên trong nhóm ba dũng sĩ. 23 Ông được tôn trọng hơn Nhóm Ba Mươi, nhưng không được vào Bộ Ba. Vua Đa-vít cử ông chỉ huy đoàn vệ binh.

Nhóm Ba Mươi

24 Trong Nhóm Ba Mươi có ông A-sa-ên, em ông Giô-áp; Ên-ha-nan, con ông Đô-đô, ở Bết-lê-hem; 25 ông Sam-ma ở Ha-rốt; ông Ê-li-ca cũng ở Ha-rốt; 26 ông Hê-lết, người Phan-ti, ông Y-ra, con ông Y-kết ở Thê-cô-a; 27 ông A-bi-ê-se ở A-na-tốt; ông Mê-bu-nai ở Hu-sa; 28 ông Sanh-môn, thuộc dòng dõi ông A-hô-a; ông Ma-ha-rai ở Nê-tô-pha; 29 ông Hê-lép, con ông Ba-a-na, ở Nê-tô-pha; ông Y-tai, con ông Ri-bai, ở Ghi-bê-a thuộc lãnh thổ Bên-gia-min; 30 ông Bê-na-gia ở Phi-ra-thôn; ông Hi-đai ở vùng khe suối núi Ga-ách; 31 ông A-bi-anh-bôn ở A-ra-ba; ông Át-ma-vết ở Ba-hu-rim; 32 ông Ên-gia-ba ở Sa-an-bim; ông Gia-sen ở Gu-ni; 33 ông Giô-na-than, con ông Sam-ma ở Ha-ra; ông A-hi-am, con ông Sa-ra, ở A-ra; 34 ông Ê-li-phê-lết, con ông A-hát-bai ở Ma-a-ca; ông Ê-li-am, con ông A-hi-tô-phen ở Ghi-lô; 35 ông Hết-rai ở Cạt-mên; ông Pha-rai ở A-ráp; 36 ông Gích-an, con ông Na-than ở Xô-ba; ông Ba-ni, người Gát; 37 ông Xê-léc người Am-môn; ông Na-ha-rai ở Bê-ê-rốt, người mang khí giới của ông Giô-áp, con bà Xê-ru-gia; 38 ông Y-ra người Gít-rơ; ông Ga-rép, người Gít-rơ; 39 ông U-ri người Hết.

Tổng cộng là 37 dũng sĩ.

Footnotes

  1. 22:3 nt: là sừng cứu rỗi của con
  2. 23:1 Qumran, LXX: được Đức Chúa Trời dấy lên
  3. 23:8 LXX: Ích-bô-sết, Ích-ba-anh
  4. 23:8 Ctd: Bộ Ba
  5. 23:18 Syr: ba mươi
  6. 23:19 Syr; c.23; nt: Bộ Ba

Lời cầu nguyện trong cơn khốn khó

Soạn cho nhạc trưởng theo điệu “Chớ tiêu hủy.” Bài mịch-tâm Đa-vít làm khi ông trốn trong hang khỏi tay Sau-lơ.

57 Thượng Đế ôi, xin thương xót tôi, đoái đến tôi
    vì tôi chạy đến xin Ngài che chở.
Xin cho tôi núp dưới bóng cánh Chúa
    cho đến lúc tai họa qua đi.
Tôi kêu cầu cùng Thượng Đế Chí Cao,
    Đấng thực hiện mọi điều cho tôi.
Từ thiên đàng Ngài cứu giúp tôi.
Ngài trừng phạt kẻ rượt đuổi tôi. Xê-la
    Sai tình yêu và sự chân thật Ngài đến cùng tôi.

Kẻ thù tôi vây quanh tôi như sư tử.
    Tôi phải nằm giữa đám sư tử.
Răng chúng nó nhọn như lưỡi giáo và mũi tên,
    lưỡi chúng nó sắc bén như gươm.

Thượng Đế cao cả hơn các từng trời;
    sự oai nghiêm Ngài bao trùm cả đất.
Chúng giăng bẫy cho tôi sập.
Chúng đào hố trên lối đi tôi,
    nhưng chính chúng lại té xuống đó. Xê-la

Thượng Đế ôi, tôi đã sẵn sàng cả linh hồn và tấm lòng,
    để hát ca ngợi Ngài.
Linh hồn ơi, hãy thức dậy.
    Tôi sẽ đánh thức bình minh.
    Đờn cầm và đờn sắt ơi, hãy tỉnh giấc!
Lạy Chúa, tôi sẽ ca ngợi Ngài giữa muôn dân;
    Tôi sẽ hát ca ngợi Ngài giữa các nước.
10 Tình yêu cao cả của Chúa vượt trên các từng trời;
    chân lý Ngài vút đến tận mây xanh.
11 Lạy Chúa, Ngài vượt cao hơn các từng trời.
    Nguyện vinh hiển Ngài bao phủ khắp đất.

Khi Người Trốn Trong Hang Đá Thoát Khỏi Sau-lơ

57 Lạy Đức Chúa Trời, xin thương xót tôi, xin thương xót tôi,
    Vì linh hồn tôi trú ẩn nơi Ngài.
Tôi sẽ náu mình dưới bóng cánh Ngài
    Cho đến khi cơn hủy diệt đã qua.
Tôi sẽ cầu khẩn Đức Chúa Trời Chí Cao,
    Là Đức Chúa Trời sẽ hoàn thành cho tôi.
Từ trời Ngài sẽ ban ơn[a] cứu rỗi tôi;
    Ngài quở trách[b] kẻ chà đạp tôi. Sê-la
    Đức Chúa Trời sẽ ban tình yêu thương và sự thành tín Ngài.
Linh Hồn tôi ở giữa những sư tử,
    Tôi nằm giữa loài thú ăn thịt[c] người.
Răng chúng nó như giáo và tên,
    Lưỡi chúng nó như gươm sắc bén.
Lạy Đức Chúa Trời, nguyện Ngài được tôn cao hơn các tầng trời,
    Nguyện vinh quang Ngài tỏa khắp trái đất.
Chúng nó gài lưới cho chân tôi,
    Linh hồn tôi nao sờn.[d]
Chúng đào hố trước mặt tôi
    Nhưng chính chúng nó lại sa xuống đó. Sê-la
Lạy Đức Chúa Trời, lòng tôi kiên định,
    Lòng tôi kiên định.
    Tôi sẽ hát và ca ngợi Ngài.
Hỡi vinh quang Ta,[e] hãy tỉnh thức,
    Hỡi đàn hạc, đàn lia hãy tỉnh thức,
    Ta sẽ đánh thức hừng đông dậy.
Lạy Chúa, tôi sẽ cảm tạ Ngài trong các dân,
    Tôi sẽ ca ngợi Ngài giữa các nước.
10 Vì tình yêu thương Ngài lớn hơn các tầng trời,
    Sự thành tín Ngài cao vút tận các tầng mây.
11 Lạy Đức Chúa Trời, nguyện Ngài được tôn cao hơn các tầng trời,
    Nguyện vinh quang Ngài tỏa khắp trái đất.

Footnotes

  1. 57:3 Nt: sai đến
  2. 57:3 Ctd: làm hổ thẹn
  3. 57:4 Nt: bốc cháy
  4. 57:6 Theo ngôn ngữ Hy-bá sau này: gài bẫy tôi
  5. 57:8 Ctd: linh hồn