Add parallel Print Page Options

Phao-lô, sứ đồ của Chúa Cứu Thế Giê-xu theo ý muốn Thượng Đế,

cùng với Ti-mô-thê, anh em chúng ta trong Ngài.

Kính gởi hội thánh của Chúa tại Cô-rinh và tất cả con dân Chúa khắp miền Nam Hi-lạp.

Nguyền xin ân phúc và bình an từ Thượng Đế, Cha chúng ta và từ Chúa Cứu Thế Giê-xu, ở cùng anh chị em.

Phao-lô cảm tạ Thượng Đế

Cảm tạ Thượng Đế, Cha của Chúa Cứu Thế Giê-xu, Đấng đầy lòng thương xót và an ủi. Ngài an ủi chúng tôi trong mọi cảnh khó khăn, nên chúng tôi có thể dùng sự an ủi ấy mà an ủi những người cũng gặp đồng hoàn cảnh. Chúng tôi san sẻ mọi nỗi khổ mà Chúa Cứu Thế đã gánh chịu. Do đó chúng tôi đã nhận được nhiều an ủi qua Ngài. Nếu chúng tôi gặp cảnh khó khăn là để cho anh chị em được an ủi và được cứu rỗi, và nếu chúng tôi được an ủi thì chính anh chị em cũng được an ủi. Cho nên anh chị em có thể nhẫn nại chịu đựng những nỗi khổ như chúng tôi. Chúng tôi hi vọng vững chắc về anh chị em vì biết rằng anh chị em cũng san sẻ những nỗi khổ và niềm an ủi mà chúng tôi đã nhận.

Thưa anh chị em, chúng tôi muốn anh chị em biết những nỗi khổ chúng tôi đã chịu trong miền Á-châu. Chúng tôi bị đè nén quá sức đến nỗi hết hi vọng sống. Thật thế, chúng tôi yên trí mình sắp chết đến nơi. Nhưng việc ấy xảy ra để chúng tôi không còn tin vào mình nhưng tin cậy Thượng Đế là Đấng khiến kẻ chết sống lại. 10 Thượng Đế đã giải thoát chúng tôi khỏi những hiểm nguy kề cái chết đó, nên chúng tôi tin chắc rằng Ngài sẽ còn giải cứu chúng tôi nữa. 11 Anh chị em có thể giúp chúng tôi bằng lời cầu nguyện. Nhờ thế mà nhiều người sẽ cảm tạ vì chúng tôi và nhờ lời cầu nguyện của anh chị em mà Thượng Đế đã ban phúc cho chúng tôi.

Thay đổi trong chương trình của Phao-lô

12 Đây là điều chúng tôi có thể kiêu hãnh và là điều chúng tôi mạnh dạn tuyên bố mà không xấu hổ với lương tâm: Tức là trong mọi việc chúng tôi làm trên thế gian và nhất là đối với anh chị em, chúng tôi đều làm với lòng chân thành ngay thật từ Thượng Đế vì chúng tôi làm nhờ ân phúc của Thượng Đế chứ không nhờ sự khôn ngoan của thế gian. 13-14 Chúng tôi chỉ viết những gì mà anh chị em có thể đọc và hiểu. Hi vọng rằng nếu anh chị em hiểu một ít về chúng tôi, anh chị em sẽ có thể hiểu tất cả. Lúc ấy anh chị em sẽ hãnh diện về chúng tôi cũng như chúng tôi sẽ hãnh diện về anh chị em vào ngày Chúa Giê-xu chúng ta trở lại.

15 Tôi tin chắc điều ấy cho nên tôi đã dự định thăm viếng anh chị em để anh chị em nhận ân phúc gấp đôi. 16 Tôi định thăm anh chị em trên đường qua Ma-xê-đoan và trên đường về. Tôi cần anh chị em giúp cho chuyến đi của tôi sang miền Giu-đia. 17 Anh chị em nghĩ rằng tôi dự định như thế một cách lửng lơ sao? Hay là anh chị em cho rằng tôi hoạch định chương trình giống như thế gian, nghĩa là khi thế nầy, khi thế khác?

18 Nếu anh chị em tin Thượng Đế và Ngài là Đấng đáng tin, thì anh chị em có thể tin rằng điều chúng tôi nói với anh chị em trước sau như một. 19 Chúa Cứu Thế, Con Thượng Đế mà tôi, Xi-la và Ti-mô-thê rao giảng cho anh chị em không thể vừa phải lại vừa không được. Trong Ngài chỉ có phải mà thôi. 20 Vì mọi lời hứa của Thượng Đế chỉ có ‘phải’ ở trong Chúa Cứu Thế và qua Chúa Cứu Thế chúng ta ‘thưa phải’ cho vinh hiển Ngài. 21 Nên nhớ rằng Thượng Đế là Đấng khiến chúng ta vững mạnh trong Chúa Cứu Thế. Ngài cũng đã khiến chúng ta làm dân được Ngài chọn [a]. 22 Ngài đóng ấn trên chúng ta để chứng tỏ rằng chúng ta thuộc về Ngài đồng thời ban Thánh Linh vào lòng để làm vật bảo đảm cho lời hứa của Ngài.

23 Tôi thưa với anh chị em điều nầy và có Thượng Đế làm chứng rằng: Lý do tôi không trở về Cô-rinh được là để tránh cho anh chị em khỏi bị trừng phạt và đau buồn. 24 Chúng tôi không muốn cai trị đức tin anh chị em. Đức tin anh chị em đã vững mạnh rồi. Còn chúng tôi là bạn đồng công cùng làm việc để anh chị em được vui mừng.

Cho nên tôi nhất quyết rằng chuyến viếng thăm sắp đến của tôi không phải là một dịp để khiến anh chị em buồn. Nếu tôi làm anh chị em buồn thì ai là người làm cho tôi vui? Chỉ có một mình anh chị em có thể làm cho tôi vui được thôi—đó là những người mà tôi đã làm buồn lòng. Tôi viết thư nầy là vì lý do sau: Khi tôi đến cùng anh chị em tôi sẽ không bị buồn vì những người đáng lẽ làm cho tôi vui. Tôi tin chắc tất cả các anh chị em cũng chia xẻ niềm vui ấy của tôi. Lúc viết bức thư trước, lòng tôi rất bối rối và đau buồn. Tôi viết cho anh chị em mà rơi nước mắt. Tôi viết, không phải để làm cho anh chị em buồn mà là để anh chị em biết tôi yêu anh chị em đến mức nào.

Hãy tha thứ kẻ có tội

Có người trong anh chị em gây ra điều buồn rầu, không phải cho tôi mà là cho anh chị em. Tôi muốn nói là người ấy gây buồn cho tất cả chúng ta ít nhiều. Tôi không muốn phóng đại làm gì. Sự trừng phạt mà hầu hết anh chị em làm cho người đó đã đủ rồi. Nhưng bây giờ anh chị em nên tha thứ và an ủi người ấy để họ không quá buồn bã đến nỗi muốn bỏ cuộc. Cho nên tôi xin anh chị em hãy tiếp tục chứng tỏ tình yêu thương với người ấy. Tôi viết để thử xem anh chị em có vâng theo mọi việc hay không. 10 Nếu anh chị em tha thứ ai thì tôi cũng tha thứ người ấy. Và điều tôi tha—nếu có gì để tha—là vì anh chị em, giống như Chúa Cứu Thế đang ở cùng tôi. 11 Tôi làm như thế để Sa-tăng không thể lợi dụng, vì chúng ta đã rõ âm mưu của nó.

Nỗi lo âu của Phao-lô đang khi ở Trô-ách

12 Khi tôi đến thành Trô-ách để rao giảng Tin Mừng của Chúa Cứu Thế thì thấy Ngài đã cho tôi một cơ hội tốt tại đó. 13 Nhưng tôi không an tâm vì không gặp anh em tôi là Tít ở đó. Cho nên tôi từ giã các anh chị em ở Trô-ách để lên đường qua Ma-xê-đoan.

Sự đắc thắng trong Chúa Cứu Thế

14 Nhưng tạ ơn Thượng Đế, Đấng lúc nào cũng đưa chúng ta đến đắc thắng trong Chúa Cứu Thế. Ngài dùng chúng tôi rải sự hiểu biết về Ngài khắp nơi như hương thơm. 15 Của lễ chúng tôi dâng cho Thượng Đế là hương thơm của Chúa Cứu Thế ở giữa những người được cứu và những người bị chết mất. 16 Đối với những kẻ bị chết mất, chúng tôi là mùi của sự chết đưa đến cái chết, nhưng đối với người được cứu, chúng tôi là mùi thơm của sự sống đưa đến sự sống. Ai có thể làm được điều ấy? 17 Chúng tôi không thủ lợi bằng cách buôn bán lời của Thượng Đế như nhiều người khác đã làm nhưng trong Chúa Cứu Thế chúng tôi nói ra lời chân thật như những sứ giả của Thượng Đế đứng trước mặt Ngài.

Đầy tớ của giao ước mới

Có phải chúng tôi lại bắt đầu tự khoe khoang rồi chăng? Chúng tôi có cần thư giới thiệu đến cho anh chị em hoặc từ anh chị em như những người khác không? Chính anh chị em là bức thư ấy, viết trên lòng chúng tôi, mọi người đều biết và đọc. Anh chị em chứng tỏ rằng mình là bức thư từ Chúa Cứu Thế gởi qua chúng tôi. Thư ấy không viết bằng mực mà bằng Thánh Linh của Thượng Đế hằng sống. Không phải viết trên bảng đá [b] mà là trên lòng người.

Chúng tôi dám nói như thế là vì qua Chúa Cứu Thế chúng tôi tin chắc nơi Thượng Đế. Chúng tôi không dám bảo rằng tự mình làm nổi việc gì nhưng Thượng Đế là Đấng giúp chúng tôi. Ngài khiến chúng tôi trở thành đầy tớ phục vụ giao ước mới kết lập giữa Ngài và dân chúng của Ngài. Giao ước mới nầy không phải là luật pháp viết bằng chữ mà là do Thánh Linh. Luật viết bằng chữ đưa đến sự chết nhưng Thánh Linh dẫn đến sự sống.

Giao ước mới mang đến vinh hiển lớn hơn

Nếu hệ thống cũ [c] vốn đưa đến sự chết đã được viết bằng chữ trên bảng đá, được trao cùng với vinh quang của Thượng Đế khiến gương mặt Mô-se sáng rực đến nỗi dân Ít-ra-en không thể nhìn. Sau đó vinh quang ấy biến mất. Huống hồ khi hệ thống mới do Thánh Linh mang đến lại còn vinh quang hơn thế nào nữa. Nếu giao ước cũ vốn kết tội loài người còn vinh quang như vậy thì huống hồ giao ước mới khiến con người hòa thuận lại với Thượng Đế sẽ vinh quang rực rỡ đến mức nào. 10 Hệ thống cũ có vinh quang nhưng vinh quang ấy bị lu mờ khi so với vinh quang rực rỡ hơn của hệ thống mới. 11 Nếu hệ thống cũ vốn biến mất mà còn có vinh quang thì hệ thống mới vốn còn đời đời sẽ có vinh quang rực rỡ đến mức nào.

12 Vì có hi vọng ấy nên chúng ta rất bạo dạn. 13 Không giống như Mô-se phải lấy khăn che để dân Ít-ra-en không thấy mặt mình. Vinh quang ấy dần dần biến đi còn Mô-se thì không muốn họ thấy nó biến mất. 14 Nhưng trí họ bị khép kín, cho nên đến ngày nay khi nghe đọc giao ước cũ [d] thì họ vẫn còn như bị cái màn che khuất. Chỉ có Chúa Cứu Thế mới cất cái màn ấy khỏi họ thôi. 15 Đến nỗi đến ngày nay, khi đọc luật Mô-se, trí họ vẫn như bị cái màn che. 16 Nhưng khi họ thay đổi và trở lại theo Chúa thì cái màn ấy sẽ bị lấy đi. 17 Chúa là Thánh Linh. Hễ Thánh Linh của Chúa ở đâu thì nơi đó có tự do. 18 Chúng ta không phải che mặt vì chúng ta thấy vinh quang của Chúa và chúng ta đã được biến hóa trở nên giống như Ngài. Sự biến hóa ấy trong chúng ta càng mang vinh quang rực rỡ hơn nữa vì vinh quang đó đến từ Chúa là Thánh Linh.

Giảng Tin Mừng

Thượng Đế, Đấng giàu lòng thương xót, trao cho chúng tôi công tác nầy, nên chúng tôi không bỏ cuộc. Nhưng chúng tôi đã từ bỏ những lối hư xấu và lén lút cũ. Chúng tôi không dùng mưu mẹo và cũng không tráo đổi lời dạy của Thượng Đế. Chúng tôi giảng dạy sự thật một cách rõ ràng, cho mọi người thấy chúng tôi là ai để trong lòng họ biết chúng tôi là người thế nào trước mặt Thượng Đế. Nếu Tin Mừng mà chúng tôi rao giảng bị che khuất, là chỉ che khuất với những người bị chết mất thôi. Ma quỉ là kẻ thống trị [e] đời nầy làm mù tâm trí những người không tin. Họ không thể nhìn thấy ánh sáng của Tin Mừng—tức Tin Mừng về sự vinh hiển của Chúa Cứu Thế, hình ảnh của Thượng Đế. Chúng tôi không giảng về chính mình nhưng giảng rằng Chúa Cứu Thế Giê-xu là Chúa và vì Ngài chúng tôi làm tôi tớ phục vụ anh chị em. Thượng Đế xưa kia đã phán, “Ánh sáng phải chiếu ra từ trong tối tăm!” [f] Cũng chính Thượng Đế ấy đã khiến ánh sáng Ngài soi trong lòng chúng tôi để chúng tôi biết vinh hiển của Thượng Đế nơi gương mặt của Chúa Cứu Thế.

Của báu thiêng liêng đựng trong bình đất

Chúng tôi nhận được của báu nầy từ Thượng Đế nhưng chúng tôi chẳng khác nào cái bình bằng đất dùng đựng của báu ấy. Như thế để chứng tỏ rằng quyền năng lớn lao là do Thượng Đế đến chứ không phải do chúng tôi. Chúng tôi bị vây khốn nhưng không bị đè bẹp, bị bối rối nhưng không tuyệt vọng. Chúng tôi bị hành hại nhưng Thượng Đế không lìa bỏ chúng tôi. Đôi khi chúng tôi bị tổn thương nhưng chưa chết. 10 Chúng tôi mang cái chết của Chúa Giê-xu trong thân thể để sự sống của Ngài cũng được tỏ ra trong thân thể chúng tôi. 11 Tuy rằng chúng tôi sống, nhưng vì Chúa Giê-xu, chúng tôi luôn luôn gặp nguy hiểm, kề cái chết để sự sống của Ngài tỏ ra trong thân thể chết của chúng tôi. 12 Cho nên sự chết hành động trong chúng tôi còn sự sống hành động trong anh chị em.

13 Như Thánh Kinh viết, “Tôi tin nên tôi nói.” [g] Đức tin của chúng tôi cũng như thế. Chúng tôi tin nên mới nói. 14 Thượng Đế đã khiến Chúa Giê-xu sống lại từ kẻ chết nên chúng tôi tin rằng Ngài cũng sẽ khiến chúng tôi sống lại với Chúa Giê-xu và đặt chúng tôi cùng anh chị em đứng trước mặt Ngài. 15 Mọi điều ấy được thực hiện vì ích lợi cho anh chị em để ân phúc Thượng Đế được ban cho nhiều người, để họ tạ ơn vì sự vinh hiển của Ngài càng tràn ngập.

Sống bằng đức tin

16 Cho nên chúng tôi không thất vọng, dù thân xác bề ngoài càng ngày càng già yếu nhưng tinh thần bên trong mỗi ngày một đổi mới. 17 Hiện chúng tôi đang gặp ít nhiều khó khăn tạm nhưng những điều ấy chuẩn bị cho chúng tôi nhận được vinh hiển đời đời vô hạn. 18 Chúng ta không đặt tầm mắt mình trên điều thấy được mà trên điều không thấy được. Vì điều thấy được chỉ tạm thời thôi nhưng điều không thấy được mới còn đời đời.

Footnotes

  1. II Cô-rinh-tô 1:21 chúng ta … Ngài chọn Nguyên văn, “xức dầu cho chúng ta.”
  2. II Cô-rinh-tô 3:3 bảng đá Luật lệ Mô-se được viết trên bảng khắc bằng đá. Xem câu 7 và Xuất 24:12; 25:16.
  3. II Cô-rinh-tô 3:7 hệ thống cũ Hay “giao ước cũ.” Trong câu 7-11 nguyên văn nghĩa là “chức vụ” hay “mục vụ.”
  4. II Cô-rinh-tô 3:14 giao ước cũ Xem Bảng Giải Thích Từ Ngữ. Ở đây từ ngữ nầy được dùng để chỉ luật lệ Mô-se mà giao ước ấy dùng làm nền tảng.
  5. II Cô-rinh-tô 4:4 kẻ thống trị Nguyên văn, “chúa.”
  6. II Cô-rinh-tô 4:6 Ánh sáng … tối tăm Xem Sáng 1:3.
  7. II Cô-rinh-tô 4:13 Tôi tin … tôi nói Thi 116:10.

Lời Mở Ðầu

Phao-lô, theo ý muốn Ðức Chúa Trời làm sứ đồ của Ðức Chúa Jesus Christ, và Ti-mô-thê anh em chúng ta, kính gởi hội thánh của Ðức Chúa Trời tại Cô-rinh-tô với tất cả các thánh đồ ở khắp miền A-chai. Nguyện xin ân sủng và bình an từ Ðức Chúa Trời, Cha chúng ta, và từ Ðức Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta, đến với anh chị em.

Cảm Tạ Sau Khi Chịu Khổ

Tôn ngợi Ðức Chúa Trời, Cha của Ðức Chúa Jesus Christ, Chúa chúng ta. Ngài là Cha thương xót và Ðức Chúa Trời của mọi niềm an ủi. Ngài an ủi chúng ta trong mọi cơn đau buồn, để chúng ta có thể an ủi những người khác trong mọi cơn đau buồn của họ bằng niềm an ủi mà chính chúng ta đã được Ðức Chúa Trời an ủi. Vì khi chúng ta càng mang lấy những đau đớn của Ðấng Christ nhiều bao nhiêu, thì nhờ Ðấng Christ chúng ta càng nhận được nhiều an ủi bấy nhiêu.

Nếu chúng tôi phải mang lấy đau buồn ấy là để anh chị em được an ủi và được cứu. Nếu chúng tôi được an ủi ấy là để anh chị em được an ủi, và kinh nghiệm đó sẽ tạo cho anh chị em khả năng chịu đựng những đau đớn, giống như những đau đớn chúng tôi đã từng chịu. Hy vọng của chúng tôi về anh chị em thật vững chắc, vì chúng tôi biết rằng anh chị em chia sẻ những đau đớn với chúng tôi thể nào, anh chị em cũng sẽ chia sẻ niềm an ủi với chúng tôi thể ấy.

Thưa anh chị em,[a] chúng tôi không muốn anh chị em không biết về những đau buồn đã xảy ra cho chúng tôi ở vùng A-si-a; những đau buồn ấy thật lớn lao, quá sức chịu đựng, khiến chúng tôi gần tuyệt vọng, tưởng hết hy vọng còn sống rồi. Thật vậy chúng tôi có cảm tưởng như đã lãnh bản án tử hình, nên chúng tôi không cậy vào mình nữa, nhưng cậy hoàn toàn vào Ðức Chúa Trời, Ðấng làm cho người chết sống lại. 10 Ngài đã cứu chúng tôi thoát khỏi cái chết cận kề như thế, và Ngài sẽ tiếp tục giải cứu chúng tôi. Chúng tôi đặt hy vọng hoàn toàn nơi Ngài rằng Ngài sẽ tiếp tục giải cứu chúng tôi. 11 Xin anh chị em hỗ trợ chúng tôi trong lời cầu nguyện, để nhờ nhiều người cầu thay mà chúng tôi được ơn, và do đó nhiều người sẽ vì cớ chúng tôi dâng lời tạ ơn Chúa.

Giải Thích Sự Thay Ðổi Chương Trình

12 Ðiều chúng tôi hãnh diện là thế này, và có lương tâm chúng tôi làm chứng: Chúng tôi cư xử giữa thế gian và đặc biệt với anh chị em bằng sự đơn thành và chân thật của Ðức Chúa Trời, không bằng sự khôn ngoan xác thịt, nhưng bằng ân sủng của Ðức Chúa Trời. 13 Vì chúng tôi viết cho anh chị em không gì khác hơn những điều anh chị em đã đọc và hiểu. Tôi hy vọng anh chị em sẽ thấu hiểu tận tường 14 –như anh chị em đã hiểu chúng tôi phần nào– rằng trong ngày của Ðức Chúa Jesus, Chúa chúng ta, chúng tôi là niềm hãnh diện của anh chị em, cũng như anh chị em là niềm hãnh diện của chúng tôi.

15 Với niềm tin quả quyết đó, tôi dự tính sẽ đến thăm anh chị em trước, để anh chị em có thể được phước thêm lần thứ nhì. 16 Tôi muốn ghé thăm anh chị em trên đường đến Ma-xê-đô-ni-a; sau đó tôi sẽ từ Ma-xê-đô-ni-a trở lại với anh chị em, để nhờ anh chị em đưa tôi về Giu-đê. 17 Tôi dự tính như thế có phải là tôi cứ đổi tới đổi lui chăng? Hay những gì tôi dự tính là dự tính theo xác thịt, nên cứ nói “Phải, Phải” và “Không, Không” cùng một lúc chăng? 18 Có Ðức Chúa Trời là Ðấng Thành Tín biết, lời chúng tôi nói với anh chị em không phải là vừa “Phải” và vừa “Không.” 19 Vì Con Ðức Chúa Trời là Ðức Chúa Jesus Christ, Ðấng chúng tôi –tức tôi, Sin-va-nu, và Ti-mô-thê– đã rao giảng cho anh chị em không phải là vừa “Phải” và vừa “Không,” nhưng trong Ngài luôn luôn là “Phải.” 20 Vì bất kể bao nhiêu lời hứa Ðức Chúa Trời đã hứa, trong Ngài chúng đều được trả lời là “Phải” cả. Vì thế nhờ Ngài chúng ta có thể nói “A-men,” và dâng vinh hiển về Ðức Chúa Trời.

21 Chính Ðức Chúa Trời đã lập vững chúng tôi với anh chị em trong Ðấng Christ, và đã xức dầu cho chúng tôi. 22 Ngài cũng đã đóng ấn trên chúng ta và ban Ðức Thánh Linh vào lòng chúng ta để làm bảo chứng.

23 Tôi cầu xin Ðức Chúa Trời làm chứng cho linh hồn tôi rằng tôi chưa trở lại Cô-rinh-tô như dự tính bởi vì tôi muốn bỏ qua cho anh chị em. 24 Tôi không có ý ám chỉ rằng chúng tôi có quyền gì trên đức tin của anh chị em, nhưng chúng tôi chỉ muốn làm những bạn đồng lao với anh chị em để phục vụ niềm vui của anh chị em, vì anh chị em đang đứng vững trong đức tin của mình.

Vì thế tôi đã quyết định không trở lại thăm để khỏi làm anh chị em đau buồn. Vì nếu tôi đã làm anh chị em đau buồn, thì ai sẽ là người làm tôi vui trở lại, nếu không phải là những người tôi đã làm đau buồn? Tôi viết điều này cho anh chị em để khi tôi đến, tôi sẽ không bị đau buồn bởi những người đáng lý phải làm tôi vui; nhưng tôi tin tưởng nơi anh chị em rằng tất cả anh chị em sẽ lấy niềm vui của tôi làm niềm vui của mình. Vì tôi viết cho anh chị em mà trong lòng buồn đau và quặn thắt, với nước mắt dầm dề, không phải để làm anh chị em đau buồn, nhưng để anh chị em biết rằng tôi thương anh chị em tha thiết biết bao.

Tha Thứ Kẻ Phạm Tội

Nếu người nào đã gây nên đau buồn, người ấy không chỉ đã làm tôi đau buồn, nhưng ít nhiều cũng đã làm tất cả anh chị em đau buồn nữa; tôi không nói quá lời đâu. Người ấy đã bị đa số anh chị em trừng phạt như vậy cũng đủ rồi, nên bây giờ xin anh chị em làm ngược lại mà tha thứ và an ủi người ấy, kẻo người ấy bị sự đau buồn quá lớn nuốt mất. Vậy tôi khuyên anh chị em hãy tái xác nhận cho người ấy biết rằng anh chị em vẫn còn yêu thương người ấy. Vì mục đích đó mà tôi đã viết cho anh chị em, để thử xem anh chị em có vâng lời trong mọi sự chăng. 10 Bây giờ hễ anh chị em tha thứ ai, thì tôi cũng tha thứ người ấy. Nếu tôi tha thứ ai, ấy là vì cớ anh chị em mà tha thứ trước mặt Ðấng Christ, 11 để Sa-tan không thể thừa cơ đánh phá chúng ta, vì chúng ta không lạ gì mưu chước của nó.

Mối Quan Tâm của Phao-lô Khi Ở Trô-ách

12 Khi tôi đến Trô-ách để rao giảng Tin Mừng của Ðấng Christ, Chúa đã mở một cánh cửa cho tôi ở đó, 13 nhưng tôi không được an tâm, vì tôi không tìm được anh em tôi là Tít ở đó, nên tôi đành tạm biệt họ để đi qua Ma-xê-đô-ni-a.

Ðắc Thắng Nhờ Ðấng Christ

14 Nhưng tạ ơn Ðức Chúa Trời, vì Ngài luôn luôn làm cho chúng tôi được đắc thắng vẻ vang trong Ðấng Christ, và đã dùng chúng tôi tỏa lan mùi thơm về sự hiểu biết Ngài ra khắp nơi. 15 Vì chúng tôi là hương thơm của Ðấng Christ được dâng lên Ðức Chúa Trời giữa những người được cứu và những người bị hư mất. 16 Ðối với những người bị hư mất, chúng tôi là mùi tử khí để họ biết rằng họ đang tiến dần đến sự chết, nhưng đối với những người được cứu, chúng tôi là mùi sinh khí dẫn họ đến sự sống. Ai có khả năng làm những điều ấy chăng? 17 Thật vậy chúng tôi không rao giảng lời[b] của Ðức Chúa Trời để kiếm sống như nhiều người đang làm, nhưng với tư cách là những người được Ðức Chúa Trời sai phái trong Ðấng Christ, chúng tôi đã rao giảng cách chân thành trước mặt Ðức Chúa Trời.

Các Ðầy Tớ của Giao Ước Mới

Có phải chúng tôi lại bắt đầu nói về mình chăng? Chúng tôi phải cần ai viết thư giới thiệu chúng tôi với anh chị em hay nhờ anh chị em viết thư giới thiệu chúng tôi với ai như mấy người khác chăng? Chính anh chị em là bức thư của chúng tôi, được viết trong lòng chúng tôi, được mọi người biết và đọc. Anh chị em đã chứng tỏ rằng anh chị em là bức thư của Ðấng Christ, là kết quả của chức vụ chúng tôi, không phải viết bằng mực, nhưng bằng Ðức Thánh Linh của Ðức Chúa Trời hằng sống, không phải viết trên những bảng bằng đá, nhưng trên những bảng bằng thịt của lòng người.

Nhờ Ðấng Christ chúng tôi có được niềm tin vững vàng như thế về Ðức Chúa Trời. Chúng tôi không cho rằng nhờ khả năng mình mà chúng tôi đã làm được việc gì, nhưng khả năng chúng tôi có được là do Ðức Chúa Trời ban. Ngài là Ðấng đã ban cho chúng tôi khả năng làm những đầy tớ của giao ước mới, không phải giao ước bằng văn tự, nhưng giao ước bằng Ðức Thánh Linh, vì văn tự giết chết, nhưng Ðức Thánh Linh làm cho sống.

Vậy nếu chức vụ của sự chết được ghi khắc bằng văn tự trên những bảng đá mà còn được vinh hiển dường ấy, đến nỗi dân I-sơ-ra-ên không thể nhìn vào mặt Môi-se vì hào quang rực rỡ nhưng chóng phai tàn trên mặt ông, thì chức vụ của Ðức Thánh Linh lại càng không vinh hiển nhiều hơn sao? Vì nếu chức vụ của sự kết án mà còn được vinh hiển dường ấy, thì chức vụ của sự công chính càng được vinh hiển nhiều hơn biết dường nào. 10 Thật vậy về trường hợp này, những gì vốn đã vinh hiển không còn được vinh hiển nữa, vì vinh hiển sau quá rực rỡ. 11 Vì nếu những gì chóng qua mà còn được vinh hiển như thế, thì những gì trường tồn sẽ được vinh hiển nhiều hơn biết dường bao.

12 Vì có niềm hy vọng như thế, nên chúng tôi đã hành động rất bạo dạn. 13 Chúng tôi không như Môi-se, người phải lấy một tấm màn che mặt lại, để dân I-sơ-ra-ên khỏi nhìn thấy ánh hào quang chóng phai tàn. 14 Thế mà tâm trí họ vẫn tối tăm, vì cho đến ngày nay, khi đọc Cựu Ước, tấm màn che ấy vẫn còn chưa được gỡ đi, bởi vì chỉ trong Ðấng Christ tấm màn ấy mới bị bỏ đi. 15 Nhưng cho đến ngày nay, mỗi khi nghe đọc Luật Pháp của Môi-se, tấm màn che kín lòng họ vẫn còn đó. 16 Chỉ khi nào một người quay về với Chúa, tấm màn ấy mới được cất khỏi người ấy. 17 Chúa là Ðức Thánh Linh; nơi nào có Ðức Thánh Linh của Chúa, nơi đó có tự do. 18 Tất cả chúng ta để mặt không màn che ngắm xem vinh hiển của Chúa như thể được phản chiếu qua một tấm gương, và nhờ Chúa là Ðức Thánh Linh, chúng ta đang được biến đổi dần dần để trở nên giống như hình ảnh Ngài, từ mức độ vinh hiển bình thường đến mức độ cực kỳ vinh hiển.

Bửu Vật trong Bình Ðất

Vì vậy nhờ ơn thương xót của Ðức Chúa Trời, chúng tôi được giao cho chức vụ này, nên chúng tôi chẳng ngã lòng. Ngược lại chúng tôi khước từ mọi đường lối ám muội và đáng xấu hổ. Chúng tôi không sử dụng những phương thức xảo quyệt hoặc giả mạo lời của Ðức Chúa Trời, nhưng cứ thẳng thắn trình bày chân lý và để lương tâm mọi người nhận định về chúng tôi trước mặt Ðức Chúa Trời. Nếu Tin Mừng chúng tôi rao giảng bị che khuất ấy là bị che khuất đối với những kẻ đang chết mất, vì thần của đời này đã làm mù tâm trí những kẻ không tin để họ không trông thấy ánh sáng của Tin Mừng đang tỏa rạng vinh quang của Ðấng Christ, là hình ảnh của Ðức Chúa Trời. Vì chúng tôi chẳng giảng về chính mình nhưng giảng về Ðức Chúa Jesus Christ là Chúa, và vì cớ Ðức Chúa Jesus, chúng tôi là đầy tớ của anh chị em, vì Ðức Chúa Trời là Ðấng đã phán,

“Ánh sáng hãy chiếu ra từ cõi tối tăm,”Sáng 1:3

đã chiếu sáng lòng chúng tôi, ban cho chúng tôi ánh sáng của trí tuệ để nhận biết vinh hiển của Ðức Chúa Trời đang rạng ngời trên gương mặt Ðức Chúa Jesus Christ.

Chúng tôi đựng bửu vật này trong những bình bằng đất để bày tỏ rằng quyền năng diệu kỳ là của Ðức Chúa Trời, chứ không phải của chúng tôi. Chúng tôi bị áp lực đủ mọi mặt nhưng không bị nghiền nát, bị bối rối nhưng không hề tuyệt vọng, bị bách hại nhưng không bị bỏ rơi, bị quật ngã nhưng không bị tiêu diệt. 10 Chúng tôi luôn mang sự chết của Ðức Chúa Jesus trong thân thể mình, để sự sống của Ðức Chúa Jesus cũng được thể hiện trong thân thể chúng tôi. 11 Dù chúng tôi đang sống, nhưng vì cớ Ðức Chúa Jesus lúc nào chúng tôi cũng sẵn sàng chết, để sự sống của Ðức Chúa Jesus được thể hiện trong thân thể sẽ chết của chúng tôi. 12 Thế thì sự chết đang hành động trong chúng tôi, nhưng sự sống đang hành động trong anh chị em.

13 Do có cùng một tinh thần đức tin như lời đã chép,

“Tôi tin nên tôi nói,”Thi 116:10 LXX

chúng tôi cũng tin nên chúng tôi cũng nói; 14 vì chúng tôi biết rằng Ðấng đã làm cho Ðức Chúa Jesus sống lại cũng sẽ làm cho chúng ta sống lại với Ðức Chúa Jesus và sẽ đem chúng tôi và anh chị em đến trình diện trước mặt Ngài.

15 Vậy mọi sự đã được thực hiện vì cớ anh chị em, để có nhiều người nhận được ân sủng của Ðức Chúa Trời hơn, và sự tạ ơn Ngài nhờ thế được gia tăng nhiều hơn, hầu đem vinh hiển về Ðức Chúa Trời.

Sống Bởi Ðức Tin

16 Vì vậy chúng ta không ngã lòng; dù con người bên ngoài đang tàn tạ, nhưng con người bên trong vẫn mỗi ngày một đổi mới. 17 Vì hoạn nạn tạm và nhẹ của chúng ta hiện nay sẽ đem lại cho chúng ta vinh hiển đời đời vô lượng vô biên, 18 bởi chúng ta không nhìn chăm vào những gì thấy được, nhưng vào những gì không thấy được, vì những gì thấy được chỉ là tạm thời, còn những gì không thấy được mới là đời đời bất diệt.

Footnotes

  1. II Cô-rinh-tô 1:8 nt: anh em (tương tự cho cả sách)
  2. II Cô-rinh-tô 2:17 ctd: đạo (Greek: Lógos)